
Những Điềm Báo Trước Cho Năm 1975
• •
Vào
cuối năm 1974 thì chính phủ chúng tôi đã có đi đến kết luận với một bản
phân tách về tình hình chiến sự. Một phiên họp thượng đỉnh đã được
triệu tập tại Dinh Độc Lập vào ngày 6 tháng chạp năm 1974, và cũng như
thường lệ, đã do Tổng Thống chủ tọa. Các thành viên của Hội Đồng An ninh
Quốc Gia đã có mặt, cũng như là toàn thể các vị chỉ huy quân khu và bộ
trưởng. Đã có dự liệu là trong năm 1975 thì địch sẽ rất có khả năng phát
động một cuộc tổng tấn công, nhằm trùng hợp và cũng để phá hoại cuộc
bầu cử tổng thống mà đã được dự liệu vào tháng 10, và nhân cuộc tranh cử
bầu tổng thống Hoa Kỳ trong năm 1976. Cán cân quân sự thì rõ ràng
nghiêng một cách thuận lợi về phía địch; chúng đã tồn trử đủ quân nhu
quân liệu để phục vụ cho một cuộc tấn công với tầm mức quy mô trong một
thời gian liên tục kéo dài được tới cả mười tám tháng trời với một mực
độ ác liệt tương đương với kỳ 1972.
• •
Vì
không có được chỉ thị hướng dẫn đặc biệt nào của Tổng Thống, Bộ Tổng
Tham Mưu đã phải tự động chuẩn bị kế hoặch đối phó với dự đoán địch sẽ
hành động ra sao trong tương lai. Mối âu lo chính của chúng tôi đã là
làm sao mà tái lập cho được một thành phần tổng trừ bị khả dụng tức thì
nào đó.
• •
V. CÁI KHỞI ĐẦU CỦA HỒI KẾT THÚC
Suốt
hai năm 1973 và 1974, địch đã không thành công để chiếm giữ cho được
bất kỳ thủ phủ tỉnh nào cả. Cũng có lúc này hay lúc khác, chúng có nhắm
vào Kontum hay Tây Ninh, nhưng cả hai đều nằm ngoài vòng tay với của
chúng. Do đó, chúng bèn quay về Phước Long, thủ phủ tỉnh cực bắc nhất
của Quân khu III, và đã chuẩn bị tấn công bằng hai sư đoàn bộ đội được
tăng cường thêm một trung đoàn bộ đội khác cùng một trung đoàn tăng, một
trung đoàn phòng không, một trung đoàn pháo dã chiến, cùng nhiều đơn vị
đặc công (thuộc công binh).
Dạo
đầu tháng 10 năm 1974 thì Bộ Tổng Tham Mưu cũng đã đúc kết xong đủ tin
tức về các chuẩn bị cùng kế hoặch của địch qua những tin tình báo, các
điệp viên cũng như là các tù binh, để tiên liệu được là địch sẽ tấn công
Phước Long. Tin tức này đã được thông tri rât nhiều lần cho bộ chỉ huy
Quân khu III, cũng như là bộ chỉ huy tiểu khu Phước Long, và mỗi lần như
vậy, thì họ cũng đã được cập nhật hóa về các biến chuyển mới nhất. Do đó, thì đã không hề có vấn đề bất ngờ, khi cuộc tấn công của địch đã khởi sự vào cuối tháng chạp năm 1974.
• •
Bình
thường thì Tỉnh Phước Long cũng được tiếp tế bằng xe cam-nhông xuyên
qua Xuyên Tỉnh Lộ 1A với Quốc lộ 14. Sản phẫm của địa phương thì cũng
được chở về Sài-gòn bằng cùng lộ trình. Tuy nhiên chỉ ngay một tuần sau
khi ngưng bắn, thì địch đã cắt đứt được con đường tiếp tế huyết mạch này
tại nhiều chổ. Sau đó thì trực thăng và phi cơ cánh quạt đã là các
phương tiện chính được dùng để tiếp tế cho thành phố cùng bốn quận lỵ.
Nhu cầu hàng tháng đã là từ 400 đến 500 tấn, đa số là gạo, muối, đường,
đạn dược và nhiên liệu. Bắt đầu từ tháng 8 năm 1974 thì Quân khu III có
cố gắng phối hợp với Quân khu II để khai thông Quốc lộ 14. Chiến dịch
cũng có phần nào giúp nhẹ gánh cho công tác không vận, mà sau đó thì chỉ
còn phụ trách về những món thiết yếu như là đạn dược, nhiên liệu cùng
tiếp tế về y khoa. Tuy nhiên vào ngày 14 tháng chạp năm 1974 thì quận lỵ
Đức Phong mà vị trí nằm vắt ngang con đường tiếp tế, đã bị Cộng sản
tràn chiếm, và Phước Long lại phải bị lệ thuộc vào không vận để được
tiếp tế mà thôi. Mà không vận thì lại ngày càng cực kỳ nguy hiểm và
không còn bảo đãm nữa được vì cường độ hỏa lực phòng không của địch.
• •
Trận
Phước Long đã bắt đầu từ cuối tháng chạp năm 1974 và chấm dứt vào ngày 6
tháng giêng năm 1975 . . . Tối 30 tháng chạp năm 1974, Sư đoàn 7 bộ đội
Bắc Việt cùng Sư đoàn 3 vừa mới được thành lập cùng tấn công vào quận
lỵ Phước Bình, mà vị trí thì nằm ngay thuộc chu vi phòng thủ tỉnh lỵ.
Quân địch đã được sự tiếp sức của một trung đoàn tăng và pháo binh. Trận
chiến diển ra thật ác liệt từ sáng tới gần tối thì bộ chỉ huy quận bị
trúng pháo nặng và trung tâm hành quân bị tiêu hủy.
• •
Tới
7 giờ sáng ngày 1 thì địch bắt đầu tấng công từ phía nam với sự yểm trợ
của tăng vào thị xã Phước Long, nhưng đã bị đánh chận lại được tại chân
ngọn đồi dẫn lên thị xã. Cùng lúc đó thì địch cũng bao vây và lần này
thì đánh chiếm được Núi Bà Rá, bất kể sự yểm trợ tối đa của không quân
ta. Liền ngay sau khi chiếm được Núi Bà Rá, địch bèn thiết lập các tổ
điều nghiên pháo và rồi các khẩu 130 ly của chúng bắt đầu bắn trúng được
thật là chính xác các mục tiêu trong thị xã. Tám khẩu 105 ly cùng bốn
khẩu 155 ly đã bị trúng hỏa lực chính xác này của địch vá tới ngày 3 thì
tất cả hoàn toàn không còn sử dụng được nữa. Liên lạc với thị xã nhiều
lần đã bị gián đoạn. Nhân khi trận chiến đang tiếp diễn thì địch cũng đã
bố trí được nhiều ổ phòng không trên núi Bà Rá, và tình hình trở thành
cực kỳ là khó khăn cho không quân của ta, nhất là trực thăng, để có thể
tới gần được. Nhờ các vị trí phòng thủ tiện lợi cùng sự yểm trợ hữu hiệu
của không quân, binh lính trong thị xã đã thành công đẩy lui được nhiều
cuộc tấn công của địch có tăng yểm trợ tại chu vi phòng thủ phía nam.
Họ giữ vững được nguyên suốt ngày 2. Không quân cùng bộ binh ta đã bắn
cháy tới mười lăm tăng địch. Vị tỉnh trưởng đã yêu cầu được di tản các
thương binh cũng như là được tiếp tế thêm về vật liệu, cùng được tăng
cường thêm binh sĩ. Tuy nhiên tới 6 giờ chiều thì trạm truyền tin chuyển
tiếp của chúng tôi trên Núi Bà Rá cuối cùng cũng đã bị đánh chiếm và
liên lạc với thị xã chấm dứt.
Cùng
ngày đó, tức là vào ngày 2, Tổng Thống Thiệu đã chủ tọa một buổi họp
khẩn cấp tại Dinh Độc Lập. Cùng hiện diện đã có Phó Tổng Thống Hương,
Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Trung Tướng Đặng Văn Quang, phụ tá về an
ninh của Tổng Thống, Trung Tướng Trần Văn Minh, tư lệnh không quân,
Trung Tướng Dư Quốc Đống, tư lệnh Quân Khu III, Trung Tướng Đồng Văn
Khuyên, trưởng phòng nhân viên Bộ Tổng Tham Mưu và cũng là vị tướng chỉ
huy Bộ Chỉ Huy Tiếp Liệu Trung Ương và chính tôi trong tư cách Tham Mưu
Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu. Đề tài thảo luận là liệu có nên tăng cường cho
Phước Long hay không, và nếu có, thì sẽ là bao nhiêu về binh lính lẫn
các phương tiện khác.
Trên
cương vị là Tư lệnh Quân khu III, Tướng Đống, sau khi thuyết trình ngắn
gọn về tình hình Quân khu III và đăc biệt là Phước Long, đã đề nghị ít
nhất là cần them một sư đoàn bộ binh hay Sư đàn Dù. Kế hoặch của ông ta
đã là một chiến dịch giải vây bằng cách trực thăng vận sư đoàn đó vào
ngay trong thị xã từ phía bắc với sự yểm trợ tối đa của không quân chiến
thuật cùng trực thăng và những phi vụ tiếp tế. Rồi thì Tướng Đống tình
nguyện xin từ chức với lý do là mình bất tài trong việc cải thiện Quân
khu III kể từ khi mình nắm quyền cách đây đã ba tháng. Tổng Thống Thiệu
đã tức thì bác bỏ thỉnh cầu này và có vẻ quan tâm hơn về việc tái tăng
cường. Kế hoặc đã được nghiên cứu kỹ lưỡng nhưng rồi, cũng bị bác bỏ.
• •
Cuối
cùng thì đã đi đến quyết định là sẽ tăng cường cho Phước Long với những
khả năng đang có của Quân khu III mà thôi. Liên đoàn 81 Biệt cách Dù,
xét qua kinh nghiệm trận An Lộc năm 1972, cũng như khả năng tác chiến
trong rừng sâu mà do địch đang kiểm soát, đã được chọn cho sứ mệnh này.
Trách nhiệm của họ đã là phụ giúp bảo vệ chu vi phòng thủ phía nam của
thị xã, và ráng tái chiếm lại Núi Bà Rá.
• •
Vào
lúc 9 giờ sáng ngày 6 tháng giêng năm 1975 thì địch lại tái tấn công và
có tăng yểm trợ. Cuộc chiến đã khốc liệt diển ra suốt cả ngày trời. Tới
11 giờ khuya thì liên lạc với bộ chỉ huy tiểu khu bị mất nhưng với biệt
kích dù thì vẫn giữ được liên lạc vô tuyến. Tới giữa khuya, lúc 0 giờ
thì biệt kích dù chấm dứt bám trụ và từ từ rút ra khỏi thị xã . . . Từ
ngày 9 tới ngày 15 tháng giêng thì Bộ Chỉ Huy Liên đoàn 81 Biệt cách Dù
đã phải lo tổ chức hầu tìm và lo bốc cứu chính ngay các binh sĩ của họ .
. . Sau gần bốn ngày thì họ đã bốc được 121 biệt cách dù bằng trực
thăng. Như vậy thì liên đoàn cũng đã thiệt mất đến cả phân nữa thực lực.
Các binh sĩ cùng thường dân tại Phước Long cũng đã thành công bỏ chạy
trốn khỏi địch khắp nơi để cùng nhau về với phía Quốc gia. Tổng số hơn
1.000 người gồm cả thường dân, cảnh sát, Địa Phương Quân và binh sĩ của
Tiểu đoàn 2 Sư đoàn 7 Bộ Binh, nhân đó, đã được cứu để được đưa về
Sài-gòn. Nhưng vị tỉnh trưởng, vị quận trưởng
Phước Bình, vị tiểu đoàn trưởng và hơn cả 3.000 binh sĩ thì đã không
bao giờ về lại được vùng ta kiểm soát.
• •
Về
phương diện quân sự, khi đánh chiếm được Phước Long thì địch đã nới
rộng được tầm kiểm soát trong một khu vực lớn. Ba vùng đặt căn cứ hậu
cần của chúng thì nay đã được nối liền nhau thành một vòng cung được
khởi đầu từ biên giới Kampuchia, để rồi vắt ngang phía băc của Quân khu
III . . . Về phương diện tâm lý và chính trị, thì việc Phước Long, cái
tỉnh lỵ đầu tiên bị mất vĩnh viễn vào tay Cộng sản, đã là một cú xốc cho
cả người dân lẫn quân đội. Sự dửng dưng hoàn toàn của Hoa Kỳ, cùng các
nước không cộng khác, trước mất mát đau thương này, lại càng nhấn mạnh
vào lòng hoài nghi của người dân Việt về khả năng tồn tại của Hòa Ước
Ba-lê. Nay thì chắc chắn không còn được cái hy vọng là Mỹ sẽ triệt để
trừng trị Băc Việt khi chúng đã mặt dày mày dạn cố tình vi phạm thỏa
thuận ngưng bắn. Niềm tin của người dân vào quyền lực của quân đội cùng
chính phủ cũng bị cực kỳ rúng động. Đối với Cộng sản, thì vụ Phước Long
đã không chỉ đơn giản là một chiến thắng quân sự mà thôi. Với chúng, cái
chiến thắng về tâm lý và chính trị mới là quan trọng hơn. Đó
đã chính là cái bước đầu, để đi đến một cuộc chinh phục toàn vẹn về
quân sự, sẽ được quyết định một cách gan dạ nhưng rõ ràng là đã không hề
sợ bất kỳ phản ứng nào từ phía Hoa Kỳ cả . . .
Ban-mê-thuột
Thiếu
Tướng Phạm Văn Phú, người từng chỉ huy Sư đoàn 1 Bộ binh từ tháng 10
năm 1970 đến tháng 7 năm 1972, đã thay Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn trong
chức vụ Chỉ huy trưởng Quân khu II vào tháng chạp năm 1974, theo đề
nghị của Phó Tổng Thống Nguyễn Văn Hương, khi ông ta đòi hỏi phải cách
chức Tướng Toàn vì những cáo buộc về tham nhũng. Có vẻ như Tổng Thống
Thiệu đã đành phải miển cưỡng nghe theo lời nài nỉ của vị Phó Tổng
Thống, vì ông biết là bất chấp các tố cáo đó, thì Tướng Toàn cũng vẫn là
một vị chỉ huy tại chiến trường cực kỳ có khả năng. Tướng Toàn bị
chuyển về nắm chức chỉ huy thiết giáp, và vào ngày 5 tháng 2 năm 1975
thì cũng được bổ nhiệm để chỉ huy Quân khu III. Ông thay Tướng Đống mà
đã từ chức trong tháng trước. Việc thay đổi chỉ huy tại Quân khu II cũng đã đóng góp vào các biến chuyển khiến cuối cùng, Quân khu II đã sụp đổ tan hàng.
• •
Các
chuẩn bị cùng kế hoặch của địch cho một trận tấn công quy mô vào
Ban-mê-thuột nay đã thật rõ ràng . . . Phòng 2 của Quân khu II đã đúc
kết một cách đúng đáng, với ước lượng là sớm nhất là vào trung tuần của
tháng 2, nhưng rủi ro thay, là cảnh cáo này đã không được vị chỉ huy Quân khu nghiêm túc cân nhắc, vì
ông ta vẫn nghỉ là hành động di quân của địch về Ban-mê-thuột cũng chỉ
là kế nghi binh, hay nhiều lắm thì cũng chỉ có tính cách thứ yếu, và
chính Pleiku mới là mục tiêu chính của chúng. Do đó thì quân số của Quân
khu II cũng đã phản ảnh đúng theo với suy nghỉ của vị chỉ huy trưởng.
Toàn thể Sư đoàn 23 Bộ binh đã được trải chung quanh khu vực Pleiku, chỉ
để lại bảo vệ Ban-me-thuột có một nhóm biệt động quân cùng các đơn vị
tỉnh . . . mà đa số toàn là người sắc tộc Thượng. Vào
đầu tháng 3, khi được báo động là Sư đoàn 320 Bắc cộng đang kéo về
Ban-mê-thuột thì Quân khu II chỉ gởi về cho nơi đó một bộ chỉ huy đặc
nhiệm, cùng với một trung đoàn, là trung đoàn 53 của Sư đoàn 23 Bộ binh .
. .
Cùng
lúc thì địch cũng đã thành công đóng chốt khóa chận được lưu thông trên
Quốc lộ 21 nối liền Ban-mê-thuột về tới Nha trang. Tiểu khu Khánh Hòa đã
thất bại trong cuộc hành quân nhằm giải tỏa và đường đã cứ bị chận cứng
. . . tại gần năm mười dặm Anh hướng đông của Ban-mê-thuột. Tới ngày 5
tháng 3 năm 1975, thì địch tấn công và tràn ngập quận ly Thuận Mẫn nằm
trên Quốc lộ 14, độ chừng giữa Pleiku với Ban-mê-thuột. Do đó, thì liên
lạc giữa Ban-mê-thuột với Pleiku cùng Bộ Chỉ huy Quân khu II, cũng như
là với Nhatrang tại bờ biển, nay cũng thực sự bị phá vở khiến cho
Ban-mê-thuột hoàn toàn bị cô lập.
Trận
Ban-mê-thuột đã khởi đầu vào ngày 10 tháng 3 và chấm dứt ngày 18 cùng
tháng. Vào những giờ phút đầu trong ngày 10 tháng 3 thì Sư đoàn F-10 của
địch, với yểm trợ của tăng và pháo, đã bắt đầu giáp công ba mũi vào thị
xã.
• •
Trong
đêm 10 thì địch đã tăng cường thêm Sư đoàn 316. Địch bám sát bao quanh
bộ chỉ huy đặc nhiệm của Sư đoàn 23 và trận chiến càng ngày càng ác
liệt. Vị chỉ huy phó của Sư đoàn 23 tại hầm chỉ huy đặc nhiệm đã phải
yêu cầu được không trợ cận chiến. Không quân chiến thuật của chúng tôi
đã đánh bom thật chính xác và phá tan nhiều xe tăng địch. Nhưng thật xui
xẻo đã có một quả bị trúng vào ngay trung tâm hành quân chiến thuật của
sư đoàn và phá nát hoàn toàn mọi vật. Từ đó thì liên lạc với Bộ Chỉ huy
Quân đoàn hoàn toàn chấm dứt.
Tới
ngày 13 tháng 3 thì Liên đoàn 7 Biệt Động Quân đã được không vận từ
Quân khu III lên Pleiku và bàn giao cho Quân khu II để thay thế hai
Trung đoàn 44 và 45 của Sư đoàn 23, mà đã cùng được chuyển về
Ban-mê-thuột để ráng cứu thành phố đang bị bao vây, mà cũng có thể nói
là gần như đã do địch kiểm soát mất rồi. Vào ngày 14 tháng 3 hôm sau,
thì một lực lượng tiếp cứu gồm có Trung đoàn 45 và một tiểu đoàn của
Trung đoàn 44 đã được không vận đến Phước An, một quận lỵ nằm cách hai
mươi dặm Anh phía đông của Ban-mê-thuột, nơi mà các binh lính bảo vệ
thành phố, mà nay đã tan hàng, cùng với thân nhân và gần như là toàn thể
dân chúng, cũng đang kéo nhau tề tựu về đó. Rồi thì đoàn quân tiếp cứu
đã tiến lên rất ư là chậm chạp, cũng như các trận phản công đều vô hiệu,
một phần cũng do tinh thần binh sĩ vào lúc đó, mà đều cùng có gia đình
đang bị kẹt và bỏ lơ trong quận lỵ đó. Một số lớn quân nhân trong lực
lượng tiếp cứu đã bèn đào ngũ để trở về quận lỵ hầu tìm thân nhân của
mình.
Tới ngày 16 tháng 3 thì vị chỉ huy Sư đoàn 23 bị thương nhẹ 2 ► và
đã được di tản rời khỏi chiến trường. Ngày 18 thì địch tràn chiếm được
quận lỵ Phước An, cái căn cứ cuối cùng khả dĩ dùng được để tiếp cứu
Ban-mê-thuột. Mọi giao tranh trong thành phố đã chấm dứt và toàn thể
tỉnh Đắc-lắc nay đã bị địch kiểm soát mất rồi.
• •
Hậu
quả chính của việc Ban-mê-thuột thất thủ đã là không có đủ lực lượng
hầu bảo vệ thành phố khi địch bắt đầu tấn công. Chúng đã đạt được bất
ngờ về chiến thuật và càng quan trọng hơh, là đã có được lợi thế vượt
trội vế quân số, qua sự kiện là đã có được tới cả ba sư đoàn bộ đội với
tăng và pháo yểm trợ.Vị Tư lệnh Quân đoàn II
đã thất bại không tái xét định lại được tình hình lãnh thổ mình chịu
trách nhiệm, dù đã có được trong tay tin tình báo cụ thể về các vụ
chuyển quân của Sư đoàn 320 và F-10 bộ đội Bắc cộng về Ban-mê-thuột, mà
cũng bỏ lơ luôn phân tích của Phòng 2 của mình, cũng như cả luôn của Bộ
Tổng Tham Mưu. Thành kiến bất khả thay của ông đã khiến ông quyết
chí là địch sẽ phải tấn công Pleiku và Kontum, những mục tiêu lâu nay
vẫn thường là chính của địch.
• •
Quyết Định Éo Le của Tổng Thống Thiệu
Trong
hai tháng đầu của 1975 đã có một số vị dân biểu Mỹ đến Nam Việt để tìm
hiểu tình hình tại chổ. Trước tình hình quân sự ngày càng xấu đi và viễn
tượng của các thảo luận sắp đến trong Quốc hội về đề tài viện trợ bổ
sung, chính phủ chúng tôi đã tổ chức tiếp đón một cách nồng hậu các vị
khách rất có ảnh hưởng đó. Các vị dân biểu Mỹ đã được thúc giục phải
ráng nhìn tận mắt tình hình kinh tế, chính trị và quân sự của Nam Việt,
trước khi họ sẽ biểu quyết sẽ chấp thuận yêu cầu hay không. Do đó, mọi
người đều đã chờ đợi với nhiều mong đợi.
Vị
khách đầu đã là Thượng nghị sĩ Sam Nunn, sau đó là dân biểu Paul N.
“Pete” McCloskey với Thượng nghị sĩ Dewy Bartlett. Rồi thì tới phiên bộ
sậu chính, gồm cả nhiều thượng nghị sĩ lẫn dân biểu. Bộ Tổng Tham Mưu đã
thuyết trình tường tận cho các vị quan khách đầu tiên về tình hình hiện
hữu của Miền Nam. Buổi thuyết trình đã chuyên chú vào các thiếu thốn
không thể nào vượt qua được, nếu mà sẽ không có được số 300 triệu Mỹ kim
bổ sung và cũng chỉ rõ cho thấy mối hiểm nguy cấp bách trước việc địch
tấn công một cách công khai, một sự kiện mà nay thì không ai lại có thể
chối cải được nữa rồi. Các quan khách sau cùng thì không có được thuyết
trình báo cáo một cách chính thức, nhưng vài vị dân biểu cũng đã có tới
thăm Bộ Tổng Tham Mưu, cũng như là phòng tiển lãm các vũ khí từng tịch
thu được của địch tại đó.
Các
vị dân biểu tới thăm thì cũng có những thành tích rất là khác nhau, và
cũng được thể hiện qua quan điểm của họ về vấn đề viện trợ bổ sung. Một
số thì tán thành, số khác thì lại chống đối. Một số thì đã tới với một
tinh thần cởi mở, trong khi số khác thì lại đầy thành kiến. Một số thì
đã thật là lịch lãm và khiêm nhường; một số khác thì lại rất ư là thô lỗ
và đầy vẻ khi dể. Và rồi cũng có những vị thật là hoàn toàn dửng dưng
và thờ ơ. Nhưng cho dù họ có đã ra sao, hay họ có đã xử sự ra sao đi
nữa, thì mọi vị đều cũng đã được thành tâm nồng nhiệt đón tiếp mà thôi.
Họ đã hoàn toàn được tự do đi xem mọi nơi mà họ muốn, [và] tiếp xúc với
bất kỳ ai mà họ muốn – thiên hay chống chính phủ, người đang ở tù hay
người không đang ở tù.
• •
Nói
chung, thì các quan khách, khi ra đi, đã cùng để lại một cảm giác khá
bi quan. Khắp nơi đều lan truyền toàn là dự đoán và tin đồn mà thôi, mà
đều bất lợi cho chính nghĩa quốc gia. Tại ngay Hoa Kỳ thì chúng tôi bị
xui khiến để phải tin là chính phủ chúng tôi nào là tham nhũng hết thuốc
chữa, nào là bạo ngược và nào là quá sức áp chế. Tỉnh ngộ và bối rối
ngay bởi những khó khăn nội bộ về chính trị và kinh tế, Hoa kỳ nay không
còn có thể đóng góp cho nổ lực chiến tranh nữa. Viện trợ thì hoàn toàn
không có chút hy vọng được tăng thêm nữa; ngược lại, viện trợ lại còn có
khả năng bị cắt giảm thêm nữa, bởi vì nay thì Mỹ đã chuyển hướng lưu
tâm về Trung Đông mất rồi.
Đã
không có ai mà tinh ý nhìn thấy được rõ ràng mọi tín hiệu cùng các đầu
mối như là Tổng Thống Thiệu. Khi mà vị khách cuối đã ra đi, thì ông cũng
đã biết là không còn có chút hy vọng gì nữa vào cái con số 300 triệu Mỹ
kim viện trợ từng xin được gia tăng. Ông cũng ý thức được là tương lai
chính sách viện trợ của Mỹ cho Nam Việt chỉ là cứ giảm dần mà thôi. Và
có vẻ là ông cũng đã quyết định rồi, chiếu theo kiểu suy luận này. Ông
đã đành phải chấp nhận thi hành điều mà cách đây hai năm, ông đã cương
quyết khăng khăng từ chối. Đó đã chính là nguyên nhân của tiến trình tái phối trí quân đội của chúng tôi.
Trận
tấn công mãnh liệt vào Ban-mê-thuột và phản ứng tương đối vô hiệu quả
của Quân đoàn II đã có vẻ là các chất xúc tác vào suy tư của Tổng Thống Thiệu, nhân vật độc chiết từ lâu nay vẫn quyết định về mọi việc là phải điều hành cuộc chiến này ra sao. Tựu
chung, thì tổng quát chỉ là làm sao ráng chống đở trước bao là gian nan
khó khăn cứ đang lần lượt xẩy ra. Bị ráng trải ra quá khả năng, để bao
khắp trên toàn lãnh thổ, đến mức phải dùng tới cả đơn vị trừ bị cuối
cùng, quân đội của chúng tôi thì nay cũng không thể làm gì khác hơn
được, hầu có thể thay đổi được các muôn trùng trở ngại khó khăn đó mà
thôi. Thêm nữa, việc viện trợ bị cắt giảm thì cũng, trong nhiều khía
cạnh, ảnh hưởng đến khả năng tác chiến của họ, và như ít khi đã được
thừa nhận, cũng đến luôn tinh thần của họ. Trước
những tình thế như vậy, đã thật rõ ràng là cần phải làm một điều gì đó,
nếu muốn cho Nam Việt Nam vẫn tồn tại được mà thôi.
Trong
một thời gian, Bộ Tổng Tham Mưu, trong nhiệm vụ cố vấn và yểm trợ, đã
chủ trương là quân đội sẽ có nhiều hy vọng hơn để có thể chống cự lại,
nếu mà sẽ chỉ phải bảo vệ một phần lãnh thổ nhỏ hơn lại. Về phương diện
quân sự thì việc đó xem ra là một chủ trương hợp lý, nhưng về phương
diện chính trị, thì đó quả là điều cấm kỵ đối với lập trường “giữ đất
bằng mọi giá” từng bao lần đã được công bố bởi Tổng Thống Thiệu kể khi
có ngưng bắn. Chắc chấn là ông cũng đã phải từng cân nhắc nhân những lần
suy tư một mình. Tình hình càng ngày càng bi đát thì cũng đã cho thấy
phải làm gì mà thôi. Trước là Phước Long, nay thì Ban-mê-thuột, mà chỉ
có trong vòng hai tháng mà thôi. Rồi sẽ là nơi nào đây? Rồi thêm nữa, dư
vị đắng cay chua chát mà quý vị trong giới lập pháp Mỹ đã để lại, thì
vẫn mãi vươn vấn đâu đây thôi.
Nên
rõ ràng là ông ta đã lấy quyết định xong rồi, khi Tổng Thống Thiệu mời
vị Thủ Tướng, cùng Trung Tướng Đặng Văn Quang, vị cố vấn về an ninh và
tôi, cùng tham dự một buổi ăn sáng tại Dinh Độc Lập trong ngày 11 tháng 3
năm 1975, ngay ngày sau khi Ban-mê-thuột bị tấn công. Sau khi cà-phê và
đồ ăn được dọn ra và các người phục dịch đều rút đi, thì ông bèn lấy
một bản đồ với tỉ lệ nhỏ của Miền Nam Việt Nam để bắt đầu phiên gặp bằng
việc điểm qua tình hình quân sự mà mọi người chúng tôi thì đều cũng đã
rất ư là am tường rồi thôi. Rồi ông ta bèn tỉnh bơ nói: ”Chiếu theo sức
mạnh cùng khả năng của chúng ta hiện nay, thì chắc chắn không thể nào mà
lại có thể giữ được và bảo vệ mọi phần đất mà chúng ta mong muốn được”.
Đúng vậy, chúng ta cần phải tái phối trí các lực lượng, hầu nắm giữ
cùng bảo vệ cho được những vùng đông dân cư và phồn thịnh, mà thực sự
mới quả thực là thiết yếu cho chúng ta mà thôi.
Tuyên
bố có tính cách kết luận này đã gieo vào đầu chúng tôi cùng một ý nghỉ
là nó cũng đã từng được cân nhắc kỹ lưỡng xong rồi. Có vẻ như là lâu
nay, ông ta đã phải tạm giữ nó trong long, và nay thì muốn truyền đạt
chỉ cho ba chúng tôi mà thôi tại bàn ăn sáng này. Ông bèn chỉ vòng chung
quanh các vùng mình nghỉ là quan trọng. Chúng bao gồm toàn thể cả Quân
khu III và Quân khu IV, với vùng lãnh hải bao bọc. Vài khu vực hiện đang
bị địch chiếm đóng thì sẽ phải bằng mọi giá đánh chiếm lại. Dù sao thì
những vùng này cũng là tụ điểm của các tài nguyên quốc gia như là gạo,
cao-su, kỹ nghệ, v. v. . . Và đây cũng là vùng đất đông dân cư lẫn màu
mỡ nhất. Thêm nữa, vùng thềm lục địa mới đây cũng cho thấy là có dầu.
Đây chính sẽ là vùng thiết tử bất khã xâm phạm của chúng tôi, thành lũy
quốc gia bất khã thay đổi: Sài-gòn, các tỉnh bao quanh và Đồng Bằng sông
Mê-kong.
Rồi
để tiếp tục kiểu độc thoại đầy nhiệt huyết đó, Tổng Thống Thiệu lại đã
tỏ ra kém phần đoan chắc hơn, đối với tình hình của Quân khu II và Quân
khu I. Rồi bằng cách vung bàn tay quét rộng ra để chỉ cái vùng mà mình
muốn nói đến, ông tuyên bố là trên Cao Nguyên thì khu Ban-mê-thuột quan
trọng hơn cả Kontum và Pleiku cộng chung lại, vì lý do trù phú hơn về
kinh tế lẫn dân cư. Các tỉnh ven biển của Quân khu II cũng vậy, vì được
bao bọc bởi cái thềm lục địa đầy tiềm năng giàu có. Còn với Quân khu I,
thì nói chung, cũng chẳng qua chỉ là “ráng giữ những gì có thể được” mà
thôi. Rồi thì ông ta bèn diển tả ý nghỉ của mình bằng cách gạch một vạch
cắt ngang toàn lãnh thổ Quân khu I tại nhiều chổ và khởi đi từ phía bắc
để xuống dần. Ông tuyên bố là nếu chúng ta đủ mạnh, thì chúng ta sẽ
quyết chống giữ lãnh thổ cho tới Đà-nẳng hay Huế. Còn nếu không, thì
chúng ta sẽ tái phối trí sâu xuống tận Chu Lai, hay cũng có thể cả xuống
tận Tuy-hòa luôn. Ông nhấn mạnh là theo kiểu này, thì chúng ta mới có
thể tái phối trí được các phương tiện của chúng ta [và] nắm giữ cho được
một phần quan trọng hơn của lãnh thổ quốc gia, với nhiều hy vọng hơn,
để tồn tại được như là một quốc gia hầu phát triển trong tương lai.
Và
là như vậy thôi, chỉ bằng vài tuyên bố quá ư đầy quả quyết, một quyết
định cực kỳ quan trọng đối với tương lai đất nước đã bị tuyên phán. Hệ
quả toàn diện thì vẫn chưa được thấy rõ, nhưng chắc chắn là nó cũng rồi
sẽ gây theo biết bao nhiêu là khó khăn muôn trùng về phương diện quân
sự. Trong vai trò cố vấn quân sự cao cấp nhất, tôi tự thấy mình có bổn
phận phải bày tỏ lập trường của mình. Tôi đã bày tỏ đại khái như là việc
tái phối trí này sẽ quả thật là cần thiết, và tôi cũng đã từng từ lâu
chủ trương như vậy thôi. Nhưng sự thật là tôi đã giữ kín quan điểm đó và
vẫn xem đó như sẽ là một đề nghị không đúng đáng. Trước hết, thì nó mâu
thuẩn với chính sách quốc gia đương thời, và sau đó, thì nó cũng rất có
thể bị xem như là dấu hiệu của chính sách chủ bại mà thôi. Tuy
nhiên điều mà tôi tự kềm không nói ra, thì chính là tôi nghỉ nay đã quá
trể để có thể thành công trong một cuộc điều động quá ư là quy mô như
vậy. Hơn nữa, đối với tôi thì có vẻ như đó là một quyết định mà
không hề cho phép bất kỳ ai được quyền chống lại cả. Dù sao thì với tư
cách là chỉ huy trưởng của quân đội, thì đặc quyền và nhiệm vụ của vị
tổng thống là điều động cuộc chiến. Chắc chắn là ông ta hiểu rõ điều ông
muốn thực hiện.
Cho
dù quá ư là cực kỳ khác xa với cái chiến lược đương thời, đó vẫn đương
nhiên là điều hợp lý nhất mà mọi vị lãnh đạo có thể quyết định được mà
thôi. Đã hơn cả hai năm rồi, kể từ khi Thỏa Ước Ba-lê được ký kết, và
tình hình đã càng ngày càng sa sút với một mức độ đáng sợ. Điều chỉ
trích duy nhất đúng là tại sao Tổng Tống Thiệu lại chờ quá lâu. Trong
buổi họp, thì ông ta cũng không hề giải thích hay chỉ dẫn cho thấy vì
sao mình đã phải tiến tới quyết định này. Có vẻ như đó chỉ là điều đương
nhiên phải xẩy ra chiếu theo các biến chuyển mà thôi. Trước kia, thì
ông ta đã từng hy vọng sẽ có thể bám trụ tại các vùng xa xôi thưa thớt
dân cư. Khi Cộng sản vi phạm Thỏa Ước Ba-lê thì ICCS và cả thế giới nói
chung, sẽ nhận chân ra được ai là thủ phạm mà thôi. Và nếu hành vi đó
quá ư là lộ liểu, thì Tổng Tống Thiệu hy vọng, hay đã bị gạt để hy vọng
như vậy, là Hoa Kỳ sẽ có lý do hợp pháp hầu có những phản ứng mạnh mẽ để
mà đáp ứng, như là Tổng Tống Nixon đã từng cam kết.
Tuy
nhiên trong suốt cả hai năm, thì Cộng sản vẫn đã tăng gia vi phạm cùng
cường độ để trắc nghiệm thăm dò mực độ sẳn sang phản ứng của Hoa Kỳ.
Cũng đúng là khi còn nắm quyền thì Tổng Tống Nixon đã thỉnh thoảng có
đưa ra lời cảnh cáo đối với Hà-nội. Nhưng kể từ sau cái ngày 8 tháng 8
năm 1974 mà ông đã từ nhiệm, thì lời hứa hẹn sẽ “phản ứng mạnh mẻ” đã
trở thành sáo ngữ mà thôi. Thậm chí cuộc tấn công vào Phước Long thì
cũng không gây ra được một đáp ứng nào về phía Mỹ. Thái độ tiêu cực của
đa số các nhà lập pháp từng đến thăm thì cũng đã dẹp sạch đi mọi hy vọng
rồi. Đã gần như chắc chắn là Quốc hội Hoa Kỳ đang không muốn chiến
tranh bị kéo dài hơn nữa, thì còn nói chi đến việc chuẩn chi thêm ngân
sách để tiến hành nó. Tựu chung thì cả suy tư lẫn ngân quỷ của họ nay
đều cùng đã dứt khoát được chuyển sang trang khác mất rồi.
Quả
là cũng không có một lựa chọn nào khác hơn cho Tổng Tống Thiệu, nếu ông
muốn ráng cứu cho được những gì còn cứu được, khi mà vẫn còn phần nào
hy vọng. Nhưng nay thì cũng đã quá trể rồi. Việc tái phối trí lực lượng,
nếu có, thì đã phải được thi hành dạo nữa năm 1974 kia rồi. Còn trể
nhất thì cũng đã phải thực hiện sớm, ngay sau khi Tổng Tống Nixon từ
nhiệm. Vì ông là tác giả chính của Chương trình Việt Nam hóa cùng Thỏa
Ước Ba-lê, nên chúng tôi vẫn xem ông ta như là viên chức Mỹ duy nhất, mà
phải có trách nhiệm về tinh thần, là phải triệt để thi hành ngưng bắn.
Ông ta cũng nguyên từng là một nam nhi đáng tin và đủ can đảm để có được
những hành động gan dạ và mạnh mẽ khi cần thiết. Chính ra thì đã cần phải làm dạo đó rồi, còn không thì sẽ là không bao giờ khả thi được nữa mà thôi.
Bọn
Cộng sản thì chắc chắn cầu mong mọi thắng lợi về lãnh thổ, và các lằn
phân chia vào lúc ngưng bắn thì cũng vẫn có thể thương lượng được mà
thôi. Hoàn cảnh của chúng tôi sẽ khả quan hơn nhiều, với phần lãnh thổ
bị thu hẹp lại, nhưng được an toàn và bảo đãm hơn. Bố trí như vậy thì
cũng càng giống hơn với thỏa ước 1954: một lằn ranh mới, đôi bên gom
quân về lại từng phía, v. v. . . ; hai vùng thật khác biệt nhau rõ rang,
thay vì là những vùng ung thối theo kiểu “da beo”. Đó mới chính là lý
tưởng cho nền sinh tồn của chúng tôi. Nhưng cũng có nhiều khả năng là
Cộng sản sẽ bác bỏ thu xếp đó. Chúng cũng từng thú nhận đã sai lầm khi
chấp nhận chia đôi đất nước tại Giơ-neo mà? Thì cũng lại càng ít có hy
vong hơn nữa, là kỳ này chúng lại đi chấp nhận cái giải pháp này. Dù gì
đi nữa, thì chúng cũng đã không phải chịu trải qua tới cả hai mươi năm
chiến tranh cùng khổ đau, để nay không có được gì cả.
Khi
Ban-mê-thuột bị thất thủ, thì tình hình đã quá ư là trễ tràn rồi. Rõ
ràng một điều là địch đang trên đà chiến thắng mà thôi. Điều khác, thì
là chúng cũng đã thành công đạt được ưu tiên đáng kể về quân số. Vì bị
trải ra quá rộng và thiếu thốn mọi điều, chúng tôi cũng đã không thể rút
bỏ vị trí mà không khỏi bị địch cứ bám theo và đe dọa thêm nữa.
Rồi
lại thêm vấn đề dân cư địa phương và thân nhân binh sĩ. Di tản họ được
hay không cho kịp lúc, chính là chìa khóa của thành công. Không một vị
lãnh tụ quốc gia nào mà lại điên khùng, để có thể cố tình, dù chỉ trong ý
nghỉ mà thôi, đầnh long bỏ lại người dân để địch sẽ toàn quyền đối xử
với họ. Tuy nhiên chính ưu tư để rang bảo tồn cho được lực lượng quân sự
sẽ đã buộc ông ta phải quyết định như vậy mà thôi. Nhưng kinh nghiệm đã
qua thì cũng đã cho thấy là phần đông người dân Nam Việt thì đều cũng
đã từng đâm đầu bỏ chạy trốn xa bọn Cộng sản, mổi khi có thể được mà
thôi. Và khi nói “dân cư” thì cũng có nghĩa là nói đến gia đình binh sĩ,
nguồn an ủi và nâng đở của người lính. Không ai mà có thể nghỉ được là
sẽ chia cách họ được trong một thời gian dài, bởi vì truyền thống vẫn là
họ luôn luôn sinh sống chung với nhau. Điều này lại càng đúng, khi ta
lưu ý tới truyền thống quyến luyến gia đình của người Việt và các điều
kiền sinh sống rất eo hẹp của người quân nhân cũng như là thân nhân của
họ khi nói chung.Tất cả những điều kiện này đều cần phải được cân nhắc
kỹ lưỡng, khi bị đối diện với quyết định sẽ phải đành chia cách binh
lính với gia đình họ trong một thời gian dài.
Nay
hồi tưởng lại, thì chúng ta có thể tự hỏi là, liệu chăng, nếu không có
vụ tái phối trí lực lượng, thì Miền Nam đã có thể tồn tại chăng? Có thể
có vẻ quá lố khi đưa ra quan điểm vào lúc này, nhưng tôi nghỉ là lúc đó,
vẫn còn khá hy vọng. Có một điều là sự kiện tự làm để đánh mất tinh
thần binh lính cùng dân chúng – hậu quả trực tiếp của cuộc tái phối trí
bị thất bại, và cũng là chất xúc tác thực sự đưa đến cảnh tan rã quá ư
là nhanh chóng – sẽ đã không xẩy ra, và chúng tôi gần như là sẽ vẫn còn
nguyên vẹn các đơn vị, có thể trừ một số thuộc Sư đoàn 23 Bộ binh mà
thôi.
Cho
dú sau khi Ban-mê-thuột thất thủ thì địch cũng phải ngưng lại và rồi
phải tính toán kỹ càng trước khi lại mở một trận tấn công cũng quy mô
như vậy tại Quân Khu II. Quân đoàn II thì vẫn còn Sư đoàn 22 Bộ binh và
một lực lượng tương đương với hai sư đoàn tác chiến khác, cộng với hai
không đoàn, cũng như đủ quân nhu quân liệu tiếp tế hầu tiếp tục chiến
đấu cho qua suốt mùa khô. Nếu không có việc tái phối trí, thì theo tôi,
địch cũng đã không thành công chiếm được ưu thế được nhiều như vậy tại
Quân Khu I. Tình hình rồi thì sẽ cứ dậm chân kéo dài tại chổ như trước
đó, chỉ có thêm phần bấp bênh hơn, trước thực tại là quân viện cứ đang
bị giảm dần, cùng các khó khăn trong việc tái lập một lực lượng tổng trừ
bị. Nhưng có điều chăc chắn là tình hình đã
sẽ không trở thành quá xấu nhanh và toàn bộ như vậy, nếu mà đã không có
vụ tái phối trí quân đó.
Đó
là viển ảnh về quân sự trong tương lai gần. Sau trận Ban-mê-thuột, thì
tôi có nghỉ là địch rồi sẽ áp lực hầu thành lập một chính phủ liên hiệp,
và rồi thì Tổng Thống Thiệu sẽ cũng phải đành chấp nhận. Nhưng cho dù
như vậy, thì cũng đơn giản chỉ là một thỏa ước ngưng bắn tạm thời mà
thôi. Rồi thì Cộng sản cũng sẽ ráng dành thêm nhiều chiến thắng quân sự
khác, với ý đồ có thêm được những nhượng bộ khác nữa về chính trị. Nhưng
rồi liệu chăng Nam Việt sẽ có được khả năng cầm cự được trước áp lực
ngày càng tăng gia của địch trong trường kỳ? Theo
tôi thì mọi sự đều lệ thuộc nơi con số viện trợ quân sự của Mỹ mà thôi.
Sự kiện thật là lạnh lùng và đau đớn là nếu không có được thêm viện trợ
bổ sung thích đáng, thì quân đội của chúng tôi sẽ không còn nhiên liệu
cùng đạn dược vào tháng 6 năm 1975 mà thôi. 3 ►Liệu
có được một quân đội nào đó, để mà có thể vẫn đứng vững chiến đấu, mà
lại không có ngay được những nhu yếu tối thiểu hầu chiến đấu?
VI. CUỘC TÁN LOẠN TRÊN CAO NGUYÊN
Hai
ngày sau cuộc gặp mặt lịch sử tại Dinh Độc Lập mà nhân đó, chiến lược
tái phối trí lực lượng đã được thảo luận, Tổng Thống Thiệu bèn tỏ ý muốn
gặp Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân khu II, tại tổng hành dinh ở
Pleiku. Lúc đó thì Ban-mê-thuột gần như đã hoàn toàn do Cộng sản kiểm
soát mất rồi và mọi cố gắng điên cuồng để tái chiếm của Quân khu II thì
cũng vô hiệu. Khi nhận chân ra nay không còn có thể chần chờ gì nữa,
trước khi cơ hội tái chiếm lại cho được tỉnh lỵ quan trọng này bị bỏ
qua, thì Tổng Thống Thiệu lại muốn tái nghiên cứu tình hình hầu có thể
cứu được nó. Pleiku thì cũng đang bị áp lực địch đè nặng và cũng thỉnh
thoảng bị địch pháo kích. Nên nơi đó quả thực không thể là một nơi để vị
tổng thống tới thăm, mà lại càng ít thuận tiện hơn nữa cho một trao đổi
quan trọng. Vì lo sợ cho an toàn của tổng thống, tướng Phú đã có đề
nghị một địa điểm khác, và sau vài trao đổi, thì Cam-ranh đã được chọn.
Cuộc gặp đã xẩy ra vào ngày thứ sáu 14 tháng 3 năm 1975. 4 ►
Cuộc
gặp thì cũng đã thật là hợp với hoàn cảnh lúc đó. Nơi đó là một cấu
trúc rất ư là đẹp trên đỉnh một đồi cát. Cấu trúc đó đã được xây dạo
1966 bởi quân đội Hoa Kỳ để tiếp đón Tổng Thống Johnson, khi ông ghé lại
để thăm binh sĩ Mỹ. Cũng những nhân vật từng hiện diện trong buổi họp
ba ngày trước tại Dinh Độc Lập đã tháp tùng Tổng Thống Thiệu tới
Cam-ranh: Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Trung Tướng Đặng Văn Quang và tôi.
Theo
thông lệ thì nhân những lần hội họp như vậy, vị tư lệnh quân đoàn cũng
đã bắt đầu phải báo cáo về tình hình quân sự giữa địch và ta trong vùng
đảm trách của mình. Theo như ông, thì tình hình đã biến chuyển cực kỳ
nghiêm trọng, và giọng điệu của ông cũng đã thật là bi quan. Mọi tuyến
đường trong Quân khu II, Quốc lộ 14,19 rồi 21 đều đã bị địch hoàn toàn
cắt đứng và không còn lưu thông được nữa. Huyết lộ chính yếu, Quốc lộ
19, chạy xuyên ngang toàn lãnh thổ và cũng là con đường huyết mạch nối
liền Pleiku với Qui-nhơn nằm ở ven biển, thì lại đã bị đóng chốt chận
cứng tại Bình Khê bởi toàn bộ Sư đoàn 3 Bắc cộng; Sư đoàn 22 Bộ binh của
chúng ta, với bốn trung đoàn dưới sự chỉ huy đầy năng động của Chuẩn
Tướng Phan Đình Niệm, cũng đã thất bại giải toả địch đang bám trụ cứng
tại các vị trí của chúng.
• •
Sau
khi tường trình chấm dứt, thì Tổng Thống Thiệu bèn hỏi thẳng điều vẫn
hằng bận tâm nhứt của ông ta. Liệu có thể Tướng Phú đánh chiếm lại được
Ban-mê-thuột hay không? Như dự liệu, vị tướng Tư lệnh Quân khu II đã không hề đưa ra được một lời trả lời cụ thể dứt khoát là sẽ được hay không.Ông
chỉ xin được tăng cường thêm. Quay về hướng tôi, Tổng Thống bèn hỏi
liệu có bao nhiêu lực lượng có thể tăng cường cho Tướng Phú. Nhưng đúng
ra thì ông cũng đã phải biết trước rồi. Đơn vị trừ bị cuối cùng là Liên
đoàn 7 Biệt Động Quân, thì cũng đã được gởi cho Tướng Phú theo yêu cầu
của ông, ngay từ khi các dấu hiệu địch sắp tấn công vẫn đang xẩy ra.
Hoàn toàn đâu còn gì nữa đâu.
Đây
là điểm mốc cực kỳ nguy kịch nhất trong toàn cuộc chiến. Trong canh bài
cuối này, quân đội của chúng tôi đang phải đối đầu trong trận thử lữa
cuối cùng, trước một kẻ thù mà cứ liên tục tố lớn thêm thôi. Các đơn vị
trừ bị chính duy nhất là Sư đoàn Dù và Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến thì
đã được phân bổ cho Quân khu I kể từ năm 1972. Rất sớm, cả trước khi xẩy
ra vụ Ban-mê-thuột, thì vì những lý do chính trị, Tổng Thống Thiệu đã
quyết định rút Sư đoàn Dù về trong vùng Sài-gòn. Tân Lữ đoàn Thủy Quân
Lục Chiến 468 mới được thành lập đã sẳn sàng để lâm trận và sẽ cùng một
Liên đoàn Biệt Động Quân thay thế đơn vị Dù bị rút đi đó. Như vậy thì
Quân đoàn I rốt cuộc có được hai lữ đoàn trám chổ cho số ba lữ đoàn của
Sư đoàn Dù. Nhưng rồi quyết định gởi Liên đoàn Biệt Động Quân ra Vùng I
lại bị chính Tổng Thống Thiệu hủy bỏ khi phải đối phó với tình hình cứ
biến chuyển không ngừng. Lữ đoàn 3 thuộc Sư đoàn Dù đang được hải vận vô
Nam thì nhận được lệnh vào ngày 17 tháng 3 là phải đổ bộ ở Nhatrang, và
di chuyển tiếp đi Khánh Dương trên Quốc lộ 21 trong một chiến dịch khẩn
cấp, hầu chận địch sẽ tiến về vùng duyên hải sau khi Ban-mê-thuột bị
thất thủ. Và chiến trận tại đó đã diễn ra thật là khốc liệt trong các
ngày kế tiếp, để rồi Lữ đoàn 3 Dù bị tan tác, để rồi đã không bao giờ về
lại Sài-gòn như đã được dự tính.
Do
đó, đúng vào lúc mà lực lượng trừ bị quá ư là thiết yếu, thì Bộ Tổng
Tham Mưu đã không còn quân để gởi cho Tướng Phú. Nay thì có vẻ như là,
khi nêu lên một câu hỏi mà ông dư biết trước rất từ lâu rồi câu trả lời,
chính Tổng Thống Thiệu đã muốn mọi người phải nhận chân ra được hoàn
cảnh bế tắc mà chúng ta đang phải lâm vào, và điều gì sẽ phải quyết định
cho phản ứng kế tiếp của ông ta. Rồi lại lần nữa, y như nhân lần điểm
tâm cùng làm việc tại Dinh Độc lập vào ngày 11 tháng 3, Tổng Thống Thiệu
bèn đứng lên, tới bên cạnh một bản đồ của Miền Nam, rồi trong khi Tướng
Phú chăm chú nhìn, Tổng Thống Thiệu bắt đầu giải thích cái chiến lược
mới mà sẽ cần phải thi hành.Ông đã dùng tay để vạch lên bản đồ cái vùng
thiết yếu mà Tướng Phú bắt buộc phải giữ cho được. Vì lý do kinh tế và
dân cư, Ban-mê-thuột cũng quan trọng hơn cả Pleiku cùng Kontum nhập
chung lại. Nay thì Quân khu II có bổn phận phải tái phối trí các lực
lượng cơ hữu, hầu làm sao phải tái chiếm cho được Ban-mê-thuột bằng mọi
giá. Đó là lệnh của Tổng Thống.
Rồi
Tổng Thống Thiệu bèn quay qua hỏi Tướng Phú liệu sẽ tái phối trí ra sao
và tuyến đường ông ta dự trù sẽ dùng để dưa quân về Ban-mê-thuột. Theo
quan điểm của vị Tư lệnh Quân khu II, thì Quốc lộ 19 dẫn đi từ Pleiku về
hướng đông để tới duyên hải thì đã bị khóa cứng mất rồi; sư đoàn tinh
nhuệ nhất của ông ta đã bị chận cứng tại Bình Khê trên Quốc lộ 14 nối
liền Pleiku với Ban-mê-thuột theo hướng nam bắc, mà cũng bị đóng chốt
cứng tại Thuận Mẫn ở phía Bắc của Ban-mê-thuột. Cũng có thể giải tỏa nơi
đó, nhưng cũng sẽ cực kỳ khó khăn vì địch sẽ được biết trước. Vì vậy,
Tướng Phú cho biết là mình sẽ sử dụng Liên Tỉnh lộ 7B. Đó nguyên là một
tuyến đường phụ, tách ra từ Quốc lộ 14, ở hai mươi dặm Anh hướng nam
Pleiku, để rồi chạy theo hướng đông nam, xuyên qua Hậu Bổn (Cheo Reo),
để về Tuy hòa ở vùng duyên hải. Nguyên từng là một con đường phụ chật
hẹp và lồi lõm không tráng nhựa, LiênTỉnh lộ 7B đã bị bỏ quên và không
còn có thể sử dụng được nữa. Trừ đoạn ngắn còn khả dụng từ Quốc lộ 14
dẫn tới Hậu Bổn, thì cũng không ai mà có thể biết được sau đoạn đó thì
con đường sẽ ra sao cả. Tuy nhiên, cũng được biết là một trong những cây
cầu chính trên sông Ba ở hướng nam của Cũng Sơn, thì cũng đã bị phá nát
không thể nào tu bổ được nữa, và đoạn cuối đường ở hướng tây của Tuy
Hòa, thì cũng không còn khả dụng vì từng đã bị gài mìn đầy dẫy bởi lực
lượng Nam hàn nhiều năm trước đây.Tuy nhiên cũng có vẻ là vị Tư lệnh
Quân khu II vẫn đang biết rõ mình đang cần phải làm gì. Ông ta tuyến bố
là yếu tố bất ngờ về chiến thuật mới là thiết yếu và đó cũng chính là
yếu tố ảnh hưởng mạnh vào quyết định của ông ta. Ông chỉ yêu cầu Bộ Tổng
Tham Mưu cung cấp cho các tiện nghi sẽ cần để dùng chuyển quân qua sông
mà thôi. Tôi đã liền tức khắc chấp thuận yêu cầu này.
Công
trình di chuyển một đoàn quân lớn cấp quân đoàn, cùng trang bị và xe cộ
qua một con lộ dài tới 160 dặm Anh, mà tình trạng tốt xấu gần như hoàn
toàn không ai biết được, mà lại còn đi xuyên qua toàn là núi và rừng
trên Cao nguyen, quả thật là một công tác phiêu lưu cực kỳ quy mô. Yếu tố bất ngờ sẽ chỉ đạt được, nếu công tác chuyển quân được hoàn thành một cách nhanh chóng và không bị ai ngăn trở. Nhưng
ngay một vị chỉ huy lạc quan cách mấy, thì cũng thể nào dám loại bỏ khả
năng là sẽ phải đụng địch và theo đó, thì cũng phải sẳn sàng vài giải
pháp để đối phó lại. Cuối cùng thì nơi đó
cũng là loại địa thế lý tưởng mà địch vẫn đã dùng để đánh các trận phục
kích đẫm máu nhất đối với quân đội Liên Hiệp Pháp trong thời chiến tranh
1946-1954.
Trên
cương vị tham mưu trưởng, tôi tự thấy có bổn phận phải nhắc nhở Tướng
Phú về những khó khăn cùng hiểm nguy sẽ phải gặp và phải chuẩn bị các
biện pháp bảo vệ an ninh. Một cuộc chuyển quân với tầm mức quy mô như
vậy, lại phải xuyên qua một địa hình, cùng một chiều dài như thế, đòi
hỏi vị tướng phải bảo đãm cho được an toàn, cùng phòng vệ cho suốt dọc
lộ trình. Đoàn di chuyển cần phải được bố trí làm sao để, vừa có thể bảo
vệ thành phần dẫn đầu lẫn thành phần ở đuôi, rồi luôn cả cho quân nhân ở
giữa đoàn xe. Các chỉ huy trưởng luôn luôn phải có đủ và sẳn sàng mọi
phương tiện liên lạc vô tuyến, cũng như là không trợ và không viện cận
chiến những khi cần.
Cuối
cùng thì cũng từng đã có những bài học đáng giá mà người Pháp đã từng
phải trả với giá quá cao trong cuộc chiến Đông Dương thứ nhất. Tôi nhắc
ông ta về lần Pháp thất bại khi cố gắng rút binh lính khỏi Lạng sơn vào
năm 1947. Tôi cũng nhắc Tướng Phú vì sao mà, vào tháng 10 năm 1956, hai
đoàn binh lính và quân xa chỉ huy bởi Đại tá Le Page và Charton – đoàn
đầu rút từ Thất khê để hướng về bắc, còn đoàn sau thì từ Cao bằng rút về
hướng nam – đều đã bị tiêu diệt tại các chân đồi chung quanh Đồng khê
dọc Đường Thuộc địa số 4. Cuối cùng, tôi cũng có giải thích vì sao mà,
cũng đúng theo với địa thế cùng đường lộ mà đoàn quân của Tướng Phú sẽ
phải di chuyển, Liên đoàn lừng danh GM-100 của Pháp đã từng bị tàn sát
trên Quốc lộ 19 gần An khê trong tháng 6 năm 1954, và rồi số tàn quân
còn lại thì cũng bị quét sạch tại Đèo Chu-drek trên Quốc lộ 14. Đó
chính là các bài học tang thương đẫm máu mà mọi vị chỉ huy trên cái
vùng Cao nguyên bội bạc của Miền Trung đều không bao giờ có quyền quên
được.
Vào
lúc cuối của phiên họp và mọi người chuẩn bị ra về, bất thình lình
Tướng Phú xin Tổng Thống Thiệu một đặc ân. Bằng một giọng nói gần như là
nài nỉ, ông xin cho thuộc cấp là Đại tá Phạm Văn Tất, 5 ► chỉ
huy trưởng toàn thể lực lượng biệt động quân thuộc Quân khu II, được
đặc cách lên chuẩn tướng. Tôi thì không biết rõ cá nhân Đại tá Tất. Tôi
được nghe nói ông là một sĩ quan có khả năng, nhưng trên cương vị tác
chiến chỉ huy tại chiến trường, thì ông chưa từng có được những thành
tích đặc biệt nào về tài chỉ huy cả. Tuy tôi cũng không có đưa ra lời
phản đối nào, nhưng tôi có nghỉ là để cho hợp lý, thì Đại tá Tất cần
phải có được thành tích đáng kể trên chiến trường trước đã. Tổng Thống
Thiệu có vẻ phân vân; ông nhần ngừ rồi bày tỏ quan điểm giống như của
tôi. Nhưng Tướng Phú cứ nài nỉ và cứ lặp đi lặp lại thỉnh cầu của mình
với Tổng Thống mà rốt cuộc cũng đành phải chấp thuận mà thôi. (Sau khi
được thăng chức thì Đại tá Tất được chỉ định chỉ huy đoàn quân được tái
phối trí. Sự kiện này đã giải thích được vì sao Tướng Phú đã cố đề nghị
nâng cấp cho người thuộc hạ thân cận nhất của mình. Hai
vị phụ tá là Chuẩn tướng Trần Văn Cẫm và Lê Văn Thân thì đều bị giao
cho những nhiệm vụ rất ư là mơ hồ như là ‘giám sát ~ supervising’ toàn
thể cuộc triệt thoái).
Về
lại Sài-gòn thì tôi gọi Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, vị phụ tá trưởng
Phòng 3 của Bộ Tổng Tham Mưu và cho ông ta biết mọi chi tiết về cuộc họp
vừa xẩy ra. Chánh Văn Phòng là Trung Tướng Đồng Văn Khuyên lúc đó thì
đang ở ngoại quốc. Tôi ra chỉ thị cho Tướng Thọ phải theo dõi cuộc triệt
quân, cùng ráng giúp Tướng Phú, một cách kín đáo, bởi vì đây vẫn là một
chiến dịch tuyệt mật của Quân đoàn II, mà chỉ liên hệ đến các đơn vị
hữu cơ mà thôi. Đó cũng là một chiến dịch tối mật, chiếu theo lệnh trực
tiếp của ngay tổng thống trong tư cách là tổng tư lệnh của quân đội cho
một vị chỉ huy trưởng tại chiến trường. Do
đó, Bộ Tổng Tham Mưu đã không được quyền tự xuất ban hành bất cứ lệnh
lạc nào cả, trong việc tái phối trí lực lượng binh lính và không lực
thuộc vùng Pleiku-Kontum, dù không có trực tiếp dính líu gì tới cuộc
triệt thoái đó.
Kế Hoạch của Tướng Phú
• •
Sứ
mệnh được giao cho Tướng Phú, đã là đem đa số các lực lượng đó [trong
vùng Kontum – Pleiku về Nhatrang và từ đó, phản công tái chiếm
Ban-mê-thuột.
Kế
hoặch căn bản của vị tư lệnh Quân khu II, trong việc, nói đúng ra là
rút quân khỏi Cao Nguyên, đã dựa trên yếu tố sẽ làm địch bất ngờ. Chiếu
theo vị chánh Văn Phòng của ông ta, thì sau khi họp với tổng thống tại
Cam ranh về, thì Tướng Phú bèn triệu tập một phiên họp tham mưu hạn chế
ngay tối cùng ngày, và nhân đo, ông đã cho biết về những lệnh của Tổng
Thống Thiệu, và cũng để ra những lệnh của chính ông ta. Cùng có mặt
trong phiên họp, đã có vị tân Chuẩn Tướng Phạm Văn Tất, Chuẩn tướng Trần
Văn Cẫm, Tư lệnh phó Quân khu II về hành quân và Chuẩn tướng Phạm Ngọc
Sang, tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân. Một kế hoặch chuyển quân bèn được
nhanh chóng thảo luận và đã đi đến kết quả là Tướng Phú, cùng các thành
viên của Bộ Chỉ huy Tiền phương Quân khu II, sẽ được không vận về
Nhatrang, cùng với Chuẩn tướng Lê Trung Tường, tư lệnh Sư đoàn 23, mà sẽ
lên Khánh Dương để chỉ huy cố gắng chận đứng địch đang tiến xuống từ
Quốc lô 21, và cũng để tái chiếm Ban-mê-thuột . . .
Tướng
Tất được giao chỉ huy toàn thể lực lượng của Quân khu II, mà sẽ được
rút từ vùng Kontum – Pleiku để về Tuy Hòa, xuyên qua Liên Tỉnh lộ 7B.
Đại tá Lê Khắc Lý thì được chỉ định chịu trách nhiệm về ban tham mưu
Quân đoàn cùng các đơn vị tiếp liệu. Toàn thể chiến dịch sẽ do Tướng Cẫm
giám sát.
• •
Bởi
vì vụ tái phối trí đã được soạn thảo và rồi thi hành trong vòng bí mật,
nên các vị tỉnh trưởng Kontum, Pleiku và Phú bổn đều hoàn toàn không
biết gì cả. Tới ngày 17 tháng 3, tức là vào ngày thứ nhì, vào lúc
rất khuya, thì ba Liên đoàn Biệt Động Quân ở Kontum được lệnh phải kéo
nhau về Pleiku. Chỉ khi đó, thì vị Tỉnh Trưởng Kontum là Đại tá Phan
Đình Hưng mới biết được là đang có chuyển quân. Ông bèn vội vã gia nhập
đoàn quân nhưng rồi đã thiệt mạng vào giữa đoạn đường nối liện Pleiku
với Kontum.
Cuộc Tháo Chạy ~ The Flight
Ngày
16 tháng 3, thì đoàn xe đầu tiên rời Pleiku như đã được dự tính. Nhưng
ngay sau khi chiếc xe cam-nhông cuối vừa rời, thì cả thành phố cũng đã
biết được tin này. Dân chúng bèn bắt đầu cũng rời bỏ thành phố bằng bất
cứ mọi phuong tiện nào mà họ có được, ngay cả đi bộ, và nhân đó cũng
ráng đem theo của cải nào có thể mang được. Sau
đó, thì số người tỵ nạn từ Kontum cũng nhập chung vào, và rồi, cùng
chung với binh lính, họ đã tạo thành một khối vĩ đại gồm cả người lẫn xe
di chuyển dọc trên con đường đầy gian nguy là Đường 7B. Cuộc di tản khỏi Vùng Cao Nguyên đã bắt đầu.
Hai
ngày đầu là 16 và 17 tháng 3 thì đã qua mà không bị hề hấn gì cả. Tới
chiều ngày 18 tháng 3, thì bộ chỉ huy Quân khu II đã tới được Hậu Bổn
thuộc tỉnh Phú Bổn, nơi mà một bộ chỉ huy dã chiến cũng đã được thiết
lập tại chổ. Chính tại đây, mà tất cả các đoàn xe của trong cả ba ngày
vừa qua, cùng với khối muôn trùng người tỵ nạn, đã bị tấn công. Mục tiêu
nhằm tiến về duyên hải nằm cách đó cũng là cả một trăm dặm Anh, thì
quả không thể nào thực hiện được, vì công binh vẫn chưa làm xong một cái
cầu nổi, hầu vượt được qua con sông Ea Pa ở mãi xa cuối đường.
Trong
đêm thì địch, chắc có lẻ chỉ là lực lượng địa phương, khi nhận được
lệnh chận đánh đoàn quân đang bị nghẽn, bèn bắt đầu pháo rồi tấn công
trực diện. Phi đạo Hậu Bổn, nằm cách xa bộ chỉ huy Quân khu II không hơn
một dặm Anh, bèn bị tràn ngập. Giao tranh vẫn cứ tiếp diễn mãi đến
chiều tối ngày hôm sau, tức là ngày 19 tháng 3. Tới lúc đó thì binh lính
cùng thường dân bị thương nằm rải rác khắp nơi. Không ai có thể nói là
mình đang kiểm soát được thành phố. Vài đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa
Quân người Thượng vô kỷ luật bèn bắt đầu đi cướp bóc, hay tự động tan
hàng và bỏ chạy, tạo nên một hoàn cảnh hổn loạn, gây rúng động hoang
mang cho cả binh lính lẫn người tỵ nạn. Tình hình cứ càng ngày càng trở
nên nghiêm trọng với thời gian qua. Tới lúc đó thì từ Nhatrang, Tướng
Phú mới chỉ định Đại tá Nguyễn Văn Đồng, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Kỵ
Binh Thiết Giáp, đãm trách chỉ huy đoàn xe di tản.
Ngày
hôm sau, 20 tháng 3, thì đoàn di tản chiến thuật rời Hậu Bổn, nhưng chỉ
di chuyển được có mười lăm dặm Anh mà thôi. Địch đã tràn ngập mất Phú
Tắc nằm ở phía trước mất rồi. Ấy vậy, đoàn xe vẫn cứ tiếp tục, vừa chiến
đấu vừa tiến lên. Khi không trợ được yêu cầu thì thật xui xẻo, các
thành phần dẫn đầu đã bị đánh lầm trúng bom. Gần toàn thể một tiểu đoàn
biệt động quân đã bị xóa sổ. Tai nạn này lại càng làm đình trệ đoàn
quân, và càng gây thêm hoang mang trong binh lính cùng người tỵ nạn.
Trong một cố gắng điên cuồng tìm chổ núp và cũng để trốn đi, nhiều binh
sĩ đã nhảy đại xuống song, để rồi phải bị chết đuối thôi. Và tại hai địa
điểm vượt sông thì vài chiến xa cùng xe cam-nhông đã bị lún cát sa lầy
khi chúng ráng né để đi bọc qua.
Tại
Củng Sơn, cách Tuy Hòa độ bốn mươi dặm Anh, đoàn xe đã sẽ phải vượt con
Sông Ba, để rồi sẽ tiếp tục đoạn cuối trên Hương lộ 436 ở bên bờ phía
Nam của con sông. Ở phía trước của Củng Sơn, thì Tỉnh lộ 7B cũng đã từng
bị quân đội Nam Hàn gài mìn dày đặc. Một cây cầu nổi đã được mang ra
Tuy Hòa từ Nhatrang, nhưng cũng đã không thể nào đưa bằng đường bộ đi
Củng Sơn được, vì địch đã đóng chốt chận được tại nhiều chổ rồi. Rốt
cuộc, thì nó cũng đã được tháo thành nhiều khúc, để được trực thăng
không vận lên tới Củng Sơn.
Tới
ngày 22 tháng 3, thì cái cầu nổi mới được ráp xong, và đoàn xe mới vượt
được để qua Hương lộ 436 và chậm chạp tiến về Tuy Hòa. Do mọi người và
xe cộ cùng dành nhau vượt cầu, nên cầu nổi rồi cũng bèn sụp đổ luôn,
khiến rất nhiều người phải bỏ mạng, cũng như là bao xe cộ bị đắm chìm
xuống nước. Nhưng cầu cũng đã được nhanh chóng sữa chữa, và phần tan
hoang rơi rớt còn lại của đoàn xe mới qua được bên kia sông.
Đã
phải mất tới bảy ngày, cùng muôn trùng thiệt hại, mà đoàn xe cũng chỉ
di chuyển được có bấy nhiêu, nhưng đoạn . . . cuối của cuộc di tản thì
cũng chậm như vậy và lại còn càng thêm phần hiểm nguy. Lộ trình thì
tương đối ngắn, nhưng địch thì cũng đã đóng chốt kiên cố chận tại nhiều
chổ khiến rất ư là cực kỳ khó khăn để giải tỏa cho được. Cứ mổi lần mà
lực lượng tiền phương bắt đầu tiến lên được, thì địch lại tái tấn công
chận lại. Các cố gắng để nhổ chốt đã thật là chậm chạp và khó khăn. Cả
đoàn xe lại bị nghẽn cứng lần nữa. Trời thì lại mưa và lạnh. Và địch thì
lại cứ tiếp tục pháo cối không ngừng để quấy phá. Vì thời tiết cực kỳ
xấu, nên không quân cũng không có thể không trợ cận kề. Tuy Hòa thì cũng
không còn quân để gởi đi tăng cường được, và đoàn quân chỉ còn phải tự
lực cánh sinh. Trong hoàn cảnh tuyệt vọng, mà cũng quá xót xa cho đoàn
thường dân đang tháp tùng và chia xẻ định mệnh chung với họ, binh sĩ của
Tiểu đoàn 34 Biệt Động Quân . . . cuối cùng đã quyết định phải xung
phong đánh xuyên qua, còn không thì cũng chết thôi. Dưới sự yểm trợ của
vài chiếc M-113 còn lại, họ bèn xung phong lên và gần như là đã nhổ sạch
từng chốt này sau chốt nọ. Liền ngay sau khi sạch địch thì đoàn xe liền
rồ tiến lên, bât chất rồi sẽ có những tai họa nào đang chờ đợi họ ở
phía trước . . .
Tới
ngày 27 tháng 3 thì chốt cuối cùng của địch cũng bị nhổ xong, và từ đó,
thì đoàn xe mới di chuyển được an lành về Tuy Hòa. Các quân xa đầu tiên
đã tiến được vào thành phố lúc 9 giờ tối. Đã không hề có được một kế
hoặch nhằm cố gắng kiểm kê đã có được bao nhiêu xe và người về tới được
Tuy Hòa. Không ai đã biết được có bao nhiêu người từng cùng nhau lên
đường rời bỏ phố thị mà đã cuối cùng còn sống sót được, sau chuyến hành
trình đầy bi thương đó. Đã có trên 300 xe, quân xa lẫn dân sự, sau đó
đến trạm xăng dầu do Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp vận thiết lập để xin thêm nhiên
liệu. Và độ 5.000 người dân đã tới tạm trú tại một trung tâm tỵ nạn dã
chiến ở Tuy Hòa vào hôm đó. Một số khác thì đã tiếp tục đi Qui Nhơn hay
là Nhatrang, hoặc là về tạm trú với thân nhân ngay trong thị xã.
Về
phương diện quân sự, thì cuộc triệt thoái đã là một thất bại hoàn toàn.
Gần như toàn bộ các đơn vị rút đi từ vùng Kontum – Pleiku đều đã bị tan
rã. Đại tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng Quân đoàn II, ước lượng là có
được 5.000 trong tổng số 20.000 quân nhân phụ trách về tiếp vận và yểm
trợ, cuối cùng đã được cứu thoát. Trong số năm liên đoàn biệt động quân,
thì có độ 900 quân nhân về trình diện được Bộ Chỉ Huy Quân đoàn tại
Nhatrang. Nhưng Tiểu đoàn 34 BĐQ, mà sau này đã được các người di tản
tôn thờ gọi là “anh hùng nhổ chốt”, thì lại chỉ bị tổn hại có 50 phần
trăm mà thôi. Đơn vị này đã được giữ lại để bảo vệ thị xã Tuy Hòa.
Nguyên Nhân và Hậu Quả
• •
Khi
nhìn lại thì cũng dể để mà đi chỉ trích thôi, nhưng cho dù khái niệm
bảo mật cùng bất ngờ về chiến thuật mà có lý đến mức nào đi nữa, thì vị
tư lệnh Quân đoàn cũng đã phải có bổn phận, cùng ban tham mưu, soạn thảo
trong chi tiết, một kế hoặch và cũng đã phải trực tiếp chỉ huy toàn bộ
chiến dịch. Việc soạn thảo kế hoặch của ông
đã thật là hạn chế, và chỉ có một nhúm nhỏ vị chỉ huy thuộc hạ thân tín
của ông là mới được quyền góp ý, cũng như là biết được về cuộc triệt
thoái mà thôi. Ban tham mưu thì đã hoàn toàn không biết gì cả . . .
• •
Cuối cùng, việc thất bại này cũng đã là của giới chỉ huy, thuộc mọi cấp mà thôi. Binh
sĩ thì đã không được thuyết trình hướng dẫn, kỷ luật thì đã không được
triệt để thi hành, các hạn chế cũng đã không được ban hành, hầu sẽ giúp
tránh tình trạng vô kỷ luật và hỗn loạn. Rồi đặc biệt, binh sĩ đã không
được giải thích rõ ràng là sẽ phải đãm nhiệm vai trò khó khăn là nhổ
chốt địch, những trở ngại cuối cùng mà sẽ quyết định cho ngay việc sống
còn của chính họ mà thôi.
Về
quân sự, hậu quả của cuộc triệt thoái đã là một cuộc tan hàng tháo chạy
với những tầm độ chiến lược quy mô. Ít nhất là đã có tới cả 75 phần
trăm khả năng chiến đấu của Quân đoàn II, kể cả Sư đoàn 23 Bộ binh cũng
như là biệt động quân, thiết giáp, pháo binh, công binh và truyền tin,
đã cùng bị bỏ phí một cách bi thương, chỉ có trong vòng mười ngày mà
thôi. Chiến dịch nhằm tái chiếm Ban-mê-thuột rồi cũng đã không có được,
đơn giản chỉ vì Quân khu II thì nay cũng không còn có binh sĩ tác chiến
nữa rồi. Bộ đội Cộng sản đã chiếm được Kontum và Pleiku mà không cần
phải đánh đấm gì cả . . .
Về
tâm ly và chính trị, thì việc tự mình làm thua trận của Quân khu II
trên Cao nguyên đã đưa đến kết quả như là một cơn ác mộng, cho nhân dân
cùng binh sĩ của Miền Nam. Tâm trạng mọi người nay chỉ còn là bối rối,
lo âu, băn khoăn, đổ lỗi cho nhau, với mặc cảm tội lỗi cũng như là một
cảm giác ngỡ ngàng tập thể. Các tin đồn đã lan nhanh là đã có quyết định
cắt đất nhường cho địch rồi. Kết quả tức thời của các tin đồn đã là làn
sóng người tỵ nạn hoàn toàn vô phương kiểm soát, mà nay đang mưu tìm
mọi phương tiện, hầu phải bằng bất cứ giá nào, để rời bỏ những tỉnh còn
lại của Quân khu II. Ở phía bắc thì Quân khu I cũng đã bị ảnh hưởng và
tràn ngập bởi tâm trạng vô vọng đó. Rồi thì sau đó, dân chúng cũng bèn
gia nhập làn sóng người tỵ nạn, cùng các quân nhân tan hàng hốc hác đang
lũ lượt kéo nhau xuôi nam dọc theo bờ biển. Trước hết, thì họ đua nhau
vào Phan Rang, rồi tới Phan Thiết, để rồi lại tiếp tục chạy về thấu Sài
Gòn. Ngay tại thủ đô, thì phong trào đối nghịch cũng đang gia tăng hoạt
động và cũng đã phá nát vĩnh viển lòng tin cậy của người dân vào chính
phủ. Niềm tin vào quân đội cũng bị xuống thấp tới mức tận cùng. Nhiều kẻ
biểu tình xuống đường giận dữ đòi Tổng Thống Thiệu phải bị thay thế; họ
cũng lớn tiếng chống Mỹ. Tuy nhiên, một niềm tin vẫn cứ bàng bạc là,
rồi thì, sẽ có một điều kỳ diệu xẩy ra, để cứu Miền Nam Việt Nam mà
thôi.
*****
1.
Việc
phân bổ cho Quân Khu I các Sư đoàn Dù và Thủy Quân Lục Chiến đã khiến
cho Bộ Tổng Tham Mưu . . . lần đầu tiên trong cuộc chiến, không còn lực
lượng tổng trừ bị nào nữa cả.
2.
Bernard Kalb và Marvin Kalb, Kissinger (Boston: Little, Brown and Co., 1974), trang 183-184.
3.
Như trên, trang 354.
*****
Chú thích của TS Lewis Sorley
Các
phụ chú của các tác giả thì cũng đã được in theo như thông lệ. Những
phụ chú ngắn có tính cách giải thích hay các tu chính do chính họ đã bổ
túc thêm thì đều được đặt trong dấu ngoặc [ . . .] ‘brackets’. Các đoạn
bị rút bỏ trong nguyên bản thì đều được ghi bằng dấu ( . . . )
‘ellipses’, nếu xẩy ra trong một câu hay một phân đoạn nào đó. Khi có
một phần khá lớn bị loại bỏ thì sẽ được cho thấy bằng những chấm lớn nằm
riêng ’centered, larger ellipsis points’ như là
• •
*****
Phụ đính của người chuyển ngữ
1 ►
“seventy-eight” thay vì là “seventy-eigth” như trong nguyên bản, tức là “bảy mươi tám” thôi.
2 ►
Ngày
14 tháng 3 năm 1975 tại Phước An, Darlac, Chuẩn tướng Lê Trung Tường bị
thương nhẹ tại cầu 31, thuộc quận Phước An, tỉnh Darlac trong khi đang
chỉ huy và điều động các Trung đoàn trực thuộc để hành quân tái chiếm
Thị xã Ban Mê Thuột. Ông được di tản về Sài Gòn điều trị. Đầu tháng 4
năm 1975, sau khi xuất viện, ông được cử vào chức vụ Tham mưu trưởng
Quân đoàn III và Quân khu 3.
Sau
ngày 30 tháng 4, ông ra trình diện, bị đi tù cho đến ngày 11 tháng 2
năm 1988 mới được trả tự do. Không xuất cảnh theo diện H.O. do Chính phủ
Hoa Kỳ bảo lãnh, mà ở lại trong nước và ngày 22 tháng 5 năm 2009 từ
trần, hưởng thọ 82 tuổi.
3 ►
Các
chi tiết VÔ LÝ này do từ phía Quốc Hội Mỹ, dẫn đầu bởi Ed Kennedy, kẻ
từng tàn nhẫn tuyên bố là đối với VNCH, “cho thêm 1 xu cũng không cho”,
thì cũng đã được ngay chính Tổng Thống Nixon đau đớn liệt kê ra từ trang
193 của bài biên khảo No More Vietnam mà ông xuất bản vào năm 1985.
4 ►
Lưu ý là khi tường thuật về cuộc họp tại Cam Ranh, thì Tướng Viên hoàn toàn không
có nói gì là Tướng Phú có tình nguyện xin được tử thủ tại Pleiku như
nhiều bài phỏng vấn sau này ở hải ngoại viết. Tướng Phú đã tự tử bằng
độc dược khi, vào lúc cuối, trực thăng hẹn đến đón tới trể, và sau đó
thì đã được đưa vào Bệnh viện Grall nhưng cứu không được.
5 ►
Đúng ra phải là Phạm Duy Tất, nguyên thuộc Bộ binh
Hình Quân Khu II trong Bài Triệt Thoái Khỏi Quân Đoàn II
(Phỏng Vấn Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất) của Đỗ Sơn
6 ►
Biên khảo này cũng đã từng được xuất bản riêng với
tựa đề The Final Collapse, bìa mỏng, dày 196 trang bởi CreateSpace
Independent Publishing Platform (7 tháng 10 năm 2015) và với ân bản
Kindle Edition, File Size 5516 KB và dài 200 trang bởi Pickle Partners
Publishing (28 tháng 3 năm 2016), đều cùng có thể mua tại Amazon.
Trong
quyển No More Vietnams (Richard Nixon, Arbor House NY, 1985) thì chính
cựu Tổng Thống Nixon cũng có ghi nhận là ông ta cũng từng đã phải tham
khảo ”Final Collapse” của Tướng Viên, như là một nguồn tài liệu bổ ích
‘useful’ (trang 239: Author’s Notes).
7 ►
Có thể biết thêm về Tướng Viên qua bài phỏng vấn ông bởi LS Lâm Lể Trinh tại
8 ►
Các hình đều do người chuyển ngữ phụ đính sưu tìm trên Liên Mạng.
Mọi đoạn nhấn mạnh bằng màu XANH là do người chuyển ngữ.
No comments:
Post a Comment