Việt Nam Cộng Hòa mất về tay cộng sản sau ba mươi năm giao đấu trên chiến trường. CSVN đã chiến thắng qua lối đánh của họ dù gọi là chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân, chiến tranh cách mạng, hay chiến tranh giải phóng. Đây là nhắc nhở cho nhiều quốc gia khác: sẽ còn nhiều Việt Nam nữa trong tương lai. Từng quốc gia một, những quốc gia chống cộng lần lần bị xâm chiếm. Có thể đến một ngày nào đó, thế giới chỉ còn lại Hoa Kỳ, ba hay bốn cường quốc đồng minh, bao vây bởi những quốc gia cộng sản hay quốc gia thân cộng sản. Đây là viễn tượng bi quan chúng ta sẽ đối diện trong những thập niên sắp đến nếu chúng ta không nhận ra những khuyết điểm đã làm, để có thể tìm một đường lối hành động trong tương lai.
Sau khi đọc hết các chương trước, nếu để ý độc giả có thể nhận ra được những lý do đưa đến sự sụp đổ của miền Nam. Những lý do tác giả đưa ra trong sách này lý do lộ liễu hay ngấm ngầm là những lý do đưa đến sự thất thủ của miền Nam:
(1) Miền Nam đã ký một hiệp định trong đó cộng sản có nhiều ưu thế; và Hiệp Định Paris 1973 làm cho cán cân lực lượng nghiêng về phía cộng sản thêm sức mạnh và cho phép họ tấn công đánh chiếm miền Nam.
(2) Những hứa hẹn của tổng thống Nixon là Hoa Kỳ sẽ trả đũa mạnh trong trường hợp CSBV vi phạm hiệp định, đã không được tổng thống Ford thực hành khi CSBV tấn công miền Nam một cách lộ liễu.
(3) Sự giảm thiểu quân viện lớn lao và bất ngờ, gây nhiều trở ngại về khả năng tác chiến và làm suy sụp tinh thần dân miền Nam.
(4) Những quyết định chiến lược quyết định phải có của tổng thống Thiệu đưa ra quá trể để có thể thực hiện như mong muốn. Kế hoạch triệt thoái khỏi Cao Nguyên diễn ra quá vội vàng, đưa đến sự sụp đổ nhanh chóng của Quân Đoàn I và II.
(5) Cấp lãnh đạo VNCH không thấy rõ sự thay đổi về đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ, khi Hoa Kỳ chuyển sang thái độ hòa hoãn, thoả hiệp với cộng sản quốc tế dù phải thất hứa với đồng minh. Vì không nhận rõ sự thay đổi ngoại giao của Hoa Kỳ, cấp lãnh đạo VNCH đã không uyển chuyển thay đổi kế hoạch quốc gia cho phù hợp với thực trạng và tình thế. Sau hiệp định Paris 1973, VNCH vẫn trông đợi vào những hứa hẹn xa vời và bất thể hiện.
Lý do sau cùng: sau một thời gian chiến tranh dài, Việt Nam Cộng Hòa bị phá sản về phương diện kinh tế cũng như chính trị. Tinh thần đoàn kết quốc gia không còn; không có được một lãnh tụ nào có thể kêu gọi toàn dân đoàn kết lại cho một chính nghĩa chung. Tham nhũng, thiếu khả năng, và thờ ơ với nhiệm vụ, chính phủ không làm tròn trách nhiệm với người dân trong khi người dân mất dần niềm tin vào chánh phủ. Mặc dù với nhiều kế hoạch kinh tế có vẻ lạc quan bề ngoài, nền kinh tế quốc gia tiếp tục đi xuống đến mức chỉ còn một phép lạ mới cứu vãn được. Với những khuyết điểm đó, cơ cấu và nền tảng xã hội miền Nam từ từ bị vỡ tan từng mảnh. Băng hoại đến từ sự chia rẽ, thiếu niềm tin, hoang mang, và đôi lúc, có những ý nghĩ chủ bại: Với những ung nhọt đó, miền Nam như một trái cây chín mùi, dể rụng trước một cơn gió nhẹ.
Ngoài lý do chính kể trên, đi ngược về quá khứ, nhiều lý do khác thuộc về lãnh vực kinh tế, chính trị, ngoại giao quốc tế... cùng đưa VNCH đến sự sụp đổ hoàn toàn. Sau đệ nhị thế chiến, không ai chối cãi vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ như một cường quốc trên thế giới. Nhưng đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ, đối với Việt Nam nói riêng, hay đối với Đông Nam Á nói chung, thay đổi nhiều lần qua nhiều giai đoạn từ sau năm 1945: Thời gian đầu Hoa Kỳ không có đường lối ngoại giai nào; kế đến là một đường lối chống cộng mãnh liệt; sau cùng là nhân nhượng và thỏa hiệp. Những thay đổi ngoại giao này ảnh hưởng chiến lực quân sự cũng như viện trợ kinh tế cho vùng Đông Nam Á.
Tổng thống Franklin D. Rooservelt không có một ý định rõ ràng về chuyện ủng hộ người Pháp trở lại Việt Nam sau khi thế chiến thứ hai chấm dứt. Chính phủ Truman cũng không có thái độ dứt khoát khi Pháp và Việt Minh có những xung đột đầu tiên trong năm 1945-1946. Hoa Kỳ từ chối khi Pháp yêu cầu Hoa Kỳ cung cấp phương tiện chuyên chở để đưa quân Pháp trở lại Đông Dương; cũng như từ chối đứng về phía nguười Pháp đánh lại Việt Minh. Nhưng Hoa Kỳ cũng không chấp nhận lời kêu gọi ủng hộ một nền độc lập cho Việt Nam của Hồ Chí Minh. Vào tháng 7 và 8, sau khi chiếm được chính quyền ở Hà Nội, Hồ Chí Minh nhờ nhân viên Sở Tình Báo OSS gởi tổng thống Truman một lá thư thỉnh cầu Việt Nam được cho quyền tự trị giống như Phi Luật Tân trong thời gian chờ được hoàn toàn độc lập. Từ tháng 10-1945 cho đến tháng 2-1946, Hồ Chí Minh viết cho tổng thống Truman hay tổng trưởng ngoại giao Hoa Kỳ ít nhất là tám lá thư, thỉnh cầu Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc can thiệp vào chế độ thực dân của Pháp ở Việt Nam. Sử liệu không cho thấy Hoa Kỳ trả lời những thỉnh nguyện thư này. Như vậy, khi Hoa Kỳ không can thiệp, có nghĩa là Hoa Kỳ đứng về phía người Pháp.(1)
Nhưng vào năm 1949, sau khi Việt Nam được Pháp cho một chút độc lập như một quốc gia trong Liên Hiệp Pháp dưới sự lãnh đạo của Bảo Đại, Hoa Kỳ cũng không thật sự ủng hộ Bảo Đại vì nghĩ Bảo Đại là một lãnh tụ yếu và bù nhìn. Đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ đối với Việt Nam chỉ thay đổi khi Mao Trạch Đông toàn thâu Hoa Lục vào cuối năm 1949. Khi Trung Cộng và Nga công nhận chính phủ Hồ Chí Minh vào tháng Giêng, 1950, Hoa Kỳ lập tức công nhận chính phủ Bảo Đại vào tháng 2 năm đó. Rồi ba tháng sau, Hoa Kỳ tuyên bố sẽ viện trợ quân sự và kinh tế cho Pháp để giúp Pháp tiếp tục cai trị Đông Dương. Từ một ngân khoản nhỏ là 10 triệu Mỹ kim lúc khởi đầu, ngân quỹ viện trợ cho Pháp tăng lên gần 1 tỉ Mỹ kim vào đầu năm 1954. Cuộc chiến tranh thứ nhất ở Đông Dương được khởi sự bằng tiền Mỹ qua bàn tay Pháp.(2)
Sau khi Pháp thua trận Điện Biên Phủ và phải ký Hiệp Định Geneva năm 1954, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia của chính phủ Eisenhower nghĩ hiệp định Geneva quá bất lợi cho chiến lược của đồng minh, và Hoa Kỳ phải tìm cách chận đứng làn sóng cộng sản tràn xuống miền Nam. Chủ đích của đường lối ngoại giao Hoa Kỳ là "bảo vệ và duy trì một quốc gia ở miền Nam không cộng sản" đây là chính phủ Việt Nam Cộng Hòa của tổng thống Ngô Đình Diệm "và ngăn chận không cho cộng sản chiếm được đa số" trong cuộc bầu cử tổng quát trên toàn cõi Việt Nam, nếu cuộc bầu cử được tổ chức. Việt Nam Cộng Hòa bây giờ nhận viện trợ thẳng từ Hoa Kỳ. Quân đội VNCH, do người Pháp huấn luyện từ trước, được cải tổ sâu rộng những quân nhân trong quân đội cũ, dù với nhiều kinh nghiệm chiến trường, nhưng vì có liên hệ với người Pháp, bị cho về hưu. Một thế hệ quân nhân mới, một chế độ quân dịch mới được lập thành Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Mục đích là thành lập các đơn vị cấp sư đoàn dưới sự hướng dẫn của người Mỹ. Phương pháp huấn luyện và quân dụng của quân đội Hoa Kỳ được toàn bộ áp dụng. Để làm quen với hệ thống chỉ huy mới, sĩ quan bị bắt buộc theo học khoá Chỉ Huy và Lãnh Đạo. Một số trong những sĩ quan này được đưa sang Hoa Kỳ để tiếp tục được huấn luyện thêm ở những trung tâm quân sự. Khi thành tổng thống, Kennedy thay đổi đường lối ngoại giao quân sự của chính phủ Eisenhower bằng cách gia tăng sự hiện diện của người Mỹ nhiều hơn ở Việt Nam. Tuy nhiên, chính phủ Kennedy chỉ cung cấp cố vấn chứ chưa thật sự cho lính tác chiến song song với quân đội VNCH. Sau khi Kennedy bị ám sát, tổng thống Johnson nới rộng cuộc chiến bằng cách đem nhiều quân tác chiến vào và bắt đầu dội bom Bắc Việt. Từ con số 3500 quân vào tháng 3-1965, Hoa Kỳ có hơn 550,000 quân ở Việt Nam vào đầu năm 1969.
Nhưng sau tổng thống Johnson, người tổng thống kế vị, Richard Nixon, thay đổi phương cách hổ trợ của Hoa Kỳ ở Việt Nam qua một kế hoạch gọi là Việt Nam Hóa. Kế hoạch này là một sản phẩm phụ của chủ thuyết ngoại giao mới. Thay vì đương đầu thẳng với cộng sản, ông kêu gọi hợp tác, đồng lòng, và sức mạnh của quốc gia là ba rường cột đưa đến hòa bình thế giới. Cái khác biệt của chủ thuyết Nixon về an ninh quốc phòng khác với những chủ thuyết ngoại giao của Hoa Kỳ từ năm 1945 cho đến nay là, Nixon đặt nặng chủ thuyết của ông vào "vai trò của đồng minh trong vấn đề phòng thủ chung." Tổng trưởng quốc phòng Melvin R. Laird chỉ trích chủ thuyết ngoại giao của Nixon như sau:
"Từ quan điểm phòng thủ Hoa Kỳ, thảm kịch thật sự của Việt Nam là chương trình Việt Nam Hóa không được bắt đầu sớm hơn năm 1969, với những kế hoạch có chủ tâm huấn luyện và trang bị quân đội VNCH hữu hiệu hơn, để họ có thể chiến đấu chống lại CSBV, và chống lại những quấy phá của Việt Cộng về vấn đề an ninh trong lãnh thổ. Cơ hội Việt Nam Hóa đã có từ đầu thập niên 60 (và không chỉ ở Việt Nam). Nhưng cơ hội đó bị bỏ qua một bên, thay vào đó là quyết định đem quân tác chiến vào Việt Nam và gia tăng sự có mặt của Hoa Kỳ trên mọi lãnh vực của cuộc chiến."(3)
Lấy thí dụ về khẩu súng cá nhân căn bản của quân đội VNCH, súng AR-15, sau này là M-16: AR-15 được thử nghiệm ngoài chiến trường từ năm 1964. Lữ Đoàn Nhảy Dù thích loại súng cá nhân này: nhẹ, dễ bảo trì, chính xác, đạn nhỏ, có thể mang trên người một số lượng lớn. Tuy đầu đạn nhỏ, nhưng sức công phá rất mạnh vì vận tốc nhanh của đạn. Nói tóm lại, đây là loại súng thích hợp cho quân nhân Việt Nam, ở chiến trường Việt Nam. Nhưng chỉ có hơn hai trăm khẩu AR-15 được đem qua thử nghiệm và xử dụng. Sau này súng M-16 chỉ được viện trợ đồng loạt để làm căn bản cho quân đội VNCH sau khi VC và CSVN chúng tỏ hỏa lực của họ qua loại vũ khí cá nhân như AK-47. Các loại vũ khí khác của CSBV cũng tỏ ra rất tối tân so với vũ khí cá nhân của chúng ta. Quân đội VNCH chỉ nhận được súng chống xe tăng M-72 và hỏa tiển TOW, sau khi cộng sản đã được trang bị hỏa tiễn chống người và xe tăng B-40, B-41. Tương tự, quân đội VNCH được trangbị đại bác 175 ly và xe tăng M-48 sau khi cộng sản đã có đại bác 130 ly và tăng T-54. Đó là một vài thí dụ về vũ khí trang bị ở chiến trường.
Phải công nhận, lệ thuộc vào vũ khí tối tân đôi khi cũng có nhiều vấn đề, nếu không nói là nguy hiểm. Trước năm 1954, trong khi chiến đấu song song bên cạnh quân đội Pháp một quốc gia không giàu như Hoa Kỳ Quân Đội Quốc Gia Việt Nam phải dung hòa giữa sức người và cơ giới. Nhưng đến năm 1955 khi nhận quân viện thẳng từ Hoa Kỳ, quân đội VNCH đã áp dụng chiến thuật đã học tập từ quân đội Hoa Kỳ, và áp dụng một cách triệt để trong suốt thời gian chiến đấu bên cạnh quân đội Hoa Kỳ. Nhưng lối đánh giặc kiểu đó được gọi là kiểu đánh giặc nhà giàu. Với văn minh khoa học tân tiến, Hoa Kỳ dùng kỹ thuật thay thế cho nhân lực: Thay vì đi bộ hành quân, chúng ta dùng thiết vận xa M-113; tất cả những cuộc tấn công đều được phi pháo yểm trợ tối đa. Khi quân viện bị cắt giảm, từ tình trạng dư thừa rơi xuống túng thiếu, tinh thần và khả năng tác chiến của quân đội VNCH bị sa sút. Từ đầu năm 1974, BTTM cố gắng áp dụng nhiều biện pháp để thay đổi, sửa chữa lối đánh giặc tốn kém đó, nhưng không còn đủ thời gian.
Còn người cộng sản thì sao "Có viện trợ hay không có viện trợ họ xoay sở ra làm sao" Sau cùng, họ đã chiếm miền Nam bằng xe tăng và đại pháo của Nga. Trong giai đoạn đầu chiến tranh, phải nói, vũ khí của Việt Minh và cộng sản có được đến từ Pháp và Nhật trong các trận phục kính hay thắng trận. Ngoài ra, họ dùng sức người thay cơ giới trong lối đánh giặc nhà ngèo của họ. Trong giai đoạn sơ thời của chiến tranh du kích, cộng sản ở miền Nam sống bám chặt vào dân ở nông thôn như loài dây leo cần một thân cây để sống. Họ đánh thuế vào nông và đặc sản địa phương để gây quỹ cho cuộc chiến. Chính phủ VNCH đã dùng nhiều biện pháp để ngăn chận kế hoạch thâu thuế của cộng sản, nhất là vào các đặc sản như lúa và cao su.
Sau khi Mao Trach Đông toàn thâu Hoa Lục, từ năm 1950 trở đi, Việt Minh nhận rất nhiều quân viện từ Nga và Trung Cộng. Nhưng để dể hoạt động, Bắc Việt không bao giờ công bố chính xác số quân viện nhận từ các đồng minh cộng sản. Cũng như Trung Cộng có nhiều cố vấn trong quân đội Bắc Việt, nhưng họ không bao giờ công nhận điều này. Trái lại, CSBV lúc nào cũng giáo huấn cán bộ và binh sĩ của họ phải tự lực hơn là nhờ vào viện trợ nước ngoài. Dù nhờ vào số vũ khí tối tân và quan trọng để chiến thắng miền Nam, nhưng CSBV không bao giờ coi đó là một yếu tố quan trọng.
Về phía VNCH, chiến thuật và chiến lược của cuộc chiến lúc nào cũng nằm ở thế thụ động, phòng thủ. Vì mục đích của VNCH là chỉ ngăn chận chứ không bao giờ nghĩ chuyện tấn công ra miền Bắc. Hai lần trong cuộc chiến quân đội VNCH băng qua biên giới Lào và Cam Bốt để đánh vào căn cứ hậu cần của CSBV. Tuy nhiên những cuộc tấn công này vẫn có chủ đích phòng thủ và không bao giờ được hoạch định như một kế hoạch dài hạn. Mục đích chính của quân đội VNCH là bình định (có nghĩa là kiểm soát) dân số trong lãnh thổ. Từ nhiệm vụ chính đó, chiến lược quân sự của VNCH có hai mặt: một, bình định ở vùng đông dân cư; hai, truy lùng và triệt tiêu các đơn vị lớn của CS ở vùng thưa dân cư. Trong suốt cuộc chiến, chiến lược này bắt quân đội VNCH phải chạy theo sau đối phương vì CSBV lúc nào cũng nắm thế thượng phong về chiến thuật cũng như là vũ khí.
Nhiều người chưa thấu đáo về quân sự hỏi, tại sao chúng ta không đánh bại được cộng sản trong những năm đầu của cuộc chiến, khi quân ta đông hơn du kích quân cộng sản" Lý do chánh là chiến tranh du kích có qui tắc riêng và khác xa chiến tranh qui ước. Trong chiến tranh du kích, địch không có cơ sở hay căn cứ nằm lộ ra ngoài để họ cần bảo vệ. Du kích sống trà trộn với dân và ngay trong lãnh thổ của ta, hay ẩn núp ở mật khu của họ. Khi đông quân và ở thế thượng phong, họ tấn công. Ngược lại, họ lẫn trốn khi yếu thế. Sau mỗi trận đánh, cộng quân rút về mật khu để tái bổ sung, huấn luyện và trang bị. Chiến tranh với cộng sản ở Hy Lạp và Mã Lai Á hay Phi Luật Tân dễ hơn ở Việt Nam. Những quốc gia đó là những bán đảo, hay ở giữa biển, rất dể ngăn chận người và vật liệu xâm nhập từ ngoài vào. Nhưng VNCH có chung biên giới dài cả ngàn cây số với Bắc Việt, Lào và Cam Bốt. Biên giới dài vô tận đó, với núi đèo và rừng sâu tiện lợi cho việc thiết lập căn cứ, cộng sản ở miền nam dùng đó để tiếp nhận vũ khí, nhân sự từ quân đội chánh quy CSBV.
Chú Thích
1. Kết luận về đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ, dựa theo "Tài Liệu Ngũ Giác Đài" đăng trên báo The New York Times năm 1971. Về liên hệ giữa Hồ Chí Minh và toán OSS ở Côn Minh, thư từ của Hồ Chí Minh gởi cho Bộ Ngoại Giao và tổng thống Truman, xin đọc Why Vietnam: Prelude to America's Albatross của Archimedes L.A. Patti (Los Angeles: University of California Press, 1980), (chú thích của tác giả).
2. Sau Thế Chiến Thứ II, từ năm 1946 Stalin tuyên bố sẽ có kế hoạch nhuộm đỏ thế giới. Để ngăn chận sự bành trướng của cộng sản, Hoa Kỳ đề xướng chủ thuyết Ngăn Chận, hay Chận Đứng (Containment), và coi đó như một chủ thuyết ngoại giao quốc gia, dùng để giới hạn làn sóng cộng sản quốc tế. Chủ thuyết này đã giúp các quốc gia như Hy Lạp, Phi Luật Tân, Mã Lai Á hay Đại Hàn tồn tại trước những tấn công của cộng sản. Tuy nhiên vì địa lý thiên nhiên, tình hình chính trị và nhân văn quá đặc biệt của các quốc gia Đông Dương, nếu chủ thuyết Ngăn Chận được bổ túc bằng chiến lược cô lập (sẽ nói ở phần cuối cuốn sách) thành một chiến lược chính trị địa lý (geopolitics) thì cục diện chiến tranh có thể biến chuyển thuận lợi cho VNCH, Lào và Cam Bốt (chú thích của tác giả).
3. Trích trong bài diễn văn "The Nixon Doctrine: From Despair to New Opportunities" của tổng trưởng quốc phòng Melvin R. Laird.
Trong khi đó phía quân đội VNCH cần phải có lính để canh giữ đồn bót, cơ quan hành chánh; phải bảo vệ an ninh cho dân ở điạ phương, dù điạ phương đó ở gần hay xa thị tứ. Dĩ nhiên, lính lại cần nhiều hơn nữa cho các cuộc hành quân truy lùng và triệt tiêu. Theo những nghiên cứu của các chuyên gia về du kích chiến. Muốn thắng du kích quân, chúng ta cần có một lực lượng 10 trên 1; với lực lượng 5 trên 1, cuộc chiến sẽ bất phân thắng bại và kéo dài trong một thời gian vô định. Ngược lại, nếu lực lượng của chính phủ chỉ hơn du kích quân 2 đến 3 lần, thì du kích quân sẽ có cơ hội thắng. Tỉ lệ giữa lực lượng Đồng Minh và cộng sản trong cuộc chiến Việt Nam là 4.7 trên 1 khi Đồng Minh có 1 triệu 500 ngàn quân và cộng sản có 320 ngàn quân. Với tỉ lệ quân số này, chúng ta có khả năng đánh bật cộng sản ra ngoài lãnh thổ VNCH. Nhưng phải hiểu, ngoài những hỏa lực cơ hữu của các sư đoàn bộ binh Hoa Kỳ, quân đội Hoa Kỳ và VNCH còn được không trợ của Không và Hải Quân Hoa Kỳ yểm trợ tối đa khi cần.
Với những yểm trợ từ cộng sản quốc tế, chiến tranh ở Việt Nam không còn là một cuộc "nội chiến" như nhiều người đã lầm tưởng. Trong những giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến, quân đội CSBV được trang bị vũ khí tối tân nhất của khối cộng sản. Kế hoạch đánh chiếm miền Nam được CSBV soạn thảo và chỉ huy, và thể hiện qua con bài của họ là Mặt Trận Giải Phóng và Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời Nam Việt Nam.
Có nhiều đề nghị tại sao VNCH không dùng chiến thuật du kích để đánh lại cộng sản ngay trong vùng kiểm soát của họ, hay ngay ở miền Bắc. Những chiến thuật của du kích chiến chỉ có thể thực hiện được trên một tầm vóc nhỏ, giới hạn. Quân chúng ta không thể nào sống trong lòng địch và có được sự yểm trợ của dân địa phương. Khi chúng ta áp dụng chiến thuật du kích để đánh du kích, chúng ta có nhiều thất bại hơn thành công. Có một định lý về chế độ kiểm soát của cộng sản: khi một nhóm dân bị cộng sản ở địa phương đó kiểm soát trong một thời gian vài năm, nhóm dân ở đó sẽ bị kiểm soát chặt không thoát được những người chống đối sẽ bị cô lập; các lãnh tụ đối lập bị triệt tiêu hay vô hiệu hóa.
Việt Nam có được độc lập từ cuối năm 1954. Nhưng như một quốc gia, toàn dân Việt Nam chưa tiến đến một trình độ dân trí được coi như là khả quan. Nhiều người dân sống trong hoàn cảnh chiến tranh lâu đến độ họ không quan tâm đến chiến tranh nữa. Vì thế người dân cần được thúc đẩy, giáo dục và hướng dẫn. Nhưng dân chủ, một hình thức chánh phủ mới lạ với họ chưa chắc là một giải pháp tốt nhất.
Khi một quốc gia đang chiến đấu để sinh tồn và cùng lúc muốn bảo vệ những nguyên tắc dân chủ là một chuyện khó khăn. Có lúc, chính quyền VNCH không thể nào áp dụng những phương thức "trái dân chủ" để giải quyết những tệ trạng như đào ngũ, trốn lính, biểu tình, hay những phong trào phản động có khuynh hướng làm lợi cho địch. Chính phủ VNCH có nhiều khiếm khuyết trong việc ngăn chận những thành phần thân cộng đang sống một cách tự do để hoạt động cho phía họ. Nhiều thân nhân của các cán bộ cao cấp cộng sản vẫn được chính phủ VNCH cho phép sống một cách yên lành ở ngay trong vùng kiểm soát của quốc gia. Sau khi Saigon thất thủ, nhiều văn nghệ sĩ, quân nhân công chức ở lại đã được chánh quyền cộng sản thưởng cho nhiều vai trò trong cơ sở hành chánh của họ. Đối với tác giả, trong một hoàn cảnh chiến tranh, tất cả quyết định và kế hoạch đều phải hướng về chủ đích chiến đấu để chiến thắng. Mọi ưu tiên đều phải dành cho chiến tranh; tất cả các kế hoạch khác chỉ là phụ thuộc.
Nói một cách tổng quát, kế hoạch tổng động viên của VNCH chỉ đem lại được phân nửa số nhân lực quân đội cần thiết. Chính phủ đạt được những kết quả khiêm nhường trong kế hoạch ngăn ngừa nạn trốn lính, đào ngũ, để kiểm soát được nhân lực của quốc gia. Vì thiếu quân số thường xuyên, các đơn vị ít được cơ hội nghỉ dưỡng sức dài hạn và bồi dưởng. Trong khi đó điều kiện vật chất và đời sống của gia đình binh sĩ thường dưới mức trung bình. Chính phủ VNCH có nhiều khuyết điểm trong việc tuyển chọn, xử dụng nhân sự trong quân đội và hành chánh: sự bổ nhiệm và thăng thưởng không tùy thuộc vào đức hạnh, khả năng hay tài sức, mà tùy thuộc vào sự quen biết cá nhân, liên hệ gia đình hay giòng họ. Sự trừng phạt cũng chỉ lấy lệ, đôi khi không có, đối với những quân nhân công chức phạm pháp. Điều này thúc đẩy thêm nhiều sự phạm pháp trong nền hành chánh và trong quân đội.
Dù dân số Bắc Việt chỉ hơn miền Nam hai triệu người, chế độ quân dịch và hệ thống đôn quân của họ đưọc kiểm soát chặt chẽ và sâu rộng. Ngay cả các tù binh chiến tranh sau khi được phóng thích hay trao trả, CSBV tái huấn luyện và bổ sung trở lại đơn vị. Miền Bắc cũng có chương trình tổng động viên, nhưng hệ thống quân dịch của CSBV được kiểm soát rất nghiêm ngặt; nạn trốn lính được giảm thiểu tối đa. Cùng lúc, ở những vùng hẻo lánh ở miền Nam, cộng sản ép buộc, dụ dổ những vị thành niên ở lứa tuổi 15-17 gia nhập quân đội họ. Nói một cách tổng quát, Bắc Việt có ưu thế nhiều hơn VNCH với một hậu phương được kiểm soát kỹ dưới hệ thống độc đảng của một xã hội cộng sản.
Trong chiến tranh Đại Hàn, quân đội đồng minh của Liên Hiệp Quốc nằm dưới một bộ tư lệnh duy nhất do Hoa Kỳ chỉ huy. Ngay trong giai đoạn hiểm nghèo nhất của cuộc chiến, tổng thống Nam Hàn đã cho phép công dân Nam Hàn chiến đấu trong các đơn vị Hoa Kỳ. Ở Việt Nam, trong giai đoạn cao nhất của cuộc chiến, quân đội VNCH và Hoa Kỳ không bao giờ có một bộ chỉ huy chung. Đó là một lỗi lầm lớn nhất trong nguyên tắc chiến tranh: hai quân đội không có được một bộ tư lệnh chung để điều khiển tất cả các lực lượng đang có mặt ở chiến trường. Khi thay vào một bộ tư lệnh duy nhất bằng những kế hoạch như hợp tác và điều hành hỗn hợp, sự thành công ở chiến trường, nếu có, chỉ phụ thuộc vào các vị tư lệnh chiến trường cố gắng tránh đụng chạm nhau. Có nhiều sự đụng chạm giữa hai phía Việt Mỹ đã xảy ra trong chiến trường Việt Nam, tuy nhiên những xung đột này không quan trọng hay đưa đến một đổ vỡ nào. Nhưng khi không có một bộ tư lệnh chung, những quyết định quân sự không được thực hiện nhanh chóng, những tiềm năng quân sự, nhân lực, không được áp dụng đúng chổ.
Về chiến thuật, với phương tiện cơ hữu như thiết vận xa M-113 và trực thăng, quân đội có thể mở những cuộc hành quân lớn một cách chớp nhoáng, thay vì phải bỏ ra nhiều ngày di chuyển đến mục tiêu. Nếu cần phải đóng quân lại tại một mặt trận lâu ngày, các căn cứ hoả lực có thể được thiết lập ngay để có thể cung cấp hoả lực cho mặt trận nếu cần. Nhưng phải nhấn mạnh, trong cuộc chiến Việt Nam, các tư lệnh chiến trường phải thường trực thay đổi chiến thuật, vì địch rất nhạy bén trong vấn đề thích ứng với chiến thuật mới của đối phương ở chiến trường để tránh thiệt hại.
Về quân báo: quân đội VNCH đạt được nhiều thành công khả quan về cơ cấu tổ chức cũng như về kỹ thuật thu thập tin tức. Từ năm 1968 trở đi, tin tức tình báo chúng ta thâu thập được chính xác và cập nhật hoá hơn. Tương tự, ở ngành Tiếp Liệu, hệ thống phân phối quân dụng, vũ khí cho quân đội được tối tân hóa, để các đơn vị có thể nhận được nhu dụng cần thiết nhanh chóng theo sự đòi hỏi của họ.
Nhiệm vụ căn bản của Không Quân Việt Nam là yểm trợ không lực chiến thuật ngoài mặt trận và chuyên chở không vận. Không Quân có khả năng rất giới hạn trong nhiệm vụ phòng thủ không phận. Vào cuối năm 1974 khi CSBV trang bị thêm nhiều hoả tiễn và phòng không tối tân, khả năng yểm trợ của không quân ở chiến trường giới hạn và kém hữu hiệu. Hải Quân Việt Nam, với nhiệm vụ chính là ngăn chận sự xâm nhập của CSBV ở sông và miền duyên hải. Hải Quân Việt Nam không phải là một lực lượng đáng ngại so với các nước tân tiến khác. Vũ khí trang bị của Hải Quân Việt Nam tỏ ra khiếm khuyết so với Hải Quân Trung Cộng khi hai nước giao chiến ở quần đảo Hoàng Sa vào đầu năm 1974.
Nói một cách tổng quát về khả năng của quân lực VNCH: trừ những khiếm khuyết về quân số và sự quản trị nhân lực, khi được trang bị đầy đủ, quân đội VNCH có thừa khả năng hoàn tất nhiệm vụ, như họ đã chứng minh vào hai cuộc tấn công ồ ạt của cộng sản vào năm 1968 và 1972.
Cuộc chiến tranh CSBV đeo đuổi liên tục qua một thời gian dài ở Việt Nam không phải là một cuộc chiến thuần túy về quân sự. Đó là một cuộc chiến toàn diện với những mặt trận về chính trị, ngoại giao và kinh tế. Về phương diện chính trị, cộng sản đã khôn khéo, không những lấy được viện trợ của các nước cộng sản, mà họ còn được sự ủng hộ của các quốc gia nằm trong khối Bất Liên Hiệp. CSVN lấy lòng được cả hai đàn anh Trung Cộng và Nga Sô dù hai quốc gia này đang gây hấn nhau để nhận quân viện từ hai bên. Theo những tin tức từ giới ngoại giao, trong năm 1974, CSBV nhận gấp ba, bốn lần, số quân viện so với các năm trước.
Cộng sản biết rõ quân đội VNCH sẽ chiến đấu nếu họ được một số quân viện tối thiểu. Biết được điều đó, CSBV tìm mọi cách để ngăn chận Hoa Kỳ tiếp tục viện trợ cho VNCH. Đây là một đòn rất độc hiểm của cộng sản, vì quân viện là nền tảng của cuộc chiến này. CSBV dùng tất cả bộ máy truyên truyền trong và ngoài nước để làm lợi cho họ. Một mặt họ tuyên truyền cuộc xâm lăng của họ là đúng; và cuộc chiến tự vệ của VNCH là sai. Sự tuyên truyền gây một ngộ nhận cho dân chúng Hoa Kỳ nghĩ chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến vô nhân bản; chánh phủ VNCH là một chánh phủ thiếu khả năng, tham nhũng, không xứng đáng nhận viện trợ của Hoa Kỳ và thế giới tự do.(4)
Một số lớn báo chí Hoa Kỳ có khuynh hướng chống lại cuộc chiến ở Việt Nam, và họ không có thái độ nào để chống lại những tuyên truyền sai lạc của cộng sản. Thêm vào đó, với những nhóm phản chiến rầm rộ tuyên truyền tiếp tay, khiến tiếng nói trung thực của chúng ta bị chìm sâu trong những ồn ào phản chiến; lý tưởng của cuộc tranh đấu bị lãng quên hay bị bỏ rơi. Một trong những nhóm phản chiến này có tên là Trung Tâm Hoạt Kế Đông Dương. Theo lời tường trình của đại sứ Graham Martin, Trung Tâm này là nơi qui tụ nhiều thành phần như giáo sư, tu sĩ, các nhà truyền giáo... họ in và lưu hành nhiều bức thư "hoà bình," kêu gọi ngưng cuộc chiến và chấm dứt mọi quân viện cho miền Nam.
Tuyên truyền chống chiến tranh của cộng sản đã làm tâm lý quần chúng Hoa Kỳ nghĩ cuộc chiến ở Việt Nam là một cuộc phiêu lưu vô vọng; một cuộc chiến không lối thoát. Từ những thái độ đó, thanh niên, học sinh Mỹ đứng lên biểu tình chống chiến tranh. Bị những áp lực đến từ quần chúng, quốc hội Hoa Kỳ không còn cách nào khác hơn là đưa ra những quyết nghị giới hạn dần những hoạt động quân sự của chính phủ Hoa Kỳ ở Đông Dương, rồi sau đó là quyết định giảm thiểu viện trợ cho VNCH. Sau cuộc chiến tranh Việt Pháp, mọi người nói sự thất bại xảy ra ở Ba Lê. Tương tự, trong cuộc chiến này, sự thất trận bắt nguồn tự nội địa Hoa Kỳ.
Chúng ta không thể phủ nhận kẻ thù của chúng ta quyết tâm, kiên trì và nhiều kinh nghiệm trong cuộc chiến. Trong suốt cuộc chiến, CSBV có một đường lối, kế hoạch chính trị quân sự liên tục, không thay đổi. Mục tiêu cố định của họ là cưỡng chiếm miền Nam qua những giai đoạn chiến tranh nhân dân, hay chiến tranh giải phóng bằng biện pháp quân sự. CSBV có nhiều thay đổi, có nhiều quyết nghị về cuộc chiến, nhưng tựu trung thái độ và mục đích của họ vẫn là dùng biện pháp quân sự để giải quyết chiến tranh.
Chiến lược của chúng ta trong cuộc chiến không được liên tục. Sau khi Hiệp Định Ba Lê được ký, trong khi cộng sản vẫn tiếp tục chuẩn bị cho những cuộc tấn công sau cùng, VNCH quay sang lo cải tổ, sửa soạn chấn hưng nền kinh tế. Để thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, chúng ta đã rút bớt 100 ngàn quân, đưa vào các kế hoạch kinh tế và sản xuất. Khi nhận ra cộng sản vẫn tiếp tục vi phạm hiệp ước đình chiến, kế hoạch trên đã phải hủy bỏ: ta đã mất đi một thời gian qúy báu.
Cộng sản không bao giờ quan tâm về những thiệt hại, dù lớn đến đâu. Mọi kế hoạch quân sự, thắng hay thua, đều có ý nghĩa như nhau miễn sao đạt được mục đích chính trị. Hai thí dụ điển hình về sự bất chấp thiệt hại nhân sự để đạt được tiếng vang chính trị, là trận tấn công năm Mậu Thân 1968 và trận "Mùa Hè Đỏ Lửa" năm 1972. Tình hình chung của VNCH vào năm 1968 rất khả quan. Mọi kế hoạch bình định tiến triển vượt bực; tình hình quân sự chung trên chiến trường cho thấy cuộc chiến sắp đến giai đoạn kết thúc. Nói theo quan điểm người Mỹ lúc đó là, chúng ta đã "nhìn thấy ánh sáng ở cuối đường hầm." Nhưng ngay giai đoạn đó cộng sản bất thần mở ba cuộc tấn công tự sát vào thị trấn, quận lỵ quan trọng ở miền Nam. Mặc dù cộng sản bị thiệt hại khủng khiếp trong các cuộc tấn công đó, nhưng họ chứng tỏ cho thế giới và Hoa Kỳ biết là họ chưa thua hẳn, và có khả năng làm những chuyện không ai ngờ được. Dư luận ở Mỹ và thế giới sửng sốt vì cuộc tấn công liều mạng của cộng sản. Cũng có lẽ cuộc tấn công đó đưa đến sự nghi ngờ của dân chúng Hoa Kỳ về cuộc chiến ở Việt Nam, và khiến tổng thống Lyndon Johnson không muốn ra ứng cử thêm một nhiệm kỳ nữa.
Năm 1972, đối diện với cuộc hội đàm nửa kín nửa hở giữa Lê Đức Thọ và Kissinger về cuộc chiến Việt Nam. Khi biết Hoa Kỳ không nhượng bộ những đòi hỏi của họ, CSBV quyết định tràn qua vĩ tuyến 17 tấn công VNCH ở nhiều nơi. Một lần nữa CSBV hoàn toàn thảm bại: khi cuộc tấn công bị bẻ gẫy vào cuối năm 1972, trung bình một tiểu đoàn CSBV chỉ còn khoảng 100 người.(5)
Ngay trước thời điểm CSBV tấn công, tổng thống Nixon, đang phải đương đầu với nhiều khủng hoảng tại nội địa, nhất là khuynh hướng phản chiến ở quốc hội, đề nghị với Hà Nội là Hoa Kỳ sẽ rút hết quân khỏi miền Nam trong vòng 120 ngày sau khi hiệp định được ký kết, và sau khi Hà Nội trao trả hết tù binh Mỹ đang bị giam cầm ở miền Bắc. Tuy nhiên Hà Nội gạt bỏ đề nghị của Hoa Kỳ và tấn công như dự định.
Trong cuộc chiến Việt Nam, những yếu điểm và thất bại của cộng sản được họ che giấu rất kỹ, và đã không được chúng ta khai thác có kết quả. Quân đội của cộng sản thông thường được huấn luyện để tấn công những mục tiêu đã được tập trước. Họ rất lúng túng nếu phải đương đầu hay chiến đấu trước những tình thế, hoàn cảnh bất ngờ. Tuy nhiên sau khi thất bại, họ phải trả bằng những buổi học tập tự kiểm thảo. phải nói ý chí và sự kiên cường của họ đã được đền bù sau một trong thời gian dài.
Ngược lại, phía bên chúng ta không học kỷ bài học lịch sử. Chúng ta không biết lợi dụng những thành công và tiếp tục theo đuổi những thành công đó. Theo thiển ý của tác giả, với những thành quả quân sự quân đội VNCH có được sau năm 1968, lẽ ra chúng ta phải tiếp tục đánh tới tấp, phản công mạnh. Nếu làm như vậy, có lẽ cuộc chiến đã được giải quyết trong thời điểm đó. Mọi sự quan sát cho thấy sau cuộc tấn công tự sát vào năm Mậu Thân, tiềm năng của cộng sản đã kiệt quệ và phải cần gần bốn năm sau mới phục hồi lại khả năng chiến đấu. Theo một nguồn tin không chánh thức, Trung Ương Cục Miền Nam có lần bị trúng bom B-52, và hệ thống này bị tê liệt trong một giai đoạn. Rất tiếc chúng ta không khai thác thêm.
Ưu điểm và khuyết điểm; lợi thế và thất thế của hai bên CSBV và VNCH được tổng kết lại và kết quả là sự thất thủ của miền Nam. Chúng ta có thể học được bài học từ sự thất bại đó để có một chính sách đối ứng vối cộng sản trong tương lai. Nhưng đến một ngày nào đó thì đã qúa trễ. Thử thách của cộng sản lúc nào cũng hiện hữu trước chúng ta.
Chú Thích
4. Đối với một quốc gia đang phát triển, vấn đề đầu tư và viện trợ từ nước ngoài là một vấn đề quan trọng trong giai đoạn thành hình. Nhưng quốc gia nhận viện trợ không nhất thiết phải dùng tất cả ngân khoản vào mục đích tự lực, tự cường, trong một giai đoạn ngắn vì viện trợ lúc nào cũng đi kèm với những đòi hỏi về chính trị, dù đó là viện trợ quân sự hay kinh tế. Khi quốc gia đang nhận viện trợ bị tàn phá vì chiến tranh như trường hợp VNCH, quốc gia đó cần nhận được nhiều viện trợ trong một thời gian càng lâu càng tốt. Trong trường hợp đó, ngân khoản viện trợ phải được coi như một kế hoạch dài hạn: phải ước lượng thời gian nhận được viện trợ sẽ bao lâu, quốc gia cần những viện trợ gì và cần bao nhiêu hàng năm. Khi xếp đặt vấn đề viện trợ thành một mục tiêu dài hạng, chính phủ mới biết được kế hoạch thường niên, và sẽ phản ứng ra sao khi không còn nhận được viện trợ vì viện trợ sẽ chấm dứt một ngày nào đó. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào, viện trợ không thể bị cắt ngang một cách đột ngột, vì ảnh hưởng tâm lý và vật chất rất trầm trọng cho quốc gia đang nhận viện trợ. Một kế hoạch viện trợ lý tưởng là kế hoạch làm cho nước nhận viện trợ được tự túc, tự lực trong một thời gian ngắn nhất. Lãnh tụ của các quốc gia nhận viện trợ thường bị chỉ trích là tham nhũng và thiếu khả năng lãnh đạo. Một số lãnh tụ đáng bị chỉ trích và cần được thay thế bằng một người có khả năng hơn. Và nếu một quốc gia không có được một lãnh tụ có khả năng quản trị, thì quốc gia đó không xứng đáng nhận viện trợ: vì không có viện trợ nào dù lớn đến đâu có thể cứu vãn sự suy sụp, không sớm thì muộn, của quốc gia đó. (chú thích của tác giả).
5. Về tình hình quân sự bi đát và tinh thần sa sút của quân đội CSBV sau cuộc tấn công năm 1972, đọc, thượng tướng Nguyễn Hữu An, Chiến Trường Mới (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 2002), trang 164-189 (chú thích của dịch giả).
Lời Bạt
rong bản Việt ngữ này tác giả muốn nói đôi lời để giải thích thêm về một hai chú thích ở bản Anh ngữ. Tác giả muốn nói thêm về chú thích số 5 ở Chương 9, và phần nói về cơ cấu, nhiệm vụ của Bộ Tổng Tham Mưu. Tác giả viết rất ngắn ở bản Anh ngữ vì tác giả không muốn nói nhiều về mình. Nhưng sau này, có nhiều sách vở đã tường thuật lại các sự việc không chính xác nên tác giả thấy cần có những chú thích bổ túc.
Trong những năm 1970 và 1971, tác giả đã đệ đơn xin tổng thống Thiệu cho về hưu ít nhất là 3 lần. Lý do là vì tác giả đã ở chức vụ tổng tham mưu trưởng quá lâu (trên 5 năm), đã đủ thâm niên quân vụ cùng sức khoẻ kém (có kèm theo giấy bác sĩ chứng nhận). Lý do tác giả hành động như vậy vì vào khoảng giữa năm 1970, sau một buổi họp với đại tướng Creighton Abrams (tư lệnh MACV) ông ta cho biết, theo tin tòa đại sứ Hoa Kỳ, tổng thống Thiệu có ý định cho trung tướng Đỗ Cao Trí thay thế tác giả. Chờ đợi mãi không thấy lệnh thay thế, tác giả cảm thấy mình không còn được "sủng ái" nên đã xin về hưu.
Trong thời điểm đó, các đối lập chính trị và tay chân thân tín của họ bị loại hay vô hiệu hóa. Với đa số dân biểu, nghị sĩ thân chánh quyền trong quốc hội cùng sự thành lập đảng Dân Chủ, ông Thiệu ở vào thế mạnh. Ngoài ra một số phụ tá trẻ của ông nêu ý kiến nên thay thế các phần tử mà họ cho là già nua và quan liêu. Họ thường nói, muốn có một căn nhà tốt cần thay thế các viên gạch cũ hay các bộ phận vô dụng, và nếu cần, hủy bỏ luôn căn nhà cũ.
Nhưng tại sao ông Thiệu không thay tác giả như đã có ý định. Có thể ông Thiệu nghĩ rằng tác giả không có tham vọng chính trị, và trong quá khứ không phản ông Diệm nên cố giữ lại để có sự ổn định trong quân đội. Nhưng những gì tác giả nghĩ chỉ là giả thuyết mà thôi. Ở vào thế tiến thoái lưỡng nan, ở vào một hoàn cảnh mập mờ, tác giả không thể nào hăng say phục vụ như trước nữa. Nhưng vì lương tâm nghề nghiệp, tác giả vẫn làm việc như thường, chờ ngày thay thế.
Khi Hiệp Định Ba Lê 1973 được ký kết, quốc sách "Bốn Không" ra đời, lúc mà tất cả hoạt động quân sự có ảnh hưởng đến chính trị, thì các buổi họp bất thường hay hàng tháng với các tư lệnh Quân Đoàn, Quân Khu, cùng các tư lệnh Binh Chủng như Không Quân và Hải Quân... được diễn ra trong dinh Độc Lập, thay vì ở Bộ Tổng Tham Mưu như thường lệ. Buổi họp được đặt dưới quyền chủ tọa của tổng thống Thiệu như là Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ đó tổng thống Thiệu hoàn toàn lấy mọi quyết định, và ra lệnh thẳng cho các nơi. Như vậy, tổng thống Thiệu đã đạt được thế thượng phong tuyệt đối, tập trung mọi quyền hành pháp, lập pháp và quân đội vào một mối duy nhất.
Sau cuộc rút lui thất bại ở quân đoàn II và quân đoàn I, và khi tình hình quân sự trở nên bi đát, tác giả có xin bác sĩ Phạm Hà Thanh (Cục Trưởng Cục Quân Y) thuốc độc (loại Cyanid), vì biết chắc chắn nếu bị bắt sẽ bị cộng sản hành hạ một cách tàn bạo. Bác sĩ Thanh sau khi đi cải tạo về, hiện nay vẫn còn sống ở ngoại ô Saigon.
Tình hình quân sự và chính trị trước và sau ngày tổng thống Thiệu từ chức (21-4-1975) đã được nói đến trong sách rồi, không cần nhắc lại ở đây. Tối Chủ Nhật 27 tháng 4, sau khi quốc hội biểu quyết trao quyền lại cho ông Dương Văn Minh, vì thời gian quá gấp rút, theo hệ thống quân giai, tác giả trình miệng với trung tướng Trần Văn Đôn, đang là tổng trưởng Quốc Phòng trong nội các của thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn, trình lên tổng thống Trần Văn Hương nguyện vọng được về hưu của tác giả đã xin từ năm năm về trước. Tổng thống Hương biết rõ chuyện này nên đã ký sắc lệnh cho tác giả về hưu. Ông Nguyễn Thạch Vân, phụ tá tổng thống, hiện đang sống bên Pháp, biết rõ chuyện này.
Tác giả không hợp tác với tướng Minh vì ông ta có ý định giết tác giả trong cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11, 1963. Tác giả cũng không thể phục vụ cho một chính phủ liên hiệp, và lý do quyết định nhất, là đã ở chức vụ này quá lâu (gần 10 năm), sức khỏe kém và đã xin về hưu 3 lần rồi. Khi biết đã được phép giải ngũ, tác giả liên lạc với Phòng Tùy Viên Quân Sự Hoa Kỳ (DAO) để xin di tản ra Đệ Thất Hạm Đội. Khi rời Việt Nam, tác giả mặc thường phục vì đã về hưu, không chào quân cảnh gác cơ sở, không ai mở cửa thang máy cho tác giả vì trực thăng đậu trên mặt đất trong sân của DAO, và cũng không vui mừng như một đứa con nít như có kẻ ác ý xuyên tạc.
Tiện đây, có mấy việc cũ cần được nêu lên cho chính xác:
Trưa ngày 1 tháng 11, 1963, khi trình diện BTTM để nhận lệnh hành quân (lúc đó tác giả là đại tá, tư lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù) tác giả được đưa lên gặp tướng Dương Văn Minh thay vì tướng Trần Thiện Khiêm (Tham Mưu Trưởng Liên Quân) như thường lệ.
Tướng Minh hỏi: "Tụi moi đảo chánh, toa nghĩ sao""
Tác giả trả lời: "Đảo chánh là một quốc gia đại sự, sao tới giờ phút này trung tướng mới cho tôi hay"
Đó là nguyên văn câu hỏi và câu trả lời, không hơn không kém. Trong khi đó, một sĩ quan tùy viên của tướng Minh chĩa súng Carbine vào lưng tác giả. Vài phút sau, đại tá Đỗ Mậu (Giám Đốc An Ninh Quân Đội) kêu tác giả lên đài phát thanh tuyên bố theo phe đảo chánh. Tác giả trả lời là không có gì để tuyên bố cả. Tác giả bị giam giữ tại BTTM và chỉ thoát chết trong đường tơ kẻ tóc nhờ cảm tình của một số tướng tá (theo phe đảo chánh) và sự can thiệp của vợ mình.
Sáng ngày 2 tháng 11, 1963, tác giả được trả tự do ra về. Vợ tác giả thuật lại: sau khi cuộc đảo chánh bùng nổ, tổng thống Diệm điện thoại hỏi tác giả ở đâu. Sau khi biết tác giả lên BTTM họp và có lẽ bị giam giữ ở đó, tổng thống Diệm dặn người nhà liên lạc với tác giả và nói tác giả điện thoại thẳng cho ông. Chừng một tiếng sau, tổng thống Diệm điện thoại một lần nữa. Khi được biết không còn hy vọng, tổng thống Diệm không nói gì thêm và cũng không khi nào ngỏ ý đến nhà tác giả. Ngoài ra cũng không ai mời tổng thống Diệm đến nhà tác giả như tin đồn.
Về cơ cấu và nhiệm vụ của Bộ Tổng Tham Mưu và vai trò của tác giả.
Nhiệm vụ của BTTM được ấn định bởi sắc lệnh của tổng thống ký vào tháng 7, năm 1970, với chi tiết đã được tóm tắt ở phụ bản A. Tuy nhiên trên thực tế, vai trò của BTTM thăng trầm qua những thời kỳ sau đây.
1965-1967: Tổng Tham Mưu Trưởng (TTMT) là thành viên trong Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia (UBLĐQG 1965-1967) nên về phương diện thuần túy quân sự giới chức này chỉ tham khảo ý kiến cuả hai vị Chủ Tịch (Hành Pháp và Lãnh Đạo) khi cần thiết. Trong thời gian này, gần một năm, TTMT cũng kiêm nhiệm luôn chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng. Lúc đó, nhận thấy Việt Nam chưa có một chiến lược hữu hiệu nào, tác giả có đề ra "Chiến Lược Cô Lập" (Phụ Bản C).
Vào cuối năm 1967 khi tướng Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu đắc cử trong cuộc bầu cử tổng thống, BTTM trở về vai trò cũ, tác giả chỉ giữ chức vụ TTMT, còn chức tổng trưởng quốc phòng thì trao cho người khác.
Tuy vậy, trong cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa của cộng sản vào năm 1968, trước một tình hình nguy hiểm cho sự sống còn của đất nước, tác giả đã tự lấy quyết định cần thiết để lật lại thế cờ. Cộng sản phân tán lực lượng, đánh vào trung tâm điểm các tổ chức hành chánh và quân sự của ta. Ngay tại Saigon-Chợ Lớn, các cơ quan đầu não của chính phủ đều bị đánh phá hay chiếm giữ. Tuy nhiên, nếu một người bị chém đầu thì không thể nào sống, nhưng chỉ bị thương ở tay chân thì còn cứu chữa được. Dựa theo lý do đơn giản đó, tác giả thấy Saigon-Chợ Lớn cần phải được giải tỏa trước nhất.
Trước Tết Mậu Thân, các đơn vị Nhảy Dù, TQLC và một số đơn vị Biệt Động Quân được tăng phái cho các quân khu /quân đoàn. Tại thủ đô chỉ còn lại một tiểu đoàn Nhảy Dù duy nhất. Nửa đêm về sáng, khi phi trường Tân Sơn Nhất bị tấn công, ba đại đội Nhảy Dù được dùng để tăng cường phòng thủ phi trường. Trong thời gian đó, trường Anh Ngữ Quân Đội và đại đội Tổng Hành Dinh thuộc BTTM bị một toán đặc công đánh chiếm và cố thủ. Thấy tấm bảng đại đội "Tổng Hành Dinh," địch tưởng đã chiếm được tổng hành dinh (tức là BTTM) của chúng ta nên không di chuyển ra chiếm tòa nhà chánh nơi đó mới là tổng hành dinh BTTM, với văn phòng Tổng Tham Mưu, Tham Mưu Liên Quân, cùng với trung tâm truyền tin, phòng mật mã và máy móc siêu tần số quan trọng. Nơi này chỉ cách chỗ cộng sản chiếm giữ chừng 300 thước. Đại đội Nhảy Dù còn lại được điều động qua BTTM để tiêu diệt toán đặc công ở đó.
Trước một tình thế mong manh và nguy hiểm như vậy, tác giả lấy quyết định rút hết các đơn vị đang tăng phái ở các quân đoàn bằng cầu không cận và trực thăng. Ngoài phi trường Tân Sơn Nhất, tất cả các sân vận động, sân đá banh và trường đua Phú Thọ trong đô thành được xử dụng như bãi đáp trực thăng. Khi tập trung được quân số ước lượng chừng 20 tiểu đoàn, tác giả đích thân chỉ huy cuộc hành quân Trần Hưng Đạo, đánh bật cộng quân ra khỏi ngoại ô Saigon. Các lực lượng Cảnh Sát, Địa Phương Quân và Nghĩa Quân được sát nhập để tham gia cuộc hành quân này. Cuộc hành quân cũng có sự hợp tác chặt chẽ của các đơn vị Hoa Kỳ và đồng minh có mặt chung quanh thủ đô. Sau khi cộng sản bị đánh bật ra khỏi thủ đô, quyền chỉ huy lại được trả về cho tư lệnh quân đoàn /quân khu III.
Một điểm đặc biệt là các quân nhân thuộc các bộ tham mưu, các nha sở, các kho xăng hay các cơ xưởng quân đội đều được đoàn ngũ hóa thành các đơn vị chiến đấu (chỉ để lại số quân tối thiểu điều hành cơ cấu) để hành quân các vùng lân cận. Vì số sĩ quan ở các bộ tham mưu đông nên ngưòi ta thấy sĩ quan cấp thiếu úy, trung úy giữ vai trò khinh binh và sĩ quan cấp trung tá chỉ huy đại đội.
Khi giải tỏa xong thủ đô, các đơn vị tổng trừ bị và Biệt Động Quân lại được tăng phái trở lại các quân khu /quân đoàn.
Năm 1971-1972: Hai năm 71-72 là khúc quanh quan trọng trong đời sống quân ngũ của tác giả. Như đã nói phần trước, tác giả đã xin tổng thống Thiệu về hưu ba lần nhưng không được nên phải làm việc như thường tuy kém phần hăng say như năm năm về trước. Vai trò của BTTM vẫn không thay đổi trong thời gian này.
Cuối năm 1971 là năm bầu cử tổng thống. Lần này tổng thống Thiệu ra ứng cử với ông Trần Văn Hương. Các liên danh khác bị loại ra vì không đủ điều kiện ấn định bởi luật bầu cử, nên báo chí rêu rao đây là màn "độc diễn" của tổng thống Thiệu.
Trước ngày bầu cử, sau một buổi họp quân sự với các tư lệnh quân đoàn, tư lệnh các quân chủng Không và Hải Quân, TTMT, và tổng trưởng quốc phòng Nguyễn Văn Vỹ, tổng thống Thiệu hỏi các tướng lãnh về cuộc bầu cử sắp tới. Các tướng lãnh có mặt đều nhiệt liệt ủng hộ liên danh Thiệu-Hương. Khi được hỏi, tác giả trả lời là tổng thống đã có quyết định, nên không có ý kiến gì thêm.
Khi cộng sản mở cuộc tấn công công khai miền Nam qua khu phi quân sự trong năm 1972, cuộc tấn công mà báo chí mệnh danh là "Mùa Hè Đỏ Lửa." Với sự hỗ trợ hùng hậu của Hoa Kỳ như pháo đài bay B-52 và tất cả các loại phi cơ không lực và Hải lực Hoa Kỳ, quân lực VNCH đã anh dũng chiến đấu, bẻ gẫy cuộc tổng tấn công cuả cộng sản, đặc biệt là tại Quảng Trị, Kontum và An Lộc. Lần này BTTM di chuyển nguyên sư đoàn 21 bộ binh từ quân đoàn IV lên quân đoàn III để giải tỏa An Lộc.
Nói về mình là điều đáng ghét. Nhưng tác giả phải nói lên các sự kiện trên để đả phá các luận điệu cho tác giả thiếu sáng kiến và chỉ biết gật đầu.
Năm 1973-1975: Khi Hiệp Định Ba Lê được ký kết và quốc sách "Bốn Không" ra đời, và khi tổng thống Thiệu thực sự là Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Lực VNCH, thì BTTM trở thành Bộ Tham Mưu của Tổng Thống. Ông Thiệu ra lệnh thẳng cho các tư lệnh quân đoàn, Không Quân và Hải Quân, và liên lạc thẳng với Tham Mưu Trưởng liên Quân BTTM. Hoa Kỳ biết chuyện này nên trưởng phái đoàn Hoa Kỳ, tướng Weyand, khuyến cáo chánh phủ nên dành nhiều quyền hành cho BTTM hơn.
Tóm lại, dù ở thời kỳ nào, BTTM vẫn làm đầy đủ vai trò của nó nhất là trong những năm 1968 và năm 1972. Khi có Hiệp Định Ba Lê, BTTM cho thi hành hữu hiệu kế hoạch Trần Hưng Đạo II để phá vỡ mưu mô "lấn đất giành dân" của cộng sản. Các công tác khác được thực hiện sau đó đã tóm tắt trong Chương 4 (Các Khó Khăn và Đường Lối 1973-1974). Tuy BTTM không to lớn hơn bộ tư lệnh MACV của Hoa Kỳ, nhưng có nhân viên tham mưu đủ khả năng và kinh nghiệm. BTTM là một tổ chức có thể nghiên cứu, thiết kế, phối hợp và kiểm soát tất cả vấn đề quân sự, như kế hoạch Trần Hưng Đạo I và II đã nói trên. Trung tâm hành quân BTTM được thiết trí đầy đủ các dụng cụ thu thập, tồn trữ và trình bày trên màn ảnh lớn tất cả các chi tiết cần thiết để cấp chỉ huy có thể lấy quyết định một cách chính xác. Cả Phòng 3 và trung tâm hành quân liên tục theo dõi chặt chẻ tình hình quân sự trên toàn quốc và sẵn sàng cung cấp hay thuyết trình các tin tức quân sự khi cấp trên đòi hỏi.
Hai thí dụ điển hình:
1. Quân Đoàn I không báo cáo cho BTTM về việc sư đoàn 1 BB rút ra khỏi Huế về phiá nam. Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, trưởng Phòng 3/ BTTM biết được việc này qua một giới chức khác. Ngay sau đó, trong một buổi họp tại Dinh Độc Lập, tác giả trình cho tổng thống Thiệu biết việc trên. Tác giả Nguyễn Tấn Hưng, trong sách của ông, nói BTTM không biết việc này là hoàn toàn sai.
2. Việc các tướng lãnh thuộc Quân Đoàn I đã rút trên chiến hạm HQ-4 cũng không được báo cáo về BTTM. Qua hệ thống truyền tin của Hải Quân và Bộ Tư Lệnh Hạm Đội, tướng Thọ khám phá ra việc này.
Vì là cơ quan đầu não của quân lực VNCH nên BTTM lúc nào cũng có toán trực làm việc 24 trên 24 giờ. Trong những năm 1968, 1972, 1974 và 1975, khi tình hình quân sự khẩn trương, toàn thể BTTM đều "cấm trại," nghĩa là toàn thể nhân viên phải làm việc và ăn ngủ trong doanh trại. Cho nên khi có người viết là một viên chức nào đó gọi điện thoại vào BTTM lúc 4 giờ rưỡi chiều mà không có ai trả lời, là hoàn toàn bịa đặt. Mới đây, trong dịp gặp lại trung tướng Ngô Quang Trưởng, tác giả có hỏi ông là, có phải trong những tháng 3, 4, năm 1975, có lúc ông muốn trình việc với tác giả và phải chờ đến một hai tiếng đồng hồ hay không. Tướng Trưởng trả lời là đâu bao giờ có việc đó. Dù trung tướng Trưởng không nói chuyện được với tác giả, ông vẫn có thể liên lạc được với trung tướng Tham Mưu Trưởng Liên Quân, các trưởng phòng BTTM, hay trình thẳng với tổng thống Thiệu. Dựa vào những sự kiện đã nói trên, ta thấy tác giả Nguyễn Tiến Hưng trong tác phẩm The Palace File, đã xuyên tạc là BTTM không làm tròn nhiệm vụ, và tác giả chỉ là một tướng tầm thường, thiếu khả năng và thiếu sáng kiến. Tác giả hoàn toàn bác bỏ những lời chỉ trích và xuyên tạc trong quyển sách nói trên.
Những lý do ông Hưng nêu ra có khi mâu thuẫn với nhau, nhỏ mọn, toàn là khẳng định không có chứng minh, hay chỉ dựa theo lý thuyết nên không thực tế. Có đoạn ông ta chê BTTM có một tổ chức tiếp vận yếu; ở đoạn khác ông khen tướng Đồng Văn Khuyên rất rành rẽ về tiếp vận, tuy biết rằng chính tướng Khuyên là Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. Ngoài ra trong suốt cuộc chiến, các đơn vị chiến đấu của ta không khi nào thiếu đạn dược, nhiên liệu và lương thực. Khi viện trợ bị cắt giảm, mức độ tiếp tế có thể bị bớt đi nhưng không khi nào bị gián đoạn. Tác giả không tin một đơn vị Hải Quân thiếu ăn phải nhắm mắt cho binh sĩ dưới quyền đi bắt bò của dân. Nếu đúng như vậy, chỉ huy trưởng của đơn vị đó và thuộc hạ phải bị trừng phạt và có thể bị truy tố ra Toà Án Quân Sự. Ngoài ra quân lực VNCH có kho đạn, kho lương thực riêng... và khi đi hành quân các đơn vị ta không tùy thuộc vào hệ thống tiếp tế của đơn vị Mỹ.
Ông Hưng là người tỏ ra rất hiểu biết về quân đội, nhưng lại chỉ trích cách dùng danh từ "bạn và địch," và cho rằng ta không có tinh thần độc lập và còn lệ thuộc Mỹ. Đây là một lối suy luận lạ kỳ, vì có thể nói tất cả quân đội trên thế giới đều dùng danh từ "ta" hay "bạn" "địch" hay "thù" để phân biệt hai phe đương đầu với nhau.
Trong các buổi họp quân sự với tổng thống Thiệu, tác giả không thấy ông Hưng. Chỉ sau này, khi phái đoàn tướng Weyand đến Saigon và họp trong Dinh Độc Lập mới thấy ông ta tham dự. Nhưng trong sách, khi nào có nói đến các buổi họp, ông ta đều chỉ trích. Như vậy chứng tỏ có người đã "mớm lời" cho ông ta. Phần đông các chỉ trích đều dựa trên nhận định sai lầm hay dựa trên lý thuyết không có chứng minh. Ông ta luôn luôn nói đến nghiên cứu, thiết kế, phối hợp, hay theo dõi một cách tổng quát rồi khẳng định là không ai làm đúng như vậy. Nhưng sự thật là, khi lấy một quyết định gì, hay đề ra một kế hoạch gì thì đã phải đi qua các giai đoạn lý thuyết nói trên. Ngoài ra ông Hưng lầm lẫn giữa thiết kế và phản ứng. Thí Dụ: Từ đầu, quân đoàn/quân khu I đệ trình hai kế hoạch dự trù cho cuộc triệt thoái các đơn vị trực thuộc. Khi tình hình diễn biến, chỉ còn kế hoạch số 2 là có cơ áp dụng được (rút lui vào ba cứ điểm Đà Nẵng, Huế và Chu Lai và sau cùng vào cứ điểm Đà Nẵng). Một khi đã rút lui vào cứ điểm Đà Nẵng rồi, thì chúng ta chỉ có hai hành động mà thôi: Cố thủ tại chỗ hay triệt thoái bằng đường biển nếu tình hình bắt buộc. Nhưng trong sách ông Hưng vẫn chỉ trích là không có kế hoạch dự phòng. Lúc đó không còn kế hoạch gì nữa; mọi việc đã rõ ràng: Cố thủ hay rút lui.
Trong quân sự, có một nguyên tắc phải được tôn trọng, là khi cấp chỉ huy đã lấy quyết định và ra lệnh thì cấp dưới phải thi hành. Khi thi hành, có chuyện gì khó khăn hay trở ngại không thi hành được, cấp dưới phải trình thẳng cho cấp chỉ huy cao cấp (đã ra lệnh), và chỉ cần thông báo cấp chỉ huy trung gian, nếu có. Làm như vậy, cấp trên biết rõ biến chyển của tình hình và nếu cần muốn biết thêm chi tiết thì đã có người sẳn sàng trả lời. Cấp chỉ huy trung gian không xen vào vì vô tình có thể làm hư kế hoạch sơ khởi do cấp chỉ huy cao cấp đề ra. Đó là trường hợp đã xảy ra trong thời gian triệt thoái của Quân Đoàn I và II. Ông Hưng dựa vào các việc đó để cho rằng tác giả trốn tránh trách nhiệm.
Ông Hưng còn dùng những lý do thiển cận và kỳ thị tôn giáo khi nói tác giả trốn nhiệm vụ khi thiền định theo Phật giáo. Ai cũng biết thiền định đem lại thêm phong phú cho đời sống tâm linh và việc đó không ảnh hưởng hay đụng chạm gì đến công vụ của tác giả. Các buổi thiền định được thực hiện ngoài giờ làm việc vào lúc đêm khuya hay sáng sớm trong phòng ngủ, không phải trong một cái tháp như ông nói. Ngoài ra, muốn trốn tránh nhiệm vụ thì thiếu gì phương cách đâu cần phải nói vì bận thiền.
Ngoài các chỉ trích trên, ông Hưng còn hâm nóng rượu cũ rồi đựng trong bầu mới bằng cách nêu lên những vấn đề đã được đề cập đến hay giải quyết từ trước. Ông Hưng đề nghị với Hoa Kỳ tăng cường cho quân đội VNCH 2 sư đoàn tổng trừ bị. Ông đâu biết việc đó đã được BTTM lưu tâm đến từ lâu. Vì giới hạn viện trợ và nhân lực, BTTM chỉ thành lập được 1 chiến đoàn Nhảy Dù, 1 chiến đoàn TQLC và hai liên đoàn BĐQ (có nói đến ở Chương 4, tiểu mục, Tổ Chức Quân Lực VNCH). Trước kia, tổng thống Diệm đã xin Mỹ viện trợ lập nhà máy đúc súng và làm đạn nhưng không được chấp thuận. Những năm sau cùng mà còn đề nghị đến những chuyện đó thì thật là viển vông. Cũng trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa, các đơn vị Địa Phương Quân và Dân Vệ được đặt dưới quyền kiểm soát của bộ Nội Vụ. Chỉ sau này, các lực lượng đó mới được đặt dưới quyền chỉ huy của quân đội. Hai tổ chức này thật ra cần thiết vì sắc thái chiến tranh Việt Nam: Ta phải đương đầu không những với quân chánh quy CSBV mà cả bộ đội địa phương, du kích và cán bộ nằm vùng cộng sản nữa.
Ông Hưng nói các sĩ quan VNCH chỉ biết xử dụng trực thăng hay gọi pháo binh và không quân yểm trợ khi đi hành quân với quân đội Mỹ là sai. Các sĩ quan ta được huấn luyện đầy đủ trước khi giao trách nhiệm chỉ huy các đơn vị chiến đấu từ cấp lớn đến cấp nhỏ, chứ không phải khi hành quân với Mỹ mới biết. Sau này khi thiết quân vận hay trực thăng được đem xử dụng ở chiến trường Việt Nam, sĩ quan đều theo học những lớp hướng dẫn về đặc tính và cách xử dụng các vũ khí mới đó. Vấn đề cấp vũ khí tối tân cho các đơn vị ta chỉ được thực hiện khi cộng sản đã dùng những vũ khí mới hơn. Điều này đã được đề cập đến trong quyển sách. Nhưng khi nói rằng chương trình "Việt Nam-Hóa chiến tranh" được thi hành một cách quá hấp tấp là nguyên do chánh thì không hoàn toàn đúng. Hoa Kỳ áp dụng chính sách "gradual response", tạm dịch là trả đũa hay phản ứng dần dần, từng độ một. Thí dụ hỏa tiễn TOW được đưa vào chiến trường Việt Nam khi súng chống chiến xa loại nhỏ như LAW không còn hữu hiệu. Còn súng trường M-16 đã được cấp phát cho các đơn vị Nhảy Dù và TQLC vào khoảng năm 1963. Lúc đó lữ đoàn Nhảy Dù được ủy nhiệm trắc nghiệm khả năng của súng AR-15 mới do hãng Colts chế. Sau này súng đó được đổi tên là M-16. M-16 tỏ ra rất thích hợp cho binh sĩ và chiến trường Việt Nam vì súng nhẹ, không quá dài, dễ bảo trì, đạn có sức công phá cao. Với đường kính là 5.56mm, đạn nhỏ và nhẹ nên mang được nhiều khi đi hành quân. Sợ loại súng tốt này có thể lọt vào tay địch, nên Hoa Kỳ chỉ cấp phát hạn chế. Sau tết Mậu Thân 1968 súng M-16 được phát cho các đơn vị khác.
Tác giả có một điểm nhỏ cần nêu ra vì ông Hưng đã đề cập tới: Ngày thường, khi di chuyển trong thành phố, tác giả dùng xe du lịch chức vụ (dùng cho BTTM), xe không gắn bảng sao, không có xe Jeep quân cảnh mở đường và hộ tống. Ghế trước chỉ có tài xế và sĩ quan tùy viên. Nói rằng có hai xe Jeep đi theo, và tác giả cho xe đậu dưới mấy cây me cao trước cổng Dinh Độc Lập là sai.
Sau cùng, nếu những gì ông Hưng biên trong cuốn sách đều đúng hết, thì phải đặt câu hỏi:
1. Giới chức nào cho tác giả lên cấp bực đại tướng và cho giữ chức vị Tổng Tham Mưu Trưởng" Không còn ai tài giỏi hơn nữa sao"
2. Tại sao không thay thế tác giả và sắp xếp lại Bộ Tổng Tham Mưu, nhứt là tác giả đã xin về hưu ba lần trong năm 1970-71" Giới chức nào trách nhiệm"
Có thể tin được những gì ông Hưng viết và nhớ trong sách hay không" Do một sự tình cờ, một nguồn tin cho hay ông Hưng không có tuyên thệ nhập đảng Dân Chủ. Như vậy ông Hưng đã không nói sự thật về một vấn đề liên quan mật thiết với ông ta.
Tóm lại, một vài phần trong cuốn The Palace File ở những phần viết về Quân Lực VNCH; Bộ Tổng Tham Mưu; và về cá nhân tác giả chỉ là những tiểu thuyết có luận đề, và chỉ có giá trị như những tiểu thuyết không hơn không kém.
Trong quyển sách, ông Hưng muốn chứng minh mình văn võ (cả chánh trị nữa) toàn tài và đã nêu ra nhiều kế hoạch vĩ đại. Nhưng ông vẫn chẳng cứu nổi con thuyền Việt Nam qua cơn bão tố quá ác nghiệt: Ông như con ruồi trong bài ngụ ngôn Pháp, "Con Ruồi và Cỗ Xe Ngựa" của La Fontaine.
PHỤ BẢN A:
Vai Trò Cùa Bộ Tổng Tham Mưu.
Một điều đáng ngạc nhiên về vai trò của Bộ Tổng Tham Mưu (BTTM) một Bộ Tư Lệnh của ba quân chủng to lớn là BTTM không có thẩm quyền gì cuộc chiến mà Bộ Tư Lệnh này được lập ra để điều khiển. Dựa theo hiến pháp và trên thực tế tổng thống là tư lệnh tối cao của quân đội. Trong vai trò đó, tổng thống quyết định tất cả các kế hoạch liên hệ đến cuộc chiến. Trong những vấn đề về an ninh và quốc phòng, tổng thống có được cố vấn của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia. Hội viên của Hội Đồng gồm Phó Tổng Thống, Thủ Tướng, Tổng Trưởng Quốc Phòng, và Tổng Tham Mưu Trưởng. Về vấn đề bình định và phát triển, một Hội Đồng Bình Định và Phát Triển Trung Ương được thành lập để giúp tổng thống phát họa kế hoạch và đường lối. Với tư cách là tổng tham mưu trưởng, tác giả là hội viên của hội đồng đó. Như vậy, về phương diện đường lối quốc gia, vai trò của người tổng tham mưu trưởng chỉ là vai trò cố vấn.
Cơ cấu quốc phòng được cải tổ theo một sắc luật ban hành vào tháng 7, 1970; vai trò và trách nhiệm của BTTM cũng được qui định trong sắc luật đó. BTTM được định nghĩa là một ban tham mưu của liên quân chủng, tạm thời có cơ cấu giống như một bộ tư lệnh Lục Quân. Không Quân và Hải Quân có bộ tổng tham mưu riêng của quân chủng đó, trong khi Lục Quân không có bộ tổng tham mưu riêng vì BTTM liên quân đã đảm trách luôn vai trò đó. Như vậy,trên thực tế cũng như trong bản chất, BTTM là một bộ tham mưu của Lục Quân với thẩm quyền trên hai quân chủng kia. Tổng Tham Mưu trưởng BTTM lúc nào cũng là một sĩ quan Lục Quân, chịu trách nhiệm trực tiếp với tổng trưởng quốc phòng về vấn đề huấn luyện, tổ chức và xử dụng quân đội trong đường hướng do tổng thống định liệu. Nhiệm vụ của BTTM bao gồm:
Tổ chức và bành trướng quân lực. Xử dụng quân đội để bảo vệ quốc gia và bình định lãnh thổ.
Thu thập, khai thác tinh tức tình báo, phản gián, có tình chất chiến lược và chiến thuật.
Phát triển, bổ dụng, bảo trì và quản trị quân đội.
Thiết lập cấp số quân đội và nhân viên dân sự cần thiết cho BTTM.
Thiết lập kế hoạch tiếp vận, theo dõi và cung cấp vũ khí và quân nhu dụng cho quân đội.
Huấn luyện binh sĩ, nâng cao tinh thần và đời sống vật chất cho quân nhân các cấp.
Nghiên cứu và phát triển khả năng tác chiến. Khi được chỉ định, soạn thảo kế hoạch hành quân hỗn hợp với các quốc gia đồng minh đang chiến đấu tại Việt Nam.
Soạn thảo và ban hành luật pháp căn bản về vấn đề giam giữ và đối xử với tù binh chiến tranh.
Với vai trò và nhiệm vụ được viết ra thành từng chi tiết nhỏ, chúng ta nhận thấy nhiệm vụ của BTTM không liên quan gì đến những quyết định tối hậu của cuộc chiến, đó là trách nhiệm của tổng thống, hay BTTM có trách nhiệm gì về áp dụng chiến lược của tổng thống trên thực tế đó là trách nhiệm của tổng trưởng quốc phòng. Trước tháng 4 năm 1972, tổng thống ít hỏi tổng trưởng quốc phòng về tình hình chiến sự. ... Tổng trưởng quốc phòng trong thời gian đó có vai trò như một người quản lý ngân sách và nhân lực của cuộc chiến. Về vấn đề quân sự và xử dụng quân đội, tổng tham mưu trưởng trả lời trực tiếp với tổng thống.
Bốn Quân Đoàn, trên lý thuyết, nằm dưới quyền điều khiển của BTTM. Tuy nhiên vì bản chất của cuộc chiến và cấp số cuả các cuộc hành quân trách nhiệm về hành quân được hoàn toàn ủy thác cho tư lệnh quân đoàn /quân khu. Là tư lệnh quân khu có trách nhiệm về hành chánh, tư lệnh quân đoàn /quân khu có quyền hành một tư lệnh đại khu vực quân sự. BTTM ít xen vào kế hoạch hành quân hay quyết định của các quân đoàn, trừ trường hợp có hành quân hay thám thính qua biên giới, hay quân đoàn yêu cầu cho thêm các đơn vị tổng trừ bị dưới quyền của BTTM. Vì tư lệnh quân đoàn là người có luôn thẩm quyền về kế hoạch bình định và phát triển ở vùng trách nhiệm, nên họ có thẩm quyền xử dụng tài nguyên quốc gia được chỉ định và phân phối cho vùng, và đặt các tỉnh trưởng dưới quyền kiểm soát của họ. Đây là một thẩm quyền mà BTTM không bao giờ có được. Thẩm quyền của các tư lệnh quân đoàn rất lớn. Họ thường liên lạc thẳng với tổng thống để nhận và thi hành quân lệnh. Và họ cũng là người chịu trách nhiệm trực tiếp với tổng thống.
Hàng năm BTTM soạn thảo kế hoạch quân sự cho năm tới. Kế hoạch quân sự này dựa theo tình hình chiến trường giữa ta và địch, và dựa vào kế hoạch quốc gia do tổng trưởng quốc phòng hay tổng thống phát họa. Kế hoạch thường niên của BTTM có danh số là "AB" kèm theo số thứ tự phía sau. Thí dụ như AB-139; AB-140. Bắt đầu từ năm 1967, khi có nhiều quốc gia đồng minh tham dự cuộc chiến Việt nam, kế hoạch quân sự thường niên được soạn thảo chung, và mang tên là "Kế Hoạch Hành Quân Hỗn Hợp." Kế hoạch AB-142 là kế hoạch quân sự thường niên hỗn hợp được BTTM, MACV và tư lệnh các quốc gia đồng minh soạn thảo chung. Kế hoạch bao gồm những chỉ thị cho các tư lệnh quân đoàn, tư lệnh Không Quân và Hải Quân trong năm tới. Cứ mỗi bốn tháng, sau này là mỗi tháng, một cuộc họp được tổ chức tại BTTM để duyệt xét lại tình hình ở mỗi quân khu, và tiến triển của các kế hoạch đang áp dụng.
Sau khi Hiệp Định Ba Lê 1973 được ký kết, BTTM đình chỉ các buổi họp quân sự hàng tháng vì mỗi kế hoạch quân sự đều có liên quan đến vấn đề chính trị. Từ đó, những buổi họp về quân sự được tổ chức tại Dinh Độc Lập dưới sự chủ tọa của tổng thống như là vị tổng tư lệnh tối cao của quân đội. Buổi họp còn có sự có mặt của phó tổng thống, thủ tướng, đương kiêm tổng trưởng quốc phòng và cố vấn an ninh quốc gia, trung tướng Đặng Văn Quang. Trong buổi họp, các tư lệnh quân khu (hay tư lệnh Không Quân, Hải Quân) thuyết trình về tình hình trong vùng trách nhiệm của họ. Sau khi thảo luận chung, tổng thống quyết định và ban quân lệnh hay chỉ dẫn cần thiết cho các tư lệnh tham dự.
PHỤ BẢN B:
Bản Điều Trần Của Đại Sứ Graham Martin Trước Tiểu Ban Điều Tra Đặc Biệt, Ủy Ban Liên Hệ Ngoại Giao Quốc Tế Hạ Viện. Ngày 22 Tháng 1 Năm 1976. Đề Mục: Lực Lượng Quân Sự Hai Bên Việt Nam Vào Những Ngày Cuối.
Tôi nói với tổng thống Thiệu, sau khi so sánh và phân tích lực lượng hai bên, và nếu cả hai dồn tất cả quân vào trận đánh sau cùng, cán cân quân sự về phía VNCH rất bi quan.
Kết luận của tôi là, nếu cộng sản quyết tâm đánh để triệt tiêu Saigon, thì Saigon không thể cầm cự hơn một tháng. Dù với sự phòng thủ khéo léo và quyết tâm, sự cầm cự sẽ không quá ba tuần.
Tôi nói, theo ý kiến của tôi, Hà Nội muốn giữ Saigon nguyên vẹn chứ không muốn Saigon trở thành một đống gạch vụn khi họ chiếm. Tuy nhiên không ai chắc chắn Hà Nội sẽ không biến Saigon thành bình địa nếu không có một thương lượng đình chiến.
Tổng thống Thiệu hỏi về chuyện quân viện có được gia tăng thêm không. Tôi trả lời là, nếu có một phép lạ nào đó khiến cho quân viện gia tăng, viễn ảnh đó chỉ tốt cho chuyện thương lượng trong tương lai. Vì quân viện sẽ không bao giờ đến Việt Nam kịp thời để cứu vãn tình hình. Tôi nói cán cân quân sự đã nằm về phiá địch quá nhiều.
Tôi nói với ông, bất cứ ai đang ngồi trên ghế ở Dinh Độc Lập lúc này hay bất cứ ở những trung tâm quyền lực nào, như Điện Cẩm Linh, Phủ Thủ Tướng Anh Quốc, Dinh Tổng thống Pháp, Đại Sảnh Đường Peking, hay Tòa Bạch Cung đều có một trở ngại như nhau: không ai biết được hoàn toàn sự thật đang xảy ra chung quanh. Tin tức bị che giấu, có người muốn che giấu tin tức để đem lợi cho cá nhân họ, hay vì sự chậm trễ của hệ thống hành chánh quan lại. Có người muốn giấu sự thật vì sợ làm ông tổn thương, hay họ không muốn là người đem tin buồn.
Với bất cứ lý do nào, rất khó nhận ra được sự thật của những gì đang xảy ra chung quanh.
Tôi nói với tổng thống Thiệu là tôi nói chuyện với ông như một cá nhân, không đại diện cho tổng thống, hay ngoại trưởng, hay cả như một đại sứ. Tôi nói với ông như một người đã quan sát nhiều biến chuyển ở Đông Nam Á từ lâu nay, và như một người trong hai năm qua đã bỏ ra nhiều thì giờ tìm hiểu tất cả ngọn ngành của quốc sự Việt Nam.
Tôi nói, càng già tôi càng nhận ra rõ là tôi càng không hiểu tất cả, và lúc nào cũng không chắc chắn về bất cứ việc gì. Nhưng lúc tôi nói chuyện với tổng thống Thiệu, đó là một thời điểm khó khăn, và nhận thức của tôi về tình hình lúc đó cũng giống như sự hiểu biết và nhận thức của những người Tây phương hiểu biết về Việt Nam. Một vài điều rất rõ ràng đối với tôi vào lúc đó: tình hình chiến sự rất bi quan, và dân miền Nam qui trách nhiệm vào tổng thống Thiệu. Những người trong đảng phái chính trị, phiá ủng hộ cũng như phía chống đối, đều không nghĩ rằng ông ta có thể đưa quốc gia ra khỏi cơn hiểm họa đang xảy ra.
Tôi nói với tổng thống Thiệu, kết luận của tôi là tất cả các tướng lãnh dưới quyền ông, mặt dù họ đang tiếp tục chiến đấu, tin rằng tình hình phòng thủ tuyệt vọng, trừ khi có một thương lượng ngưng bắn để chỉnh đốn hàng ngũ lại. Nhưng các tướng lãnh không nghĩ sẽ có cuộc thương lượng trừ khi vị tổng thống từ chức hay có một giải pháp nào để bắt đầu thương lượng.
Tôi nói, tôi nghĩ là nếu ông ta không từ chức, các tướng lãnh cũng sẽ mời ông từ chức.
Rồi ông Thiệu hỏi nếu ông từ chức thì có ảnh hưởng gì đến lá phiếu về viện trợ cho Việt Nam ở quốc hội Hoa Kỳ không. Tôi trả lời, vài tháng trước thì có thể ảnh hưởng số phiếu ở quốc hội, nhưng bây giờ sự thay đổi không đủ để thay đổi được kết quả.
Nói một cách khác, ông Thiệu nghĩ là nếu ông ta từ chức thì quốc hội có chắc chắn viện trợ đầy đủ cho sự sống còn của VNCH hay không. Tôi nghĩ chuyện thương lượng như vậy không còn nữa, ngay cả trước đây cũng không có chuyện thương lượng như vậy với quốc hội Hoa Kỳ.
Nói cho cùng, phía cộng sản sẽ nghe bất cứ những gì về người kế vị ông Thiệu, hay từ ông Thiệu. Sự từ chức của ông Thiệu không có ảnh hưởng ở miền Nam nhiều so với sự ảnh hưởng đối với CSBV.
Tôi nói tôi không trả lời được câu hỏi về ảnh hưởng của sự từ chức, nhưng dường như tất cả người dân miền Nam nghĩ sự từ chức sẽ đưa đến những tiến triển cho một thương lượng ngưng bắn.
Cá nhân tôi không nghĩ việc từ chức sẽ thay đổi được gì nhiều. Nếu Hà Nội thật sự muốn thương lượng, thì họ không muốn đối đầu với một lãnh tụ cứng rắn; họ muốn một người lãnh tụ yếu. Nhưng những người chung quanh tổng thống Thiệu nghĩ cần phải thương lượng vì không còn nhiều thời gian nữa.
Nhiều người nghĩ sẽ tránh được cảnh đổ nát, và nếu một quốc gia độc lập Nam Việt Nam tiếp tục hiện hữu, thì có hy vọng dù suy luận cho thấy sự hy vọng đó rất mỏng manh tình hình có thể khả quan hơn.
Cuộc đối thoại giữa tôi và tổng thống Thiệu kéo dài chừng một tiếng rưỡi đồng hồ.
PHỤ BẢN C:
Bản Điều Trần Của Đại Sứ Graham Martin Trước Tiểu Ban Điều Tra Đặc Biệt, Ủy Ban Liên Hệ Ngoại Giao Quốc Tế Hạ Viện. Ngày 22 Tháng 1 Năm 1976. Đề Mục: Nổ Lực Tìm Kiếm Một Thương Lượng Hòa Giải Với Cộng Sản.
Câu Hỏi 11: Ngoại trưởng Kissinger vào ngày 5 Tháng 5, 1975 có tuyên bố Nga đã "cộng tác vừa đủ trong vai trò giúp Hoa Kỳ soạn thảo kế hoạch di tản nhân viên Hoa Kỳ và Việt Nam, và trong vai trò về một viễn tượng thay đổi chính trị trong thời gian nói trên.
(a) Ông đã biết gì về vai trò của Nga trong vấn đề thương lượng trong hai tuần còn lại của tháng 4, 1975"
Trả Lời: Tôi chỉ biết được những gì tôi đã trình bày vừa qua. Có nghĩa là chính phủ Nga có thông báo cho Hoa Kỳ biết, là Hà Nội sẽ không cản trở cuộc di tản của chúng ta.
(b) Ông có đồng ý với những gì Kissinger tuyên bố"
Trả Lời: Tôi đồng ý.
Câu Hỏi 12: Trong thời gian trước khi Dương Văn Minh lên nắm quyền, Tòa Đại Sứ Pháp có thông báo cho ông biết là cộng sản muốn thương lượng chính trị với Minh, chứ không quyết tâm đánh bại VNCH về quân sự.
Trả Lời: Nói đúng hơn, ý nghĩa của câu hỏi đó nghiêng về phía người Pháp: người Pháp hy vọng chuyện sẽ xảy ra như vậy.
Hỏi: Như vậy thì người Pháp lấy tin tức đó từ đâu"
Trả Lời: Phần nhiều các chánh phủ, cũng như chánh phủ Hoa Kỳ và Pháp, ít cho biết họ dùng phương pháp nào, hay đường dây nào để thu thập tin tức. Và câu trả lời của tôi là, tôi không biết họ lấy tin tức từ đâu.
Câu Hỏi 13: Ngoại trưởng Kissinger tuyên bố vào ngày 5 tháng 5, 1975 là, cho đến ngày 27 tháng 4, 1975, Hoa Kỳ vẫn còn "nhiều hy vọng" CSBV sẽ không có ý chiến thắng về quân sự, mà họ sẽ "thương lượng" một giải pháp chính trị với Dương Văn Minh. Sự kiện nào đã khiến Hoa Kỳ nghĩ chuyện đó có thể xảy ra"
Trả Lời: Có nhiều tin tức mà tôi chưa biết được để trả lời câu hỏi này. Tôi có yêu cầu Bộ Ngoại Giao cung cấp tin tức về câu hỏi này, và sau đây là những sự kiện:
Ông Ngoại Trưởng tuyên bố như trên trong một cuộc họp báo vào ngày 29 tháng 4, ngay sau cuộc di tản. Hy vọng của Hoa Kỳ đến từ những tin tức tình báo và những tuyên bố phía cộng sản, và của VNCH vài tuần trước khi Saigon thất thủ. Như những gì tổng trưởng Ngoại Giao đã tuyên bố vào ngày 29 Tháng 4, là Hoa Kỳ đã liên lạc với nhiều người trung gian đại diện cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Bắc Việt, và đã có được một vị trí để trao đổi quan điểm qua lại. Ông Ngoại Trưởng có nói rõ (trong lần họp báo ngày 5 tháng 5) là Nga đã giúp đỡ một cách khiêm nhường để chúng ta soạn thảo được vấn đề di tản người Mỹ và Việt, đồng thời họ cũng cho biết có một khả thể nào đó cho một sự thay đổi về thương lượng chính trị cho hai bên.
Trong những tuần còn lại của Tháng 4, VNCH thi hành và phản ứng nhanh chóng, trả lời những đòi hỏi của CSBV như là những điều kiện để thương thuyết. Tháng 3 và đầu Tháng 4, CSBV đòi tổng thống Nguyển Văn Thiệu từ chức. Tổng thống Thiệu từ chức ngày 21 tháng 4. CSBV sau đó yêu cầu người kế vị tổng thống Thiệu từ chức, và nói rõ họ chỉ thương lượng với đại tướng Dương Văn Minh. Đòi hỏi này được thỏa mãn; Dương Văn Minh lên làm tổng thống sau đó. Cùng lúc, Saigon thỏa mãn tất cả những đòi hỏi từ phía cộng sản, mặt dù những đòi hỏi được đưa ra hàng ngày.
Tuy nhiên, cũng như những gì ông tổng trưởng Ngoại Giao đã tuyên bố, vì những lý do không rõ, CSVN thay đổi ý kiến vào đêm 27 tháng 4, và chuẩn bị thi hành kế hoạch quân sự của họ. Khả thể của một dàn xếp chính trị không còn nữa. Vào ngày 30 tháng 4 quân đội cộng sản chiếm Saigon, và tướng Minh bị ra lệnh kêu gọi quân đội VNCH đầu hàng vô điều kiện.
Câu Hỏi 14: Nói về chuyện những cố gắng đi tìm một giải pháp thương lượng chính trị với phía cộng sản để thay đổi chính quyền Saigon, trong khoảng từ ngày 19 đến ngày 27 tháng 4, hai phái đoàn Hung Gia Lợi và Ba Lan trong Ủy Hội Kiểm Soát Đình Chiến có đóng vai trò gì không"
Trả Lời: Câu trả lời của tôi là hai phái đoàn nói trên bị ngỡ ngàng vì sự biến chuyển quá nhanh của tình hình trong những ngày 19 đến 27. Theo sự quan sát và nhận định của tôi, trong giai đoạn đầu, vai trò của hai phái đoàn đó được nghĩ là có lợi cho cuộc thương lượng.
Câu Hỏi 14 (a): Họ có chuyển tin tức từ phía CSBV đến tòa đại sứ không"
Trả Lời: Theo sự hiểu biết của tôi, họ không có trực tiếp chuyển những tin tức nào đến tòa đại sứ.
Câu Hỏi 14 (b): Họ có cung cấp cho tòa đại sứ những "phân tích" về đường lối của Hà Nội về một thương lượng chính trị"
Trả Lời: Có, điều đó thật sự có. Họ cung cấp cho tòa đại sứ liên tục từng giờ về những biến chuyển.
Câu Hỏi 14 (c): Nếu có, thì họ đã cung cấp cho tòa đại sứ tin tức gì"
Trả Lời: Tôi có một ấn tượng là một trong những sự phân tích đã quá chậm so với những biến chuyển đang xảy ra; hoặc là những phân tích đó là một ngụy tạo, có trọng tâm là chính phủ Dương Văn Minh sẽ được Hà Nội chấp nhận để đi đến một thương lượng. Trong khi phân tích của một phái đoàn khác thì có vẻ thận trọng, chuyên nghiệp và chính xác hơn.
PHỤ BẢN D:
Việt Nam: Viễn Tượng Cho Tương Lai" Một Chiến Lược Cô Lập" (1)
Cách đây không lâu cán binh cộng sản vẫn còn lội bộ khuân vác, hay chuyên chở vũ khí trên xe đạp thồ dọc theo những con đường xâm nhập trong rừng núi. Khoảng cách và sự di động được đo bằng nước mắt và mồ hôi của những cán bộ Việt Minh. Những cán bộ này hình như không bao giờ biết mệt khi di chuyển vũ khí ra chiến trường cho đồng bạn.
Các tướng lãnh chỉ huy Pháp ở Việt Nam trong những năm đầu thập niên 1950, nhìn những tấm hình tuyên truyền về sức chiến đấu của dân công Việt Minh, lắc đầu, nửa thương hại, nửa nghi ngờ. Khoảng giữa năm 1954 quân đội anh dũng Pháp bị đánh bại hoàn toàn ở một thung lũng mà khi nhắc đến tên, nói lên huyền thoại của CS Bắc Việt.
Khi cuộc xung đột được nhen nhúm lại sáu năm sau, các cán binh Việt Cộng vẫn đi theo con đường những đàn anh Việt Minh của họ đã đi từ trước. Và một thập niên sau, sức mạnh của quân đội cộng sản được biểu dương qua một nguyên lý họ luôn luôn tôn sùng: Tiếp liệu là phương diện quan trọng nhất của chiến trường; và kết quả của trận chiến thường được quyết định từ đó. Một nguyên lý khác cũng được cộng sản áp dụng thường xuyên là sự tự do di chuyển ở chiến trường họ gọi là di động chiến lược một trong những khái niệm Cá-và-Nước của Mao Trạch Đông: dân chúng là nước; quân là những con cá sống, lội trong nước đó.
Sự thành hình của di động chiến lược đến từ hai điều kiện quốc nội và quốc ngoại của một quốc gia khi điều kiện kinh tế xã hội của những quốc gia thoát ra từ tình trạng thực dân đô hộ, từ khi thế giới chia ra hai khối rõ ràng sau đệ nhị thế chiến.
Thật vậy, gần một phần tư thế kỷ, cộng sản Việt Nam có được hai ưu điểm hơn phiá tự do: Họ có được sự an toàn ở các căn cứ hậu cần trong nội địa hay bên quốc gia lân cận những căn cứ hậu cần đó là nơi họ dưỡng quân sau những cuộc đụng độ để chuẩn bị cho những trận đánh mới mà không sợ bị khuấy phá. Hoặc khủng bố cho người dân địa phương sợ và nghe theo; hoặc dùng phương pháp tẩy não tuyên truyền để có sự hợp tác, cộng sản có thể di chuyển không sợ bị lộ, và từ đó họ tấn công, tàn phá, tùy theo sự thuận lợi về quân sự và chính trị. Những Căn Bản Quân Sự Để đương đầu với cộng sản, quân đội VNCH và Hoa Kỳ đã dùng mọi cách chỉ trừ chưa tấn công qua "hậu phương vĩ đại" của Bắc Việt mà thôi. Tuy nhiên chừng bốn năm trước đây cộng sản gần như đối đầu được với những kế hoạch chiến lược của đồng minh qua sáu nguyên tắc căn bản du kích chiến của Mao Trạch Đông: Địch tiến ta lùi, địch lùi ta tiến; lấy nhỏ đánh lớn, lấy lớn đánh nhỏ; lấy thực lực của địch làm của ta; và quân đội CS lừa bịp nhân dân khiến dân phải nuôi CS.
Đến năm 1967, cuộc chiến Việt Nam bước vào năm thứ tám, cuộc tranh chấp hai bên gần như bất phân thắng bại: mỗi ngày hai bên giao chiến ở nhiều nơi trên chiến trường, hàng trăm trận lớn nhỏ, và bên nào cũng cho mình thắng.
Nhìn lại giai đoạn này chúng ta phải đồng ý là mỗi bên đều có phần thắng ở một phần nào đó. Đối diện với hỏa lực độc tôn của đồng minh, cộng sản thường rút đi sau khi đụng trận. Nhưng thông thường, các tư lệnh đồng minh không tiếp tục lợi dụng những thành công chiến thuật đó, mà lại để cho địch rút về mật khu an toàn của họ. Ngược lại, quân đội Bắc Việt không đủ khả năng để đánh bại VNCH hay làm dân chúng Hoa Kỳ nản lòng như họ đã làm với Pháp ở Điện Biên Phủ 18 năm về trước.
Sự bế tắc về quân sự giữa hai bên có thể nhìn thấy một cách rõ ràng từ nhiều góc cạnh. Với hệ thống tuyên truyền khôn khéo, Hà Nội thành công ngụy tạo cho thế giới tin tưởng cuộc chiến của họ là cuộc chiến cho độc lập và tự do. Dĩ nhiên, ở miền Nam, người dân đã có kinh nghiệm với cộng sản qúa nhiều để tin vào những tuyên truyền đó. Song song với những tuyên truyền, cộng sản nằm vùng không cần quan tâm với người dân tìm mọi cách để phá tan nền tảng kinh tế, xã hội ở miền Nam. Như vậy, đến năm 1967, cuộc chiến nằm trong thế bất phân thắng bại về kinh tế, quân sự và chính trị và không bên nào có khả năng chiếm được thế thượng phong.
Đối diện với cuộc chiến không đi đến đâu, các tư lệnh đồng minh thấy họ phải làm một cái gì đó để phá vỡ cái vòng lẩn quẩn của chiến tranh: phá hủy và chết chóc; càng đánh mạnh thì càng chết nhiều, và sự tàn phá lớn hơn. Nhưng chiến lược quân sự toàn cầu Hoa Kỳ có tính cách uyển chuyển, từng chiến lược mà Hoa Kỳ đang áp dụng ở Việt Nam không tạo ra được khó khăn nào mà Hà Nội không phản ứng lại được.
Về phía cộng sản, các tư lệnh quân sự Bắc Việt thấy được thực tế của chiến trường. Nhưng vì không phải quan tâm về luân lý, đạo đức, họ phác họa một kế hoạch tấn công rất độc hại, tàn ác, mà chỉ cần thêm một chút may mắn thì đã đưa họ đến chiến thắng. Trong cuộc tổng tấn công, tổng nổi dậy, vào những ngày đầu năm 1968, lợi dụng cuộc ngưng bắn vào ngày tết, cộng quân xâm nhập và tấn công nhiều thành phố quân lỵ của VNCH.
Cuộc tấn công ồ ạt, liều lĩnh vào năm Mậu Thân 1968, là sự trả lời rõ ràng cho đồng minh, là tình hình chiến trường vào lúc đó chưa hẳn là "thấy được ánh sáng ở cuối đường hầm" như họ nghĩ. Cuộc tấn công của cộng sản khiến dư luận quốc nội Hoa Kỳ muốn chính phủ họ rút khỏi chiến trường Đông Dương. Sau ba tháng tấn công với một số thương vong là 80 ngàn người, CSBV đã không đạt được mục đích đề ra. Thay vì toàn dân miền Nam tổng nổi dậy như họ tưởng, dân miền Nam ngược lại, đã chống cộng sản hoàn toàn. Thay vì đạt được một chiến thắng mỹ mãn, các cấp số đơn vị của CSBV bị hao tổn một cách thảm hại.
Cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968 hình như là một kế hoạch dựa vào những nguyên lý chiến tranh của thống soái Lâm Bưu dùng nông thôn bao vây thành thị. Cộng sản dự định cuộc tấn công sẽ đem lại sự kiểm soát làng xã, nông thôn nhiều hơn họ đang có. Nhưng đến giữa năm 1968 quân đội VNCH và Hoa Kỳ đã cắt đứt vòng dây của cộng sản chung quanh các đô thị, và lợi dụng những khoảng trống chính trị ở thôn quê, VNCH nới rộng sự kiểm soát cuả chính phủ sâu rộng hơn vào các phần trên lãnh thổ VNCH.
Với tất cả mồ hôi, nước mắt, xương máu, cấp chỉ huy cộng sản không đạt được gì trong trận Mậu Thân, trừ một kết qủa mà các phân tích gia quân sự gọi là "một thất bại quân sự nhưng một chiến thắng tuyên truyền vô giá." Sự thiệt hại của CSBV được chính phe cộng sản công nhận vài tháng sau, khi Trung Ương Cục Miền Nam ra quyết nghị thứ 9, chỉ thị các đơn vị cộng sản quay trở lại chiến lược "tiết kiệm lực lượng": trở lại lối đánh du kích. Quyến nghị này cho thấy tình trạng thật sự suy sụp về khả năng của cộng sản sau trận Mậu Thân.
Trận tấn công năm 1968 là một dấu mốc quan trọng của cuộc chiến Việt Nam ít ra theo những gì được nói về cuộc tấn công đó. Giữa năm 1968, trong khi cộng quân rút lui trên mọi mặt trận, Hoa Kỳ và VNCH thực thi một số biện pháp đã làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt của cuộc chiến.
Sau khi dân chúng miền Nam thể hiện lá phiếu bằng chân của họ đối với cộng sản trong năm Mậu Thân, chính quyền VNCH quyết định võ trang nhân dân miền Nam. Hơn nửa triệu vũ khí cũ được giao cho Nhân Dân Tự Vệ, một lực lượng bao gồm tất cả tráng niên từ 16 đến 50 tuổi. Với gần hai triệu người dân được giao cho phương tiện để chống lại cộng sản, cuộc chiến Việt Nam trở thành một chiến tranh nhân dân ở trong lãnh thổ miền Nam. Nói theo ngôn ngữ chiến tranh du kích của cộng sản, thì con cá du kích quân VC bắt đầu thấy vũng nước dân chúng bắt đầu cạn dần: khả năng di động của cộng quân bị giới hạn nhiều từ khi chương trình Nhân Dân Tự Vệ được áp dụng.
Sau khi lực lượng Nhân Dân Tự Vệ nhận lãnh một phần trách nhiệm của Nghĩa Quân; Nghĩa Quân được giao lại phần trách nhiệm của Địa Phương Quân. Chỉ vài tháng sau, hai lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân có nhiệm vụ bảo vệ một phần lớn lãnh thổ, để 10 sư đoàn chủ lực của VNCH được rảnh tay tấn công vào những hậu cứ của cộng sản.
Đến cuối năm 1969, phần lớn các căn cứ của CSBV ở miền Nam bị phá hủy; cuộc chiến bây giờ giới hạn vào những vùng ở biên giới. Sự kiện này đưa đến một thay đổi lớn về tình hình chiến sự ở Việt Nam khi quân đội Hoa Kỳ giảm binh và chuẩn bị tái phối trí từ các vùng trách nhiệm của họ. Đến ngay thời gian này, hoàng thân Norodom Sihanouk, "ông hoàng Đỏ", bị đảo chánh và mất quyền ở Cam Bốt. Quân đội VNCH lập tức mở cuộc hành quân tấn công qua các căn cứ cộng sản ở bên kia biên giới. Khi cộng sản không còn xử dụng được hải cảng Sihanoukville, bộ tư lệnh tối cao cộng sản bây giờ chỉ còn con đường xâm nhập Hồ Chí Minh là đường tiếp tế duy nhất cho chiến trường miền Nam. Khi nhắc đến đường mòn Hồ Chí Minh, chúng ta cũng phải nói đến cuộc hành quân Lam Sơn 719, đánh qua Tchepone và những mục tiêu không kém quan trọng khác ở Hạ Lào.
Bốn năm sau cuộc tấn công Mậu Thân, tình hình chiến trường rõ hơn đối với những rối loạn hỏa mù của những năm tháng trước. Thật vậy, mặc dù tổn thất về nhân sự của cuộc chiến vẫn còn cao 50 binh sĩ Hoa Kỳ, 350 Việt Nam, và 2500 cộng quân tử trận hàng tuần tình hình chiến sự sau năm 1971 có tính cách tiếp liệu: địch quân cố gắng mở đường tiếp tế; đồng minh tìm cách cắt đứt. Thêm vào đó, cộng quân không còn lợi thế trong liên hệ quân sự chính trị với người dân như họ đã có trước đây. Không còn sự ủng hộ của dân và bị phân tán mỏng, tinh thần chiến đấu của cán binh cộng sản không còn cao như trước. Để thay vào mất mát đó, cộng sản cố gắng cung cấp thêm cho các đơn vị vũ khí và phương tiện vật chất.
Với tình hình mới, trên quan điểm quân sự thuần túy, đồng minh nghĩ phải có cách nào để đối phó; và CSBV có chiến thuật gì mới cho cuộc chiến đấu trường kỳ của họ. Cô Lập Từ năm 1966, trong một buổi nói chuyện với nhiều sĩ quan cao cấp, tác giả có đề cập đến một chiến lược gồm có 7 điểm để đối phó vối cuộc chiến, mà tác giả gọi là Chiến Lược Cô Lập. Với tất cả những khiếm khuyết của chiến lược, 7 điểm đó được nêu ra ở đây để chúng ta có thể bàn về những ưu điểm và giới hạn của nó.
Tách rời du kích ra khỏi dân để phá đi hạ tầng cơ sở của chúng.
Cô lập các đơn vị chủ lực và đơn vị địa phương để cả hai không tựa vào và tiếp ứng nhau, để chúng ta có thể tiêu diệt dễ hơn.
Triệt tiêu các căn cứ hậu cần của địch trong lãnh thổ VNCH.(1)
Triệt tiêu các căn cứ hậu cần của địch ở những nước lân cận.
Thiết lập một hàng rào chống xâm nhập dọc theo vĩ tuyến 17, từ Đông Hà đến Savannakhet.(2)
Cắt liên lạc giữa mặt trận và hậu cứ của CSBV ra làm hai bằng cách đổ bộ lên Vinh hay Hà Tỉnh.
Thành lập một liên minh các quốc gia gồm có Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam.(3)
Từ khi Chiến Lược Cô Lập được đề ra, đến nay đã qua một thời gian khá lâu, nhưng không một kế hoạch nào được thực thi về kế chiến lược này.
Khi Nhân Dân Tự Vệ được thành lập vào năm 1968, dân có được phương tiện tự vệ, và không còn để bị cộng sản dọa nạt bằng những phương tiện khủng bố. Tiếp theo chương trình nhân dân tự vệ là kế hoạch Phụng Hoàng một kế hoạch đem lại nhiều kết quả khả quan, phá hủy các tổ chức nằm vùng của cộng sản các cơ cấu hoạt động của cộng sản tại thôn xã lần lần biến mất. An ninh được tái lập ở nông thôn và cộng sản chỉ hoạt động hữu hiệu trong tình trạng hỗn loạn thiếu chính quyền mất đi cơ sở chính trị quân sự ở nông thôn. Trong tình thế đó, cuộc chiến không còn căn bản là du kích nữa. Và khi đánh theo chiến tranh qui ước, cộng sản không thể thắng được đồng minh vì hỏa lực bên ta quá mạnh. Cho đến năm 1970, các căn cứ hậu cần của cộng quân hầu như bị hủy diệt hoàn toàn. May mắn hơn cho đồng minh, năm 1970, khi tình hình chính trị thay đổi ở Pnom Penh chúng ta có dịp tấn công những căn cứ và chiến khu của địch nằm dọc theo biên giới Cam Bốt. Những kết qủa thâu lượm được ở những căn cứ như Parrot's Beak, Angle's Wing, Dog's Face làm cho đồng minh phấn khởi và đưa đến cuộc tấn công qua Hạ Lào năm sau như là một kế hoạch đương nhiên.
Hành quân Lam Sơn 719 bắt đầu vào tháng 2, 1971 và chấm dứt hai tháng sau. Hành quân Lam Sơn 719 chặn đứng kế hoạch phản công của CSBV ở Vùng I. Mặc dù không thành công mỹ mãn như cuộc hành quân qua Cam Bốt, cuộc hành quân đánh qua Hạ Lào đã phá hủy một số lớn quân nhu dụng ở vùng Tchepone, và làm gián đoạn sự xâm nhập của CSBV vào Nam.
Có nhiều nhận định cho rằng cuộc hành quân Lam Sơn 719 thất bại. Những nhận định này có thể đến từ suy luận cuộc hành quân là một cố gắng tối khẩn để kết thúc cuộc chiến. Lối suy luận đó không đúng. Nhìn từ quan điểm quân sự trong chiến tranh trường kỳ, ít nhất là hai ba điểm sau cùng trong Chiến Lược Cô Lập phải được thực hiện ngay sau hành quân Lam Sơn 719 để có thể ổn định được tình hình chiến trường ở Việt Nam. Nhưng với tình hình đối diện đang trở lại mức bình thường, chúng ta phải chờ một thời gian nữa thì những kế hoạch trong Chiến Lược Cô Lập mới có thể được dư luận tán đồng và thực hiện.
Mặc dù tình hình chính trị ngay lúc này không cho phép đồng minh thực hiện những kế hoạch phản công trong Chiến Lược Cô Lập, phía đồng minh đang có nhiều lợi thế trong cuộc chiến. Tuy nhiên, phải cần nhiều cố gắng hơn về phương diện chính trị phải phục vụ người dân như đề ra trong Chiến Lược Cô Lập. Người dân chỉ xa lánh cộng sản nếu họ thấy được sự chăm sóc của chính quyền.
Thêm vào đó, để hoàn toàn cô lập địch, chính quyền liên tục tấn công đối phương bằng nhiều ngã để người dân thấy lúc nào họ cũng được bảo vệ. Chỉ có cách đó thì chính phủ mới lấy được lòng tin của dân, bớt đi những phàn nàn. Khi lấy được lòng dân, cộng sản sẽ không còn nơi hoạt động, vì họ chỉ hoạt động được khi người dân bất mãn. Roger Trinquier, tác giả cuốn Chiến Tranh Mới, cho rằng muốn thắng trong chiến tranh cách mạng, chính phủ phải thỏa mãn sự trông đợi của người dân, và chính phủ phải có nhiều cán bộ chuyên phục vụ cho lợi ích công cộng và cho dân.
Vì phân nửa dân miền Nam sống ở nông thôn, ưu tiên phải được đặt nặng cho đời sống của dân ở đó. Về phương diện này, quân dân cán chính miền Nam có thể học hỏi nhiều bài học quí giá từ những kinh nghiệm ở Mã Lai Á. Tự do là một điều đáng quí, nhưng đôi khi chúng ta không thể cho một vài loại tự do được hiện hữu, nếu sự tự do đó đi ngược lại an ninh tập thể.
Biện Pháp Chưa Đúng Mức
Như một biện pháp chống du kích chiến, chiến thuật ngăn du kích ra khỏi dân chưa đủ để đánh bại cộng sản. Mọi người đều biết chiến lược cuả cộng sản là xử dụng du kích chiến và chiến tranh qui ước song song với nhau: dùng quân du kích để quấy phá và dùng quân chủ lực để tiến công chiếm giữ. Nếu chúng ta để hai lực lượng đó phối hợp nhau, nông thôn sẽ không bao giờ được bình định và cuộc chiến sẽ tiếp tục lâu hơn chúng ta có thể tiên đoán. Vì lý do nầy, triệt tiêu du kích chưa đủ: vật liệu và nhân sự xâm nhập từ miền Bắc phải được ngăn chận nếu chúng ta muốn kiểm soát được hiểm hoạ của cộng sản. Nếu chúng ta thấy oanh tạc và dội bom đã không ngăn chận được sự xâm nhập, chúng ta cần một biện pháp khác hữu hiệu hơn.
Phi Luật Tân, Mã Lai và Nam Hàn đã chiến đấu với cộng sản, và cộng sản bị đánh bại không khó lắm. Những quốc gia này không nằm liền lục địa, hay chỉ là những bán đảo, và địa hình đó có lợi cho những kế hoạch chống xâm nhập.
Trái lại, Việt Nam có hơn 1500 cấy số biên giới ở hướng tây và một bờ biển dài tương đương ở phiá đông. Như vậy, cộng sản có một hành lang xâm nhập vô tận. Đồng minh đã cố gắng ngăn chận những ngõ xâm nhập này; nhưng có khi được khi không. Để cắt đứt tất cã cử ngõ xâm nhập hữu hiệu hơn, chúng ta phải thiết lập một hàng rào ở phía nam vĩ tuyến 17, chạy dài từ Đông Hà tỉnh Quảng Trị, cho đến thành phố Savannakhet nằm trên bờ sông Cửu Long ở Lào.
Khi nói đến một hàng rào ngăn chận, tác giả không có ý so sánh hàng rào đó như chiến lũy Maginot, hay hàng rào Siefried, hay một hàng rào kẻm gai chạy dài từ Stettin xuống bờ biển Baltic; từ Trieste xuống vùng Adriatic. Hàng rào ngăn chận này là một hệ thống phòng thủ, với khoảng ba sư đoàn quân, có nhiệm vụ phòng thủ và tảo thanh các đơn vị CSBV đang hoạt động ở Hạ Lào.(4)
Tấn Công Hay Liên Hiệp
Kế hoạch hàng rào ngăn chận này rất có thể không được chánh phủ Lào chấp thuận, nhất là trong lúc đang có thảo luận về vấn đề tái thi hành Hiệp Ứơc Geneva 1962 đang bị bỏ quên. Nếu không thể nào có sự ưng thuận của chính phủ Lào, còn một giải pháp khác: tấn công vào phía nam của Bắc Việt.
Tấn công vào Vinh hay Hà Tỉnh có lẽ là giải pháp duy nhất để chận đứng cuộc chiến tranh trường kỳ của CSBV nếu VNCH có thể thuyết phục thế giới thấy ý định của mình là chỉ chận đứng sự xâm nhập của cộng sản Hà Nội. Và nếu cuộc đổ bộ này được thực hiện, mục tiêu đổ bộ sẽ nằm trong khoảng trên vĩ tuyến 18 và dưới phía nam sông Cả một chút. Lực lượng tấn công sẽ đổ bộ gần Bến Thủy. Từ đó, lực lượng đánh ngang qua Đèo Keo Neua và Đèo Mụ Già cửa ngõ của đường xâm nhập Hồ Chí Minh. Cuộc tấn công chỉ thành công khi lực lượng đổ bộ chiếm và giữ được đầu ngọn của con đường xâm nhập và chận đúng mọi di chuyển vào Nam.
Kế hoạch đổ bộ tấn công này sẽ được coi là một vi phạm của hiệp định Geneva 1954. Cuộc hội đàm Ba Lê đang diễn ra bốn năm rồi. Và đã đến lúc những mỹ ngữ của công pháp quốc tế phải nhường lại cho những chuẩn bị của chiến trường. Nếu một cuộc tấn công toàn diện miền Bắc không thể xảy ra được trong hoàn cảnh chính trị thế giới đang đối diện, thì một cuộc đổ bộ giới hạn có thể coi là khả thể. Đổ bộ lên một phần nhỏ của miền Bắc cũng có thể cảnh tỉnh Nga và Trung Cộng hai quốc gia đang cung cấp tài nguyên và tiền bạc cho CSBV là đã đến lúc họ nên rời cuộc chiến ở Đông Nam Á.
Tấn công hay là không, và có được một thương lượng chính trị hay không, nền an ninh ở Đông Dương trong thời gian tới chỉ có thể bảo đảm được bằng những phương thức chính trị và quân sự, mà kết quả là một liên hiệp giũa các quốc gia Lao, Cam Bốt, Thái Lan và VNCH. Trong một bài diễn thuyết vào tháng 3, 1970, trước khi có những biến đổi chính trị ở Pnom Penh, người viết tiên đoán: "Không sớm thì muộn, một liên hiệp dồng minh sẽ thành hình vì những quốc gia ở Đông Dương đang bị hăm dọa bởi một kẻ thù chung. Và dù các quốc gia này có hệ thống chính trị khác nhau, họ đều đồng ý chỉ có một mặt trận liên hiệp, đồng minh, là phương cách hữu hiệu nhất để chống lại kế hoạch xâm lăng của Hà Nội."
Nói thì dễ, nhưng thực hành thì khó. Xung đột đang xảy ra ở Đông Dương là một cuộc xung đột toàn diện. Như vậy, phương cách đối phó phải có một chiến lược toàn diện. Một điều đáng tiếc là chiến lược đồng minh đang áp dụng ở Đông Dương trong thập niên qua hoàn toàn thiếu tính chất toàn diện đó. Và nếu chiến lược không có tính chất toàn diện thì không thể nào có được một giải pháp thỏa đáng cho cuộc chiến này.
Cộng sản Bắc Việt, dĩ nhiên, cố gắng tìm một chiến thắng quân sự. Nhưng sau một thời gian chiến đấu dai dẳng, với nhiều thiệt hại và khó khăn, chiến thắng quân sự có vẻ như là một giấc mơ. Rồi trước đó, trận lụt lớn nhất trong 100 năm nay gây ra nhiều thiệt hại ở đồng bằng sông Hồng, càng làm cho giấc mơ chiến thắng quân sự của họ trở thành một ác mộng không kém.
Việt Nam Cộng Hòa nằm trong một hoàn cảnh khả quan hơn. Nhưng với những bất mãn đang xảy ra trong xã hội, giới lãnh đạo quốc gia không thể mạo hiểm với những kế hoạch táo bạo và hy vọng đem lại những kết quả lớn. Thêm vào đó, sự liên hệ với Hoa Kỳ giới hạn nhiều hoạt động và bắt buộc VNCH phải nằm trong thế thủ. Như vậy, trừ khi có một biến chuyển bất thường nào đó xảy ra nói theo lời một nhà lãnh đạo Hoa Kỳ VNCH phải "gồng" cho đến tàn cuộc chiến. Miền Bắc khai diễn cuộc chiến không có lời tuyên chiến thì có thể miền Bắc sẽ ngưng cuộc chiến trong yên lặng, thay vì bằng một hiệp ước. Hoà Bình thật sự cho Việt Nam vẫn chưa đến.(5)
Chú Thích
1. Bài Chiến Lược Cô Lập (nguyên tác, Vietnam: What's Next" The Strategy of Isolation) được đăng trong tạp chí Military Review của trường US Command and General Staff College, Fort Leavenworth, Kansass, số 52, Tháng 4, 1972. Trong khoảng thời gian hơn 25 năm qua, rất nhiều sách vở, Việt lẫn ngoại quốc, viết về chiến tranh Việt Nam. Nhưng hình như chưa có sách nào đề nghị một giải pháp khả dĩ giải quyết chiến tranh thuận lợi cho VNCH. Hy vọng Chiến Lược Cô Lập được xem như một trong các đáp số cho bài toán trên. Tuy nhiên, chiến lược này có áp dụng được hay không trên thực tế lại là chuyện khác (chú thích của tác giả).
2. Tháng 6, năm 1964, Ban Tham Mưu Liên Quân Hoa Kỳ có nghiên cứu một kế hoạch tương tự như đã trình bày trong Chiến Lược Cô Lập. Kế hoạch sẽ dùng bốn sư đoàn Lục Quân Hoa Kỳ làm một phòng tuyến từ Đông Hà qua Savannakhet. Kế hoạch được tư lệnh Lục Quân Hoa Kỳ Harold K. Johnson chấp nhận, nhưng bị Đô Đốc Harry Felt (tiền nhiệm của đô đốc Sharp), Tư lệnh Quân Đội Hoa Kỳ, Thái Bình Dương phản đối. Theo đô đốc Felt, đóng quân như vậy sẽ nằm trong thế thủ và không thực hiện được gì. Trích theo Robert Buzzanco, Masters of War, trang 171, cước chú 51 (chú thích của dịch giả).
3. Tất cả 7 điểm của chiến lược phải được thực hiện cùng một lúc thì mới có hiệu quả mong muốn. Thời gian thuận tiện nhất là sau cuộc tấn công Mậu Thân 1968. Lúc đó hạ tầng cơ sở cộng sản đã gần hoàn toàn tiêu diệt, và các đơn vị chính quy cộng sản bị đánh bật ra vùng biên giới (chú thích của tác giả).
4. Trên thực tế chiến lược này không được chấp nhận và thi hành: Về phía VNCH, chiến lược này được tác giả trình miệng cho trung tướng Thiệu và thiếu tướng K (Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, 1967). Chiến lược không được chấp thuận vì không có sự ủng hộ của Hoa Kỳ. Về phiá Hoa Kỳ, theo tướng Phillip Davidson (Vietnam at War, Oxford University Press, 1988), cả Bộ Tổng Tham Mưu Hoa Kỳ , cùng đô đốc Sharp và đại tướng Westmoreland, đều có kế hoạch đánh ra vùng bắc khu phi quân sự, cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh, đánh phá các căn cứ ở Lào, Cam Bốt, và oanh tạc các mục tiêu quan trọng chung quanh Hà Nội, Hải Phòng. Các kế hoạch trên đều không được tổng trưởng quốc phòng McNamara và tổng thống Johnson (1967) chấp thuận (chú thích của tác giả).
5. Trong quyển Chiến Thuật và Chiến Lược (Trung Tâm Quân Sử, Lục Quân Hoa Kỳ , 1980), tác giả đại tá Hoàng Ngọc Lung có nói đến một số châm ngôn về chiến tranh như sau (không rõ xuất xứ): Khi chiến thuật sai và chiến lược sai thì chiến tranh sẽ chóng thua; Khi chiến thuật đúng nhưng chiến lược sai, trận chiến có thể thắng, nhưng chiến tranh sẽ thua; Khi chiến thuật sai nhưng chiến lược đúng, trận chiến có thể thua nhưng chiến tranh sẽ thắng; và khi chiến thuật đúng và chiến lược đúng thì chiến tranh sẽ thắng mau lẹ. Cả VNCH và Hoa Kỳ đều ở vào trường hợp thứ hai. Trong phần kết luận ở cuốn sách, tác giả đã nêu rõ lý do tại sau VNCH không tồn tại được. Bây giờ phải thêm một lý do không kém phần quan trọng nếu không nói là quan trọng nhất: là cả Hoa Kỳ và VNCH không áp dụng một chiến lược địa lý chính trị (geopolitics) thích nghi và hữu hiệu cho cuộc chiến. Cũng vì chúng ta không có một chiến lược thích nghi và hữu hiệu cho cuộc chiến nên phía cộng sản mới có thể đem thêm nhiều quân vào miền Nam và đạt đươc thế thượng phong trong tương quan lực lượng. Với một cái nhìn thực tiển, vô tư và chính xác, thiếu tướng John E. Murray trong cuốn Vietnam as History (Peter Baestrup, Ed., Washington, DC, University Press, 1984) đã nói như sau, và chúng ta có thể dùng làm một kết luận cho chiến tranh Việt Nam: "Nếu muốn biết về cuộc chiến Việt Nam thì phải biết về chiến tranh; muốn biết về chiến tranh thì phải biết đôi chút về toán học. Trong thời cao điểm của lực lượng Hoa Kỳ ở Việt Nam chúng ta có 433 tiểu đoàn tác chiến Mỹ và Đồng Minh; địch có 60 trung đoàn (180 tiểu đoàn). Năm 1974, khi chúng ta rút lui, Việt Nam Cộng Hòa có 189 tiểu đoàn; địch tăng lên 110 trung đoàn (330 tiểu đoàn). Lấy đi B-52, F-4, lấy đi hải pháo, lấy đi tất cả.... và ta bắt đầu yểm trợ miền Nam với 2% tổng số tiền đã dùng cho quân đội Mỹ, để đương đầu với một số địch quân nhiều hơn. Ta phải nhớ, Nã Phá Luân đã nói: "Thượng đế đứng về phe nào có các tiểu đoàn lớn nhất, mạnh nhất." Đúng như vậy. Từ năm 1974 thượng đế đã đúng về phe cộng sản; họ lớn hơn, mạnh hơn. Và đó là lý do tại sao chúng ta thua chiến tranh Việt Nam."
Sau khi đọc hết các chương trước, nếu để ý độc giả có thể nhận ra được những lý do đưa đến sự sụp đổ của miền Nam. Những lý do tác giả đưa ra trong sách này lý do lộ liễu hay ngấm ngầm là những lý do đưa đến sự thất thủ của miền Nam:
(1) Miền Nam đã ký một hiệp định trong đó cộng sản có nhiều ưu thế; và Hiệp Định Paris 1973 làm cho cán cân lực lượng nghiêng về phía cộng sản thêm sức mạnh và cho phép họ tấn công đánh chiếm miền Nam.
(2) Những hứa hẹn của tổng thống Nixon là Hoa Kỳ sẽ trả đũa mạnh trong trường hợp CSBV vi phạm hiệp định, đã không được tổng thống Ford thực hành khi CSBV tấn công miền Nam một cách lộ liễu.
(3) Sự giảm thiểu quân viện lớn lao và bất ngờ, gây nhiều trở ngại về khả năng tác chiến và làm suy sụp tinh thần dân miền Nam.
(4) Những quyết định chiến lược quyết định phải có của tổng thống Thiệu đưa ra quá trể để có thể thực hiện như mong muốn. Kế hoạch triệt thoái khỏi Cao Nguyên diễn ra quá vội vàng, đưa đến sự sụp đổ nhanh chóng của Quân Đoàn I và II.
(5) Cấp lãnh đạo VNCH không thấy rõ sự thay đổi về đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ, khi Hoa Kỳ chuyển sang thái độ hòa hoãn, thoả hiệp với cộng sản quốc tế dù phải thất hứa với đồng minh. Vì không nhận rõ sự thay đổi ngoại giao của Hoa Kỳ, cấp lãnh đạo VNCH đã không uyển chuyển thay đổi kế hoạch quốc gia cho phù hợp với thực trạng và tình thế. Sau hiệp định Paris 1973, VNCH vẫn trông đợi vào những hứa hẹn xa vời và bất thể hiện.
Lý do sau cùng: sau một thời gian chiến tranh dài, Việt Nam Cộng Hòa bị phá sản về phương diện kinh tế cũng như chính trị. Tinh thần đoàn kết quốc gia không còn; không có được một lãnh tụ nào có thể kêu gọi toàn dân đoàn kết lại cho một chính nghĩa chung. Tham nhũng, thiếu khả năng, và thờ ơ với nhiệm vụ, chính phủ không làm tròn trách nhiệm với người dân trong khi người dân mất dần niềm tin vào chánh phủ. Mặc dù với nhiều kế hoạch kinh tế có vẻ lạc quan bề ngoài, nền kinh tế quốc gia tiếp tục đi xuống đến mức chỉ còn một phép lạ mới cứu vãn được. Với những khuyết điểm đó, cơ cấu và nền tảng xã hội miền Nam từ từ bị vỡ tan từng mảnh. Băng hoại đến từ sự chia rẽ, thiếu niềm tin, hoang mang, và đôi lúc, có những ý nghĩ chủ bại: Với những ung nhọt đó, miền Nam như một trái cây chín mùi, dể rụng trước một cơn gió nhẹ.
Ngoài lý do chính kể trên, đi ngược về quá khứ, nhiều lý do khác thuộc về lãnh vực kinh tế, chính trị, ngoại giao quốc tế... cùng đưa VNCH đến sự sụp đổ hoàn toàn. Sau đệ nhị thế chiến, không ai chối cãi vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ như một cường quốc trên thế giới. Nhưng đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ, đối với Việt Nam nói riêng, hay đối với Đông Nam Á nói chung, thay đổi nhiều lần qua nhiều giai đoạn từ sau năm 1945: Thời gian đầu Hoa Kỳ không có đường lối ngoại giai nào; kế đến là một đường lối chống cộng mãnh liệt; sau cùng là nhân nhượng và thỏa hiệp. Những thay đổi ngoại giao này ảnh hưởng chiến lực quân sự cũng như viện trợ kinh tế cho vùng Đông Nam Á.
Tổng thống Franklin D. Rooservelt không có một ý định rõ ràng về chuyện ủng hộ người Pháp trở lại Việt Nam sau khi thế chiến thứ hai chấm dứt. Chính phủ Truman cũng không có thái độ dứt khoát khi Pháp và Việt Minh có những xung đột đầu tiên trong năm 1945-1946. Hoa Kỳ từ chối khi Pháp yêu cầu Hoa Kỳ cung cấp phương tiện chuyên chở để đưa quân Pháp trở lại Đông Dương; cũng như từ chối đứng về phía nguười Pháp đánh lại Việt Minh. Nhưng Hoa Kỳ cũng không chấp nhận lời kêu gọi ủng hộ một nền độc lập cho Việt Nam của Hồ Chí Minh. Vào tháng 7 và 8, sau khi chiếm được chính quyền ở Hà Nội, Hồ Chí Minh nhờ nhân viên Sở Tình Báo OSS gởi tổng thống Truman một lá thư thỉnh cầu Việt Nam được cho quyền tự trị giống như Phi Luật Tân trong thời gian chờ được hoàn toàn độc lập. Từ tháng 10-1945 cho đến tháng 2-1946, Hồ Chí Minh viết cho tổng thống Truman hay tổng trưởng ngoại giao Hoa Kỳ ít nhất là tám lá thư, thỉnh cầu Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc can thiệp vào chế độ thực dân của Pháp ở Việt Nam. Sử liệu không cho thấy Hoa Kỳ trả lời những thỉnh nguyện thư này. Như vậy, khi Hoa Kỳ không can thiệp, có nghĩa là Hoa Kỳ đứng về phía người Pháp.(1)
Nhưng vào năm 1949, sau khi Việt Nam được Pháp cho một chút độc lập như một quốc gia trong Liên Hiệp Pháp dưới sự lãnh đạo của Bảo Đại, Hoa Kỳ cũng không thật sự ủng hộ Bảo Đại vì nghĩ Bảo Đại là một lãnh tụ yếu và bù nhìn. Đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ đối với Việt Nam chỉ thay đổi khi Mao Trạch Đông toàn thâu Hoa Lục vào cuối năm 1949. Khi Trung Cộng và Nga công nhận chính phủ Hồ Chí Minh vào tháng Giêng, 1950, Hoa Kỳ lập tức công nhận chính phủ Bảo Đại vào tháng 2 năm đó. Rồi ba tháng sau, Hoa Kỳ tuyên bố sẽ viện trợ quân sự và kinh tế cho Pháp để giúp Pháp tiếp tục cai trị Đông Dương. Từ một ngân khoản nhỏ là 10 triệu Mỹ kim lúc khởi đầu, ngân quỹ viện trợ cho Pháp tăng lên gần 1 tỉ Mỹ kim vào đầu năm 1954. Cuộc chiến tranh thứ nhất ở Đông Dương được khởi sự bằng tiền Mỹ qua bàn tay Pháp.(2)
Sau khi Pháp thua trận Điện Biên Phủ và phải ký Hiệp Định Geneva năm 1954, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia của chính phủ Eisenhower nghĩ hiệp định Geneva quá bất lợi cho chiến lược của đồng minh, và Hoa Kỳ phải tìm cách chận đứng làn sóng cộng sản tràn xuống miền Nam. Chủ đích của đường lối ngoại giao Hoa Kỳ là "bảo vệ và duy trì một quốc gia ở miền Nam không cộng sản" đây là chính phủ Việt Nam Cộng Hòa của tổng thống Ngô Đình Diệm "và ngăn chận không cho cộng sản chiếm được đa số" trong cuộc bầu cử tổng quát trên toàn cõi Việt Nam, nếu cuộc bầu cử được tổ chức. Việt Nam Cộng Hòa bây giờ nhận viện trợ thẳng từ Hoa Kỳ. Quân đội VNCH, do người Pháp huấn luyện từ trước, được cải tổ sâu rộng những quân nhân trong quân đội cũ, dù với nhiều kinh nghiệm chiến trường, nhưng vì có liên hệ với người Pháp, bị cho về hưu. Một thế hệ quân nhân mới, một chế độ quân dịch mới được lập thành Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Mục đích là thành lập các đơn vị cấp sư đoàn dưới sự hướng dẫn của người Mỹ. Phương pháp huấn luyện và quân dụng của quân đội Hoa Kỳ được toàn bộ áp dụng. Để làm quen với hệ thống chỉ huy mới, sĩ quan bị bắt buộc theo học khoá Chỉ Huy và Lãnh Đạo. Một số trong những sĩ quan này được đưa sang Hoa Kỳ để tiếp tục được huấn luyện thêm ở những trung tâm quân sự. Khi thành tổng thống, Kennedy thay đổi đường lối ngoại giao quân sự của chính phủ Eisenhower bằng cách gia tăng sự hiện diện của người Mỹ nhiều hơn ở Việt Nam. Tuy nhiên, chính phủ Kennedy chỉ cung cấp cố vấn chứ chưa thật sự cho lính tác chiến song song với quân đội VNCH. Sau khi Kennedy bị ám sát, tổng thống Johnson nới rộng cuộc chiến bằng cách đem nhiều quân tác chiến vào và bắt đầu dội bom Bắc Việt. Từ con số 3500 quân vào tháng 3-1965, Hoa Kỳ có hơn 550,000 quân ở Việt Nam vào đầu năm 1969.
Nhưng sau tổng thống Johnson, người tổng thống kế vị, Richard Nixon, thay đổi phương cách hổ trợ của Hoa Kỳ ở Việt Nam qua một kế hoạch gọi là Việt Nam Hóa. Kế hoạch này là một sản phẩm phụ của chủ thuyết ngoại giao mới. Thay vì đương đầu thẳng với cộng sản, ông kêu gọi hợp tác, đồng lòng, và sức mạnh của quốc gia là ba rường cột đưa đến hòa bình thế giới. Cái khác biệt của chủ thuyết Nixon về an ninh quốc phòng khác với những chủ thuyết ngoại giao của Hoa Kỳ từ năm 1945 cho đến nay là, Nixon đặt nặng chủ thuyết của ông vào "vai trò của đồng minh trong vấn đề phòng thủ chung." Tổng trưởng quốc phòng Melvin R. Laird chỉ trích chủ thuyết ngoại giao của Nixon như sau:
"Từ quan điểm phòng thủ Hoa Kỳ, thảm kịch thật sự của Việt Nam là chương trình Việt Nam Hóa không được bắt đầu sớm hơn năm 1969, với những kế hoạch có chủ tâm huấn luyện và trang bị quân đội VNCH hữu hiệu hơn, để họ có thể chiến đấu chống lại CSBV, và chống lại những quấy phá của Việt Cộng về vấn đề an ninh trong lãnh thổ. Cơ hội Việt Nam Hóa đã có từ đầu thập niên 60 (và không chỉ ở Việt Nam). Nhưng cơ hội đó bị bỏ qua một bên, thay vào đó là quyết định đem quân tác chiến vào Việt Nam và gia tăng sự có mặt của Hoa Kỳ trên mọi lãnh vực của cuộc chiến."(3)
Lấy thí dụ về khẩu súng cá nhân căn bản của quân đội VNCH, súng AR-15, sau này là M-16: AR-15 được thử nghiệm ngoài chiến trường từ năm 1964. Lữ Đoàn Nhảy Dù thích loại súng cá nhân này: nhẹ, dễ bảo trì, chính xác, đạn nhỏ, có thể mang trên người một số lượng lớn. Tuy đầu đạn nhỏ, nhưng sức công phá rất mạnh vì vận tốc nhanh của đạn. Nói tóm lại, đây là loại súng thích hợp cho quân nhân Việt Nam, ở chiến trường Việt Nam. Nhưng chỉ có hơn hai trăm khẩu AR-15 được đem qua thử nghiệm và xử dụng. Sau này súng M-16 chỉ được viện trợ đồng loạt để làm căn bản cho quân đội VNCH sau khi VC và CSVN chúng tỏ hỏa lực của họ qua loại vũ khí cá nhân như AK-47. Các loại vũ khí khác của CSBV cũng tỏ ra rất tối tân so với vũ khí cá nhân của chúng ta. Quân đội VNCH chỉ nhận được súng chống xe tăng M-72 và hỏa tiển TOW, sau khi cộng sản đã được trang bị hỏa tiễn chống người và xe tăng B-40, B-41. Tương tự, quân đội VNCH được trangbị đại bác 175 ly và xe tăng M-48 sau khi cộng sản đã có đại bác 130 ly và tăng T-54. Đó là một vài thí dụ về vũ khí trang bị ở chiến trường.
Phải công nhận, lệ thuộc vào vũ khí tối tân đôi khi cũng có nhiều vấn đề, nếu không nói là nguy hiểm. Trước năm 1954, trong khi chiến đấu song song bên cạnh quân đội Pháp một quốc gia không giàu như Hoa Kỳ Quân Đội Quốc Gia Việt Nam phải dung hòa giữa sức người và cơ giới. Nhưng đến năm 1955 khi nhận quân viện thẳng từ Hoa Kỳ, quân đội VNCH đã áp dụng chiến thuật đã học tập từ quân đội Hoa Kỳ, và áp dụng một cách triệt để trong suốt thời gian chiến đấu bên cạnh quân đội Hoa Kỳ. Nhưng lối đánh giặc kiểu đó được gọi là kiểu đánh giặc nhà giàu. Với văn minh khoa học tân tiến, Hoa Kỳ dùng kỹ thuật thay thế cho nhân lực: Thay vì đi bộ hành quân, chúng ta dùng thiết vận xa M-113; tất cả những cuộc tấn công đều được phi pháo yểm trợ tối đa. Khi quân viện bị cắt giảm, từ tình trạng dư thừa rơi xuống túng thiếu, tinh thần và khả năng tác chiến của quân đội VNCH bị sa sút. Từ đầu năm 1974, BTTM cố gắng áp dụng nhiều biện pháp để thay đổi, sửa chữa lối đánh giặc tốn kém đó, nhưng không còn đủ thời gian.
Còn người cộng sản thì sao "Có viện trợ hay không có viện trợ họ xoay sở ra làm sao" Sau cùng, họ đã chiếm miền Nam bằng xe tăng và đại pháo của Nga. Trong giai đoạn đầu chiến tranh, phải nói, vũ khí của Việt Minh và cộng sản có được đến từ Pháp và Nhật trong các trận phục kính hay thắng trận. Ngoài ra, họ dùng sức người thay cơ giới trong lối đánh giặc nhà ngèo của họ. Trong giai đoạn sơ thời của chiến tranh du kích, cộng sản ở miền Nam sống bám chặt vào dân ở nông thôn như loài dây leo cần một thân cây để sống. Họ đánh thuế vào nông và đặc sản địa phương để gây quỹ cho cuộc chiến. Chính phủ VNCH đã dùng nhiều biện pháp để ngăn chận kế hoạch thâu thuế của cộng sản, nhất là vào các đặc sản như lúa và cao su.
Sau khi Mao Trach Đông toàn thâu Hoa Lục, từ năm 1950 trở đi, Việt Minh nhận rất nhiều quân viện từ Nga và Trung Cộng. Nhưng để dể hoạt động, Bắc Việt không bao giờ công bố chính xác số quân viện nhận từ các đồng minh cộng sản. Cũng như Trung Cộng có nhiều cố vấn trong quân đội Bắc Việt, nhưng họ không bao giờ công nhận điều này. Trái lại, CSBV lúc nào cũng giáo huấn cán bộ và binh sĩ của họ phải tự lực hơn là nhờ vào viện trợ nước ngoài. Dù nhờ vào số vũ khí tối tân và quan trọng để chiến thắng miền Nam, nhưng CSBV không bao giờ coi đó là một yếu tố quan trọng.
Về phía VNCH, chiến thuật và chiến lược của cuộc chiến lúc nào cũng nằm ở thế thụ động, phòng thủ. Vì mục đích của VNCH là chỉ ngăn chận chứ không bao giờ nghĩ chuyện tấn công ra miền Bắc. Hai lần trong cuộc chiến quân đội VNCH băng qua biên giới Lào và Cam Bốt để đánh vào căn cứ hậu cần của CSBV. Tuy nhiên những cuộc tấn công này vẫn có chủ đích phòng thủ và không bao giờ được hoạch định như một kế hoạch dài hạn. Mục đích chính của quân đội VNCH là bình định (có nghĩa là kiểm soát) dân số trong lãnh thổ. Từ nhiệm vụ chính đó, chiến lược quân sự của VNCH có hai mặt: một, bình định ở vùng đông dân cư; hai, truy lùng và triệt tiêu các đơn vị lớn của CS ở vùng thưa dân cư. Trong suốt cuộc chiến, chiến lược này bắt quân đội VNCH phải chạy theo sau đối phương vì CSBV lúc nào cũng nắm thế thượng phong về chiến thuật cũng như là vũ khí.
Nhiều người chưa thấu đáo về quân sự hỏi, tại sao chúng ta không đánh bại được cộng sản trong những năm đầu của cuộc chiến, khi quân ta đông hơn du kích quân cộng sản" Lý do chánh là chiến tranh du kích có qui tắc riêng và khác xa chiến tranh qui ước. Trong chiến tranh du kích, địch không có cơ sở hay căn cứ nằm lộ ra ngoài để họ cần bảo vệ. Du kích sống trà trộn với dân và ngay trong lãnh thổ của ta, hay ẩn núp ở mật khu của họ. Khi đông quân và ở thế thượng phong, họ tấn công. Ngược lại, họ lẫn trốn khi yếu thế. Sau mỗi trận đánh, cộng quân rút về mật khu để tái bổ sung, huấn luyện và trang bị. Chiến tranh với cộng sản ở Hy Lạp và Mã Lai Á hay Phi Luật Tân dễ hơn ở Việt Nam. Những quốc gia đó là những bán đảo, hay ở giữa biển, rất dể ngăn chận người và vật liệu xâm nhập từ ngoài vào. Nhưng VNCH có chung biên giới dài cả ngàn cây số với Bắc Việt, Lào và Cam Bốt. Biên giới dài vô tận đó, với núi đèo và rừng sâu tiện lợi cho việc thiết lập căn cứ, cộng sản ở miền nam dùng đó để tiếp nhận vũ khí, nhân sự từ quân đội chánh quy CSBV.
Chú Thích
1. Kết luận về đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ, dựa theo "Tài Liệu Ngũ Giác Đài" đăng trên báo The New York Times năm 1971. Về liên hệ giữa Hồ Chí Minh và toán OSS ở Côn Minh, thư từ của Hồ Chí Minh gởi cho Bộ Ngoại Giao và tổng thống Truman, xin đọc Why Vietnam: Prelude to America's Albatross của Archimedes L.A. Patti (Los Angeles: University of California Press, 1980), (chú thích của tác giả).
2. Sau Thế Chiến Thứ II, từ năm 1946 Stalin tuyên bố sẽ có kế hoạch nhuộm đỏ thế giới. Để ngăn chận sự bành trướng của cộng sản, Hoa Kỳ đề xướng chủ thuyết Ngăn Chận, hay Chận Đứng (Containment), và coi đó như một chủ thuyết ngoại giao quốc gia, dùng để giới hạn làn sóng cộng sản quốc tế. Chủ thuyết này đã giúp các quốc gia như Hy Lạp, Phi Luật Tân, Mã Lai Á hay Đại Hàn tồn tại trước những tấn công của cộng sản. Tuy nhiên vì địa lý thiên nhiên, tình hình chính trị và nhân văn quá đặc biệt của các quốc gia Đông Dương, nếu chủ thuyết Ngăn Chận được bổ túc bằng chiến lược cô lập (sẽ nói ở phần cuối cuốn sách) thành một chiến lược chính trị địa lý (geopolitics) thì cục diện chiến tranh có thể biến chuyển thuận lợi cho VNCH, Lào và Cam Bốt (chú thích của tác giả).
3. Trích trong bài diễn văn "The Nixon Doctrine: From Despair to New Opportunities" của tổng trưởng quốc phòng Melvin R. Laird.
Trong khi đó phía quân đội VNCH cần phải có lính để canh giữ đồn bót, cơ quan hành chánh; phải bảo vệ an ninh cho dân ở điạ phương, dù điạ phương đó ở gần hay xa thị tứ. Dĩ nhiên, lính lại cần nhiều hơn nữa cho các cuộc hành quân truy lùng và triệt tiêu. Theo những nghiên cứu của các chuyên gia về du kích chiến. Muốn thắng du kích quân, chúng ta cần có một lực lượng 10 trên 1; với lực lượng 5 trên 1, cuộc chiến sẽ bất phân thắng bại và kéo dài trong một thời gian vô định. Ngược lại, nếu lực lượng của chính phủ chỉ hơn du kích quân 2 đến 3 lần, thì du kích quân sẽ có cơ hội thắng. Tỉ lệ giữa lực lượng Đồng Minh và cộng sản trong cuộc chiến Việt Nam là 4.7 trên 1 khi Đồng Minh có 1 triệu 500 ngàn quân và cộng sản có 320 ngàn quân. Với tỉ lệ quân số này, chúng ta có khả năng đánh bật cộng sản ra ngoài lãnh thổ VNCH. Nhưng phải hiểu, ngoài những hỏa lực cơ hữu của các sư đoàn bộ binh Hoa Kỳ, quân đội Hoa Kỳ và VNCH còn được không trợ của Không và Hải Quân Hoa Kỳ yểm trợ tối đa khi cần.
Với những yểm trợ từ cộng sản quốc tế, chiến tranh ở Việt Nam không còn là một cuộc "nội chiến" như nhiều người đã lầm tưởng. Trong những giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến, quân đội CSBV được trang bị vũ khí tối tân nhất của khối cộng sản. Kế hoạch đánh chiếm miền Nam được CSBV soạn thảo và chỉ huy, và thể hiện qua con bài của họ là Mặt Trận Giải Phóng và Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời Nam Việt Nam.
Có nhiều đề nghị tại sao VNCH không dùng chiến thuật du kích để đánh lại cộng sản ngay trong vùng kiểm soát của họ, hay ngay ở miền Bắc. Những chiến thuật của du kích chiến chỉ có thể thực hiện được trên một tầm vóc nhỏ, giới hạn. Quân chúng ta không thể nào sống trong lòng địch và có được sự yểm trợ của dân địa phương. Khi chúng ta áp dụng chiến thuật du kích để đánh du kích, chúng ta có nhiều thất bại hơn thành công. Có một định lý về chế độ kiểm soát của cộng sản: khi một nhóm dân bị cộng sản ở địa phương đó kiểm soát trong một thời gian vài năm, nhóm dân ở đó sẽ bị kiểm soát chặt không thoát được những người chống đối sẽ bị cô lập; các lãnh tụ đối lập bị triệt tiêu hay vô hiệu hóa.
Việt Nam có được độc lập từ cuối năm 1954. Nhưng như một quốc gia, toàn dân Việt Nam chưa tiến đến một trình độ dân trí được coi như là khả quan. Nhiều người dân sống trong hoàn cảnh chiến tranh lâu đến độ họ không quan tâm đến chiến tranh nữa. Vì thế người dân cần được thúc đẩy, giáo dục và hướng dẫn. Nhưng dân chủ, một hình thức chánh phủ mới lạ với họ chưa chắc là một giải pháp tốt nhất.
Khi một quốc gia đang chiến đấu để sinh tồn và cùng lúc muốn bảo vệ những nguyên tắc dân chủ là một chuyện khó khăn. Có lúc, chính quyền VNCH không thể nào áp dụng những phương thức "trái dân chủ" để giải quyết những tệ trạng như đào ngũ, trốn lính, biểu tình, hay những phong trào phản động có khuynh hướng làm lợi cho địch. Chính phủ VNCH có nhiều khiếm khuyết trong việc ngăn chận những thành phần thân cộng đang sống một cách tự do để hoạt động cho phía họ. Nhiều thân nhân của các cán bộ cao cấp cộng sản vẫn được chính phủ VNCH cho phép sống một cách yên lành ở ngay trong vùng kiểm soát của quốc gia. Sau khi Saigon thất thủ, nhiều văn nghệ sĩ, quân nhân công chức ở lại đã được chánh quyền cộng sản thưởng cho nhiều vai trò trong cơ sở hành chánh của họ. Đối với tác giả, trong một hoàn cảnh chiến tranh, tất cả quyết định và kế hoạch đều phải hướng về chủ đích chiến đấu để chiến thắng. Mọi ưu tiên đều phải dành cho chiến tranh; tất cả các kế hoạch khác chỉ là phụ thuộc.
Nói một cách tổng quát, kế hoạch tổng động viên của VNCH chỉ đem lại được phân nửa số nhân lực quân đội cần thiết. Chính phủ đạt được những kết quả khiêm nhường trong kế hoạch ngăn ngừa nạn trốn lính, đào ngũ, để kiểm soát được nhân lực của quốc gia. Vì thiếu quân số thường xuyên, các đơn vị ít được cơ hội nghỉ dưỡng sức dài hạn và bồi dưởng. Trong khi đó điều kiện vật chất và đời sống của gia đình binh sĩ thường dưới mức trung bình. Chính phủ VNCH có nhiều khuyết điểm trong việc tuyển chọn, xử dụng nhân sự trong quân đội và hành chánh: sự bổ nhiệm và thăng thưởng không tùy thuộc vào đức hạnh, khả năng hay tài sức, mà tùy thuộc vào sự quen biết cá nhân, liên hệ gia đình hay giòng họ. Sự trừng phạt cũng chỉ lấy lệ, đôi khi không có, đối với những quân nhân công chức phạm pháp. Điều này thúc đẩy thêm nhiều sự phạm pháp trong nền hành chánh và trong quân đội.
Dù dân số Bắc Việt chỉ hơn miền Nam hai triệu người, chế độ quân dịch và hệ thống đôn quân của họ đưọc kiểm soát chặt chẽ và sâu rộng. Ngay cả các tù binh chiến tranh sau khi được phóng thích hay trao trả, CSBV tái huấn luyện và bổ sung trở lại đơn vị. Miền Bắc cũng có chương trình tổng động viên, nhưng hệ thống quân dịch của CSBV được kiểm soát rất nghiêm ngặt; nạn trốn lính được giảm thiểu tối đa. Cùng lúc, ở những vùng hẻo lánh ở miền Nam, cộng sản ép buộc, dụ dổ những vị thành niên ở lứa tuổi 15-17 gia nhập quân đội họ. Nói một cách tổng quát, Bắc Việt có ưu thế nhiều hơn VNCH với một hậu phương được kiểm soát kỹ dưới hệ thống độc đảng của một xã hội cộng sản.
Trong chiến tranh Đại Hàn, quân đội đồng minh của Liên Hiệp Quốc nằm dưới một bộ tư lệnh duy nhất do Hoa Kỳ chỉ huy. Ngay trong giai đoạn hiểm nghèo nhất của cuộc chiến, tổng thống Nam Hàn đã cho phép công dân Nam Hàn chiến đấu trong các đơn vị Hoa Kỳ. Ở Việt Nam, trong giai đoạn cao nhất của cuộc chiến, quân đội VNCH và Hoa Kỳ không bao giờ có một bộ chỉ huy chung. Đó là một lỗi lầm lớn nhất trong nguyên tắc chiến tranh: hai quân đội không có được một bộ tư lệnh chung để điều khiển tất cả các lực lượng đang có mặt ở chiến trường. Khi thay vào một bộ tư lệnh duy nhất bằng những kế hoạch như hợp tác và điều hành hỗn hợp, sự thành công ở chiến trường, nếu có, chỉ phụ thuộc vào các vị tư lệnh chiến trường cố gắng tránh đụng chạm nhau. Có nhiều sự đụng chạm giữa hai phía Việt Mỹ đã xảy ra trong chiến trường Việt Nam, tuy nhiên những xung đột này không quan trọng hay đưa đến một đổ vỡ nào. Nhưng khi không có một bộ tư lệnh chung, những quyết định quân sự không được thực hiện nhanh chóng, những tiềm năng quân sự, nhân lực, không được áp dụng đúng chổ.
Về chiến thuật, với phương tiện cơ hữu như thiết vận xa M-113 và trực thăng, quân đội có thể mở những cuộc hành quân lớn một cách chớp nhoáng, thay vì phải bỏ ra nhiều ngày di chuyển đến mục tiêu. Nếu cần phải đóng quân lại tại một mặt trận lâu ngày, các căn cứ hoả lực có thể được thiết lập ngay để có thể cung cấp hoả lực cho mặt trận nếu cần. Nhưng phải nhấn mạnh, trong cuộc chiến Việt Nam, các tư lệnh chiến trường phải thường trực thay đổi chiến thuật, vì địch rất nhạy bén trong vấn đề thích ứng với chiến thuật mới của đối phương ở chiến trường để tránh thiệt hại.
Về quân báo: quân đội VNCH đạt được nhiều thành công khả quan về cơ cấu tổ chức cũng như về kỹ thuật thu thập tin tức. Từ năm 1968 trở đi, tin tức tình báo chúng ta thâu thập được chính xác và cập nhật hoá hơn. Tương tự, ở ngành Tiếp Liệu, hệ thống phân phối quân dụng, vũ khí cho quân đội được tối tân hóa, để các đơn vị có thể nhận được nhu dụng cần thiết nhanh chóng theo sự đòi hỏi của họ.
Nhiệm vụ căn bản của Không Quân Việt Nam là yểm trợ không lực chiến thuật ngoài mặt trận và chuyên chở không vận. Không Quân có khả năng rất giới hạn trong nhiệm vụ phòng thủ không phận. Vào cuối năm 1974 khi CSBV trang bị thêm nhiều hoả tiễn và phòng không tối tân, khả năng yểm trợ của không quân ở chiến trường giới hạn và kém hữu hiệu. Hải Quân Việt Nam, với nhiệm vụ chính là ngăn chận sự xâm nhập của CSBV ở sông và miền duyên hải. Hải Quân Việt Nam không phải là một lực lượng đáng ngại so với các nước tân tiến khác. Vũ khí trang bị của Hải Quân Việt Nam tỏ ra khiếm khuyết so với Hải Quân Trung Cộng khi hai nước giao chiến ở quần đảo Hoàng Sa vào đầu năm 1974.
Nói một cách tổng quát về khả năng của quân lực VNCH: trừ những khiếm khuyết về quân số và sự quản trị nhân lực, khi được trang bị đầy đủ, quân đội VNCH có thừa khả năng hoàn tất nhiệm vụ, như họ đã chứng minh vào hai cuộc tấn công ồ ạt của cộng sản vào năm 1968 và 1972.
Cuộc chiến tranh CSBV đeo đuổi liên tục qua một thời gian dài ở Việt Nam không phải là một cuộc chiến thuần túy về quân sự. Đó là một cuộc chiến toàn diện với những mặt trận về chính trị, ngoại giao và kinh tế. Về phương diện chính trị, cộng sản đã khôn khéo, không những lấy được viện trợ của các nước cộng sản, mà họ còn được sự ủng hộ của các quốc gia nằm trong khối Bất Liên Hiệp. CSVN lấy lòng được cả hai đàn anh Trung Cộng và Nga Sô dù hai quốc gia này đang gây hấn nhau để nhận quân viện từ hai bên. Theo những tin tức từ giới ngoại giao, trong năm 1974, CSBV nhận gấp ba, bốn lần, số quân viện so với các năm trước.
Cộng sản biết rõ quân đội VNCH sẽ chiến đấu nếu họ được một số quân viện tối thiểu. Biết được điều đó, CSBV tìm mọi cách để ngăn chận Hoa Kỳ tiếp tục viện trợ cho VNCH. Đây là một đòn rất độc hiểm của cộng sản, vì quân viện là nền tảng của cuộc chiến này. CSBV dùng tất cả bộ máy truyên truyền trong và ngoài nước để làm lợi cho họ. Một mặt họ tuyên truyền cuộc xâm lăng của họ là đúng; và cuộc chiến tự vệ của VNCH là sai. Sự tuyên truyền gây một ngộ nhận cho dân chúng Hoa Kỳ nghĩ chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến vô nhân bản; chánh phủ VNCH là một chánh phủ thiếu khả năng, tham nhũng, không xứng đáng nhận viện trợ của Hoa Kỳ và thế giới tự do.(4)
Một số lớn báo chí Hoa Kỳ có khuynh hướng chống lại cuộc chiến ở Việt Nam, và họ không có thái độ nào để chống lại những tuyên truyền sai lạc của cộng sản. Thêm vào đó, với những nhóm phản chiến rầm rộ tuyên truyền tiếp tay, khiến tiếng nói trung thực của chúng ta bị chìm sâu trong những ồn ào phản chiến; lý tưởng của cuộc tranh đấu bị lãng quên hay bị bỏ rơi. Một trong những nhóm phản chiến này có tên là Trung Tâm Hoạt Kế Đông Dương. Theo lời tường trình của đại sứ Graham Martin, Trung Tâm này là nơi qui tụ nhiều thành phần như giáo sư, tu sĩ, các nhà truyền giáo... họ in và lưu hành nhiều bức thư "hoà bình," kêu gọi ngưng cuộc chiến và chấm dứt mọi quân viện cho miền Nam.
Tuyên truyền chống chiến tranh của cộng sản đã làm tâm lý quần chúng Hoa Kỳ nghĩ cuộc chiến ở Việt Nam là một cuộc phiêu lưu vô vọng; một cuộc chiến không lối thoát. Từ những thái độ đó, thanh niên, học sinh Mỹ đứng lên biểu tình chống chiến tranh. Bị những áp lực đến từ quần chúng, quốc hội Hoa Kỳ không còn cách nào khác hơn là đưa ra những quyết nghị giới hạn dần những hoạt động quân sự của chính phủ Hoa Kỳ ở Đông Dương, rồi sau đó là quyết định giảm thiểu viện trợ cho VNCH. Sau cuộc chiến tranh Việt Pháp, mọi người nói sự thất bại xảy ra ở Ba Lê. Tương tự, trong cuộc chiến này, sự thất trận bắt nguồn tự nội địa Hoa Kỳ.
Chúng ta không thể phủ nhận kẻ thù của chúng ta quyết tâm, kiên trì và nhiều kinh nghiệm trong cuộc chiến. Trong suốt cuộc chiến, CSBV có một đường lối, kế hoạch chính trị quân sự liên tục, không thay đổi. Mục tiêu cố định của họ là cưỡng chiếm miền Nam qua những giai đoạn chiến tranh nhân dân, hay chiến tranh giải phóng bằng biện pháp quân sự. CSBV có nhiều thay đổi, có nhiều quyết nghị về cuộc chiến, nhưng tựu trung thái độ và mục đích của họ vẫn là dùng biện pháp quân sự để giải quyết chiến tranh.
Chiến lược của chúng ta trong cuộc chiến không được liên tục. Sau khi Hiệp Định Ba Lê được ký, trong khi cộng sản vẫn tiếp tục chuẩn bị cho những cuộc tấn công sau cùng, VNCH quay sang lo cải tổ, sửa soạn chấn hưng nền kinh tế. Để thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, chúng ta đã rút bớt 100 ngàn quân, đưa vào các kế hoạch kinh tế và sản xuất. Khi nhận ra cộng sản vẫn tiếp tục vi phạm hiệp ước đình chiến, kế hoạch trên đã phải hủy bỏ: ta đã mất đi một thời gian qúy báu.
Cộng sản không bao giờ quan tâm về những thiệt hại, dù lớn đến đâu. Mọi kế hoạch quân sự, thắng hay thua, đều có ý nghĩa như nhau miễn sao đạt được mục đích chính trị. Hai thí dụ điển hình về sự bất chấp thiệt hại nhân sự để đạt được tiếng vang chính trị, là trận tấn công năm Mậu Thân 1968 và trận "Mùa Hè Đỏ Lửa" năm 1972. Tình hình chung của VNCH vào năm 1968 rất khả quan. Mọi kế hoạch bình định tiến triển vượt bực; tình hình quân sự chung trên chiến trường cho thấy cuộc chiến sắp đến giai đoạn kết thúc. Nói theo quan điểm người Mỹ lúc đó là, chúng ta đã "nhìn thấy ánh sáng ở cuối đường hầm." Nhưng ngay giai đoạn đó cộng sản bất thần mở ba cuộc tấn công tự sát vào thị trấn, quận lỵ quan trọng ở miền Nam. Mặc dù cộng sản bị thiệt hại khủng khiếp trong các cuộc tấn công đó, nhưng họ chứng tỏ cho thế giới và Hoa Kỳ biết là họ chưa thua hẳn, và có khả năng làm những chuyện không ai ngờ được. Dư luận ở Mỹ và thế giới sửng sốt vì cuộc tấn công liều mạng của cộng sản. Cũng có lẽ cuộc tấn công đó đưa đến sự nghi ngờ của dân chúng Hoa Kỳ về cuộc chiến ở Việt Nam, và khiến tổng thống Lyndon Johnson không muốn ra ứng cử thêm một nhiệm kỳ nữa.
Năm 1972, đối diện với cuộc hội đàm nửa kín nửa hở giữa Lê Đức Thọ và Kissinger về cuộc chiến Việt Nam. Khi biết Hoa Kỳ không nhượng bộ những đòi hỏi của họ, CSBV quyết định tràn qua vĩ tuyến 17 tấn công VNCH ở nhiều nơi. Một lần nữa CSBV hoàn toàn thảm bại: khi cuộc tấn công bị bẻ gẫy vào cuối năm 1972, trung bình một tiểu đoàn CSBV chỉ còn khoảng 100 người.(5)
Ngay trước thời điểm CSBV tấn công, tổng thống Nixon, đang phải đương đầu với nhiều khủng hoảng tại nội địa, nhất là khuynh hướng phản chiến ở quốc hội, đề nghị với Hà Nội là Hoa Kỳ sẽ rút hết quân khỏi miền Nam trong vòng 120 ngày sau khi hiệp định được ký kết, và sau khi Hà Nội trao trả hết tù binh Mỹ đang bị giam cầm ở miền Bắc. Tuy nhiên Hà Nội gạt bỏ đề nghị của Hoa Kỳ và tấn công như dự định.
Trong cuộc chiến Việt Nam, những yếu điểm và thất bại của cộng sản được họ che giấu rất kỹ, và đã không được chúng ta khai thác có kết quả. Quân đội của cộng sản thông thường được huấn luyện để tấn công những mục tiêu đã được tập trước. Họ rất lúng túng nếu phải đương đầu hay chiến đấu trước những tình thế, hoàn cảnh bất ngờ. Tuy nhiên sau khi thất bại, họ phải trả bằng những buổi học tập tự kiểm thảo. phải nói ý chí và sự kiên cường của họ đã được đền bù sau một trong thời gian dài.
Ngược lại, phía bên chúng ta không học kỷ bài học lịch sử. Chúng ta không biết lợi dụng những thành công và tiếp tục theo đuổi những thành công đó. Theo thiển ý của tác giả, với những thành quả quân sự quân đội VNCH có được sau năm 1968, lẽ ra chúng ta phải tiếp tục đánh tới tấp, phản công mạnh. Nếu làm như vậy, có lẽ cuộc chiến đã được giải quyết trong thời điểm đó. Mọi sự quan sát cho thấy sau cuộc tấn công tự sát vào năm Mậu Thân, tiềm năng của cộng sản đã kiệt quệ và phải cần gần bốn năm sau mới phục hồi lại khả năng chiến đấu. Theo một nguồn tin không chánh thức, Trung Ương Cục Miền Nam có lần bị trúng bom B-52, và hệ thống này bị tê liệt trong một giai đoạn. Rất tiếc chúng ta không khai thác thêm.
Ưu điểm và khuyết điểm; lợi thế và thất thế của hai bên CSBV và VNCH được tổng kết lại và kết quả là sự thất thủ của miền Nam. Chúng ta có thể học được bài học từ sự thất bại đó để có một chính sách đối ứng vối cộng sản trong tương lai. Nhưng đến một ngày nào đó thì đã qúa trễ. Thử thách của cộng sản lúc nào cũng hiện hữu trước chúng ta.
Chú Thích
4. Đối với một quốc gia đang phát triển, vấn đề đầu tư và viện trợ từ nước ngoài là một vấn đề quan trọng trong giai đoạn thành hình. Nhưng quốc gia nhận viện trợ không nhất thiết phải dùng tất cả ngân khoản vào mục đích tự lực, tự cường, trong một giai đoạn ngắn vì viện trợ lúc nào cũng đi kèm với những đòi hỏi về chính trị, dù đó là viện trợ quân sự hay kinh tế. Khi quốc gia đang nhận viện trợ bị tàn phá vì chiến tranh như trường hợp VNCH, quốc gia đó cần nhận được nhiều viện trợ trong một thời gian càng lâu càng tốt. Trong trường hợp đó, ngân khoản viện trợ phải được coi như một kế hoạch dài hạn: phải ước lượng thời gian nhận được viện trợ sẽ bao lâu, quốc gia cần những viện trợ gì và cần bao nhiêu hàng năm. Khi xếp đặt vấn đề viện trợ thành một mục tiêu dài hạng, chính phủ mới biết được kế hoạch thường niên, và sẽ phản ứng ra sao khi không còn nhận được viện trợ vì viện trợ sẽ chấm dứt một ngày nào đó. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào, viện trợ không thể bị cắt ngang một cách đột ngột, vì ảnh hưởng tâm lý và vật chất rất trầm trọng cho quốc gia đang nhận viện trợ. Một kế hoạch viện trợ lý tưởng là kế hoạch làm cho nước nhận viện trợ được tự túc, tự lực trong một thời gian ngắn nhất. Lãnh tụ của các quốc gia nhận viện trợ thường bị chỉ trích là tham nhũng và thiếu khả năng lãnh đạo. Một số lãnh tụ đáng bị chỉ trích và cần được thay thế bằng một người có khả năng hơn. Và nếu một quốc gia không có được một lãnh tụ có khả năng quản trị, thì quốc gia đó không xứng đáng nhận viện trợ: vì không có viện trợ nào dù lớn đến đâu có thể cứu vãn sự suy sụp, không sớm thì muộn, của quốc gia đó. (chú thích của tác giả).
5. Về tình hình quân sự bi đát và tinh thần sa sút của quân đội CSBV sau cuộc tấn công năm 1972, đọc, thượng tướng Nguyễn Hữu An, Chiến Trường Mới (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 2002), trang 164-189 (chú thích của dịch giả).
Lời Bạt
rong bản Việt ngữ này tác giả muốn nói đôi lời để giải thích thêm về một hai chú thích ở bản Anh ngữ. Tác giả muốn nói thêm về chú thích số 5 ở Chương 9, và phần nói về cơ cấu, nhiệm vụ của Bộ Tổng Tham Mưu. Tác giả viết rất ngắn ở bản Anh ngữ vì tác giả không muốn nói nhiều về mình. Nhưng sau này, có nhiều sách vở đã tường thuật lại các sự việc không chính xác nên tác giả thấy cần có những chú thích bổ túc.
Trong những năm 1970 và 1971, tác giả đã đệ đơn xin tổng thống Thiệu cho về hưu ít nhất là 3 lần. Lý do là vì tác giả đã ở chức vụ tổng tham mưu trưởng quá lâu (trên 5 năm), đã đủ thâm niên quân vụ cùng sức khoẻ kém (có kèm theo giấy bác sĩ chứng nhận). Lý do tác giả hành động như vậy vì vào khoảng giữa năm 1970, sau một buổi họp với đại tướng Creighton Abrams (tư lệnh MACV) ông ta cho biết, theo tin tòa đại sứ Hoa Kỳ, tổng thống Thiệu có ý định cho trung tướng Đỗ Cao Trí thay thế tác giả. Chờ đợi mãi không thấy lệnh thay thế, tác giả cảm thấy mình không còn được "sủng ái" nên đã xin về hưu.
Trong thời điểm đó, các đối lập chính trị và tay chân thân tín của họ bị loại hay vô hiệu hóa. Với đa số dân biểu, nghị sĩ thân chánh quyền trong quốc hội cùng sự thành lập đảng Dân Chủ, ông Thiệu ở vào thế mạnh. Ngoài ra một số phụ tá trẻ của ông nêu ý kiến nên thay thế các phần tử mà họ cho là già nua và quan liêu. Họ thường nói, muốn có một căn nhà tốt cần thay thế các viên gạch cũ hay các bộ phận vô dụng, và nếu cần, hủy bỏ luôn căn nhà cũ.
Nhưng tại sao ông Thiệu không thay tác giả như đã có ý định. Có thể ông Thiệu nghĩ rằng tác giả không có tham vọng chính trị, và trong quá khứ không phản ông Diệm nên cố giữ lại để có sự ổn định trong quân đội. Nhưng những gì tác giả nghĩ chỉ là giả thuyết mà thôi. Ở vào thế tiến thoái lưỡng nan, ở vào một hoàn cảnh mập mờ, tác giả không thể nào hăng say phục vụ như trước nữa. Nhưng vì lương tâm nghề nghiệp, tác giả vẫn làm việc như thường, chờ ngày thay thế.
Khi Hiệp Định Ba Lê 1973 được ký kết, quốc sách "Bốn Không" ra đời, lúc mà tất cả hoạt động quân sự có ảnh hưởng đến chính trị, thì các buổi họp bất thường hay hàng tháng với các tư lệnh Quân Đoàn, Quân Khu, cùng các tư lệnh Binh Chủng như Không Quân và Hải Quân... được diễn ra trong dinh Độc Lập, thay vì ở Bộ Tổng Tham Mưu như thường lệ. Buổi họp được đặt dưới quyền chủ tọa của tổng thống Thiệu như là Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ đó tổng thống Thiệu hoàn toàn lấy mọi quyết định, và ra lệnh thẳng cho các nơi. Như vậy, tổng thống Thiệu đã đạt được thế thượng phong tuyệt đối, tập trung mọi quyền hành pháp, lập pháp và quân đội vào một mối duy nhất.
Sau cuộc rút lui thất bại ở quân đoàn II và quân đoàn I, và khi tình hình quân sự trở nên bi đát, tác giả có xin bác sĩ Phạm Hà Thanh (Cục Trưởng Cục Quân Y) thuốc độc (loại Cyanid), vì biết chắc chắn nếu bị bắt sẽ bị cộng sản hành hạ một cách tàn bạo. Bác sĩ Thanh sau khi đi cải tạo về, hiện nay vẫn còn sống ở ngoại ô Saigon.
Tình hình quân sự và chính trị trước và sau ngày tổng thống Thiệu từ chức (21-4-1975) đã được nói đến trong sách rồi, không cần nhắc lại ở đây. Tối Chủ Nhật 27 tháng 4, sau khi quốc hội biểu quyết trao quyền lại cho ông Dương Văn Minh, vì thời gian quá gấp rút, theo hệ thống quân giai, tác giả trình miệng với trung tướng Trần Văn Đôn, đang là tổng trưởng Quốc Phòng trong nội các của thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn, trình lên tổng thống Trần Văn Hương nguyện vọng được về hưu của tác giả đã xin từ năm năm về trước. Tổng thống Hương biết rõ chuyện này nên đã ký sắc lệnh cho tác giả về hưu. Ông Nguyễn Thạch Vân, phụ tá tổng thống, hiện đang sống bên Pháp, biết rõ chuyện này.
Tác giả không hợp tác với tướng Minh vì ông ta có ý định giết tác giả trong cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11, 1963. Tác giả cũng không thể phục vụ cho một chính phủ liên hiệp, và lý do quyết định nhất, là đã ở chức vụ này quá lâu (gần 10 năm), sức khỏe kém và đã xin về hưu 3 lần rồi. Khi biết đã được phép giải ngũ, tác giả liên lạc với Phòng Tùy Viên Quân Sự Hoa Kỳ (DAO) để xin di tản ra Đệ Thất Hạm Đội. Khi rời Việt Nam, tác giả mặc thường phục vì đã về hưu, không chào quân cảnh gác cơ sở, không ai mở cửa thang máy cho tác giả vì trực thăng đậu trên mặt đất trong sân của DAO, và cũng không vui mừng như một đứa con nít như có kẻ ác ý xuyên tạc.
Tiện đây, có mấy việc cũ cần được nêu lên cho chính xác:
Trưa ngày 1 tháng 11, 1963, khi trình diện BTTM để nhận lệnh hành quân (lúc đó tác giả là đại tá, tư lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù) tác giả được đưa lên gặp tướng Dương Văn Minh thay vì tướng Trần Thiện Khiêm (Tham Mưu Trưởng Liên Quân) như thường lệ.
Tướng Minh hỏi: "Tụi moi đảo chánh, toa nghĩ sao""
Tác giả trả lời: "Đảo chánh là một quốc gia đại sự, sao tới giờ phút này trung tướng mới cho tôi hay"
Đó là nguyên văn câu hỏi và câu trả lời, không hơn không kém. Trong khi đó, một sĩ quan tùy viên của tướng Minh chĩa súng Carbine vào lưng tác giả. Vài phút sau, đại tá Đỗ Mậu (Giám Đốc An Ninh Quân Đội) kêu tác giả lên đài phát thanh tuyên bố theo phe đảo chánh. Tác giả trả lời là không có gì để tuyên bố cả. Tác giả bị giam giữ tại BTTM và chỉ thoát chết trong đường tơ kẻ tóc nhờ cảm tình của một số tướng tá (theo phe đảo chánh) và sự can thiệp của vợ mình.
Sáng ngày 2 tháng 11, 1963, tác giả được trả tự do ra về. Vợ tác giả thuật lại: sau khi cuộc đảo chánh bùng nổ, tổng thống Diệm điện thoại hỏi tác giả ở đâu. Sau khi biết tác giả lên BTTM họp và có lẽ bị giam giữ ở đó, tổng thống Diệm dặn người nhà liên lạc với tác giả và nói tác giả điện thoại thẳng cho ông. Chừng một tiếng sau, tổng thống Diệm điện thoại một lần nữa. Khi được biết không còn hy vọng, tổng thống Diệm không nói gì thêm và cũng không khi nào ngỏ ý đến nhà tác giả. Ngoài ra cũng không ai mời tổng thống Diệm đến nhà tác giả như tin đồn.
Về cơ cấu và nhiệm vụ của Bộ Tổng Tham Mưu và vai trò của tác giả.
Nhiệm vụ của BTTM được ấn định bởi sắc lệnh của tổng thống ký vào tháng 7, năm 1970, với chi tiết đã được tóm tắt ở phụ bản A. Tuy nhiên trên thực tế, vai trò của BTTM thăng trầm qua những thời kỳ sau đây.
1965-1967: Tổng Tham Mưu Trưởng (TTMT) là thành viên trong Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia (UBLĐQG 1965-1967) nên về phương diện thuần túy quân sự giới chức này chỉ tham khảo ý kiến cuả hai vị Chủ Tịch (Hành Pháp và Lãnh Đạo) khi cần thiết. Trong thời gian này, gần một năm, TTMT cũng kiêm nhiệm luôn chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng. Lúc đó, nhận thấy Việt Nam chưa có một chiến lược hữu hiệu nào, tác giả có đề ra "Chiến Lược Cô Lập" (Phụ Bản C).
Vào cuối năm 1967 khi tướng Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu đắc cử trong cuộc bầu cử tổng thống, BTTM trở về vai trò cũ, tác giả chỉ giữ chức vụ TTMT, còn chức tổng trưởng quốc phòng thì trao cho người khác.
Tuy vậy, trong cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa của cộng sản vào năm 1968, trước một tình hình nguy hiểm cho sự sống còn của đất nước, tác giả đã tự lấy quyết định cần thiết để lật lại thế cờ. Cộng sản phân tán lực lượng, đánh vào trung tâm điểm các tổ chức hành chánh và quân sự của ta. Ngay tại Saigon-Chợ Lớn, các cơ quan đầu não của chính phủ đều bị đánh phá hay chiếm giữ. Tuy nhiên, nếu một người bị chém đầu thì không thể nào sống, nhưng chỉ bị thương ở tay chân thì còn cứu chữa được. Dựa theo lý do đơn giản đó, tác giả thấy Saigon-Chợ Lớn cần phải được giải tỏa trước nhất.
Trước Tết Mậu Thân, các đơn vị Nhảy Dù, TQLC và một số đơn vị Biệt Động Quân được tăng phái cho các quân khu /quân đoàn. Tại thủ đô chỉ còn lại một tiểu đoàn Nhảy Dù duy nhất. Nửa đêm về sáng, khi phi trường Tân Sơn Nhất bị tấn công, ba đại đội Nhảy Dù được dùng để tăng cường phòng thủ phi trường. Trong thời gian đó, trường Anh Ngữ Quân Đội và đại đội Tổng Hành Dinh thuộc BTTM bị một toán đặc công đánh chiếm và cố thủ. Thấy tấm bảng đại đội "Tổng Hành Dinh," địch tưởng đã chiếm được tổng hành dinh (tức là BTTM) của chúng ta nên không di chuyển ra chiếm tòa nhà chánh nơi đó mới là tổng hành dinh BTTM, với văn phòng Tổng Tham Mưu, Tham Mưu Liên Quân, cùng với trung tâm truyền tin, phòng mật mã và máy móc siêu tần số quan trọng. Nơi này chỉ cách chỗ cộng sản chiếm giữ chừng 300 thước. Đại đội Nhảy Dù còn lại được điều động qua BTTM để tiêu diệt toán đặc công ở đó.
Trước một tình thế mong manh và nguy hiểm như vậy, tác giả lấy quyết định rút hết các đơn vị đang tăng phái ở các quân đoàn bằng cầu không cận và trực thăng. Ngoài phi trường Tân Sơn Nhất, tất cả các sân vận động, sân đá banh và trường đua Phú Thọ trong đô thành được xử dụng như bãi đáp trực thăng. Khi tập trung được quân số ước lượng chừng 20 tiểu đoàn, tác giả đích thân chỉ huy cuộc hành quân Trần Hưng Đạo, đánh bật cộng quân ra khỏi ngoại ô Saigon. Các lực lượng Cảnh Sát, Địa Phương Quân và Nghĩa Quân được sát nhập để tham gia cuộc hành quân này. Cuộc hành quân cũng có sự hợp tác chặt chẽ của các đơn vị Hoa Kỳ và đồng minh có mặt chung quanh thủ đô. Sau khi cộng sản bị đánh bật ra khỏi thủ đô, quyền chỉ huy lại được trả về cho tư lệnh quân đoàn /quân khu III.
Một điểm đặc biệt là các quân nhân thuộc các bộ tham mưu, các nha sở, các kho xăng hay các cơ xưởng quân đội đều được đoàn ngũ hóa thành các đơn vị chiến đấu (chỉ để lại số quân tối thiểu điều hành cơ cấu) để hành quân các vùng lân cận. Vì số sĩ quan ở các bộ tham mưu đông nên ngưòi ta thấy sĩ quan cấp thiếu úy, trung úy giữ vai trò khinh binh và sĩ quan cấp trung tá chỉ huy đại đội.
Khi giải tỏa xong thủ đô, các đơn vị tổng trừ bị và Biệt Động Quân lại được tăng phái trở lại các quân khu /quân đoàn.
Năm 1971-1972: Hai năm 71-72 là khúc quanh quan trọng trong đời sống quân ngũ của tác giả. Như đã nói phần trước, tác giả đã xin tổng thống Thiệu về hưu ba lần nhưng không được nên phải làm việc như thường tuy kém phần hăng say như năm năm về trước. Vai trò của BTTM vẫn không thay đổi trong thời gian này.
Cuối năm 1971 là năm bầu cử tổng thống. Lần này tổng thống Thiệu ra ứng cử với ông Trần Văn Hương. Các liên danh khác bị loại ra vì không đủ điều kiện ấn định bởi luật bầu cử, nên báo chí rêu rao đây là màn "độc diễn" của tổng thống Thiệu.
Trước ngày bầu cử, sau một buổi họp quân sự với các tư lệnh quân đoàn, tư lệnh các quân chủng Không và Hải Quân, TTMT, và tổng trưởng quốc phòng Nguyễn Văn Vỹ, tổng thống Thiệu hỏi các tướng lãnh về cuộc bầu cử sắp tới. Các tướng lãnh có mặt đều nhiệt liệt ủng hộ liên danh Thiệu-Hương. Khi được hỏi, tác giả trả lời là tổng thống đã có quyết định, nên không có ý kiến gì thêm.
Khi cộng sản mở cuộc tấn công công khai miền Nam qua khu phi quân sự trong năm 1972, cuộc tấn công mà báo chí mệnh danh là "Mùa Hè Đỏ Lửa." Với sự hỗ trợ hùng hậu của Hoa Kỳ như pháo đài bay B-52 và tất cả các loại phi cơ không lực và Hải lực Hoa Kỳ, quân lực VNCH đã anh dũng chiến đấu, bẻ gẫy cuộc tổng tấn công cuả cộng sản, đặc biệt là tại Quảng Trị, Kontum và An Lộc. Lần này BTTM di chuyển nguyên sư đoàn 21 bộ binh từ quân đoàn IV lên quân đoàn III để giải tỏa An Lộc.
Nói về mình là điều đáng ghét. Nhưng tác giả phải nói lên các sự kiện trên để đả phá các luận điệu cho tác giả thiếu sáng kiến và chỉ biết gật đầu.
Năm 1973-1975: Khi Hiệp Định Ba Lê được ký kết và quốc sách "Bốn Không" ra đời, và khi tổng thống Thiệu thực sự là Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Lực VNCH, thì BTTM trở thành Bộ Tham Mưu của Tổng Thống. Ông Thiệu ra lệnh thẳng cho các tư lệnh quân đoàn, Không Quân và Hải Quân, và liên lạc thẳng với Tham Mưu Trưởng liên Quân BTTM. Hoa Kỳ biết chuyện này nên trưởng phái đoàn Hoa Kỳ, tướng Weyand, khuyến cáo chánh phủ nên dành nhiều quyền hành cho BTTM hơn.
Tóm lại, dù ở thời kỳ nào, BTTM vẫn làm đầy đủ vai trò của nó nhất là trong những năm 1968 và năm 1972. Khi có Hiệp Định Ba Lê, BTTM cho thi hành hữu hiệu kế hoạch Trần Hưng Đạo II để phá vỡ mưu mô "lấn đất giành dân" của cộng sản. Các công tác khác được thực hiện sau đó đã tóm tắt trong Chương 4 (Các Khó Khăn và Đường Lối 1973-1974). Tuy BTTM không to lớn hơn bộ tư lệnh MACV của Hoa Kỳ, nhưng có nhân viên tham mưu đủ khả năng và kinh nghiệm. BTTM là một tổ chức có thể nghiên cứu, thiết kế, phối hợp và kiểm soát tất cả vấn đề quân sự, như kế hoạch Trần Hưng Đạo I và II đã nói trên. Trung tâm hành quân BTTM được thiết trí đầy đủ các dụng cụ thu thập, tồn trữ và trình bày trên màn ảnh lớn tất cả các chi tiết cần thiết để cấp chỉ huy có thể lấy quyết định một cách chính xác. Cả Phòng 3 và trung tâm hành quân liên tục theo dõi chặt chẻ tình hình quân sự trên toàn quốc và sẵn sàng cung cấp hay thuyết trình các tin tức quân sự khi cấp trên đòi hỏi.
Hai thí dụ điển hình:
1. Quân Đoàn I không báo cáo cho BTTM về việc sư đoàn 1 BB rút ra khỏi Huế về phiá nam. Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, trưởng Phòng 3/ BTTM biết được việc này qua một giới chức khác. Ngay sau đó, trong một buổi họp tại Dinh Độc Lập, tác giả trình cho tổng thống Thiệu biết việc trên. Tác giả Nguyễn Tấn Hưng, trong sách của ông, nói BTTM không biết việc này là hoàn toàn sai.
2. Việc các tướng lãnh thuộc Quân Đoàn I đã rút trên chiến hạm HQ-4 cũng không được báo cáo về BTTM. Qua hệ thống truyền tin của Hải Quân và Bộ Tư Lệnh Hạm Đội, tướng Thọ khám phá ra việc này.
Vì là cơ quan đầu não của quân lực VNCH nên BTTM lúc nào cũng có toán trực làm việc 24 trên 24 giờ. Trong những năm 1968, 1972, 1974 và 1975, khi tình hình quân sự khẩn trương, toàn thể BTTM đều "cấm trại," nghĩa là toàn thể nhân viên phải làm việc và ăn ngủ trong doanh trại. Cho nên khi có người viết là một viên chức nào đó gọi điện thoại vào BTTM lúc 4 giờ rưỡi chiều mà không có ai trả lời, là hoàn toàn bịa đặt. Mới đây, trong dịp gặp lại trung tướng Ngô Quang Trưởng, tác giả có hỏi ông là, có phải trong những tháng 3, 4, năm 1975, có lúc ông muốn trình việc với tác giả và phải chờ đến một hai tiếng đồng hồ hay không. Tướng Trưởng trả lời là đâu bao giờ có việc đó. Dù trung tướng Trưởng không nói chuyện được với tác giả, ông vẫn có thể liên lạc được với trung tướng Tham Mưu Trưởng Liên Quân, các trưởng phòng BTTM, hay trình thẳng với tổng thống Thiệu. Dựa vào những sự kiện đã nói trên, ta thấy tác giả Nguyễn Tiến Hưng trong tác phẩm The Palace File, đã xuyên tạc là BTTM không làm tròn nhiệm vụ, và tác giả chỉ là một tướng tầm thường, thiếu khả năng và thiếu sáng kiến. Tác giả hoàn toàn bác bỏ những lời chỉ trích và xuyên tạc trong quyển sách nói trên.
Những lý do ông Hưng nêu ra có khi mâu thuẫn với nhau, nhỏ mọn, toàn là khẳng định không có chứng minh, hay chỉ dựa theo lý thuyết nên không thực tế. Có đoạn ông ta chê BTTM có một tổ chức tiếp vận yếu; ở đoạn khác ông khen tướng Đồng Văn Khuyên rất rành rẽ về tiếp vận, tuy biết rằng chính tướng Khuyên là Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. Ngoài ra trong suốt cuộc chiến, các đơn vị chiến đấu của ta không khi nào thiếu đạn dược, nhiên liệu và lương thực. Khi viện trợ bị cắt giảm, mức độ tiếp tế có thể bị bớt đi nhưng không khi nào bị gián đoạn. Tác giả không tin một đơn vị Hải Quân thiếu ăn phải nhắm mắt cho binh sĩ dưới quyền đi bắt bò của dân. Nếu đúng như vậy, chỉ huy trưởng của đơn vị đó và thuộc hạ phải bị trừng phạt và có thể bị truy tố ra Toà Án Quân Sự. Ngoài ra quân lực VNCH có kho đạn, kho lương thực riêng... và khi đi hành quân các đơn vị ta không tùy thuộc vào hệ thống tiếp tế của đơn vị Mỹ.
Ông Hưng là người tỏ ra rất hiểu biết về quân đội, nhưng lại chỉ trích cách dùng danh từ "bạn và địch," và cho rằng ta không có tinh thần độc lập và còn lệ thuộc Mỹ. Đây là một lối suy luận lạ kỳ, vì có thể nói tất cả quân đội trên thế giới đều dùng danh từ "ta" hay "bạn" "địch" hay "thù" để phân biệt hai phe đương đầu với nhau.
Trong các buổi họp quân sự với tổng thống Thiệu, tác giả không thấy ông Hưng. Chỉ sau này, khi phái đoàn tướng Weyand đến Saigon và họp trong Dinh Độc Lập mới thấy ông ta tham dự. Nhưng trong sách, khi nào có nói đến các buổi họp, ông ta đều chỉ trích. Như vậy chứng tỏ có người đã "mớm lời" cho ông ta. Phần đông các chỉ trích đều dựa trên nhận định sai lầm hay dựa trên lý thuyết không có chứng minh. Ông ta luôn luôn nói đến nghiên cứu, thiết kế, phối hợp, hay theo dõi một cách tổng quát rồi khẳng định là không ai làm đúng như vậy. Nhưng sự thật là, khi lấy một quyết định gì, hay đề ra một kế hoạch gì thì đã phải đi qua các giai đoạn lý thuyết nói trên. Ngoài ra ông Hưng lầm lẫn giữa thiết kế và phản ứng. Thí Dụ: Từ đầu, quân đoàn/quân khu I đệ trình hai kế hoạch dự trù cho cuộc triệt thoái các đơn vị trực thuộc. Khi tình hình diễn biến, chỉ còn kế hoạch số 2 là có cơ áp dụng được (rút lui vào ba cứ điểm Đà Nẵng, Huế và Chu Lai và sau cùng vào cứ điểm Đà Nẵng). Một khi đã rút lui vào cứ điểm Đà Nẵng rồi, thì chúng ta chỉ có hai hành động mà thôi: Cố thủ tại chỗ hay triệt thoái bằng đường biển nếu tình hình bắt buộc. Nhưng trong sách ông Hưng vẫn chỉ trích là không có kế hoạch dự phòng. Lúc đó không còn kế hoạch gì nữa; mọi việc đã rõ ràng: Cố thủ hay rút lui.
Trong quân sự, có một nguyên tắc phải được tôn trọng, là khi cấp chỉ huy đã lấy quyết định và ra lệnh thì cấp dưới phải thi hành. Khi thi hành, có chuyện gì khó khăn hay trở ngại không thi hành được, cấp dưới phải trình thẳng cho cấp chỉ huy cao cấp (đã ra lệnh), và chỉ cần thông báo cấp chỉ huy trung gian, nếu có. Làm như vậy, cấp trên biết rõ biến chyển của tình hình và nếu cần muốn biết thêm chi tiết thì đã có người sẳn sàng trả lời. Cấp chỉ huy trung gian không xen vào vì vô tình có thể làm hư kế hoạch sơ khởi do cấp chỉ huy cao cấp đề ra. Đó là trường hợp đã xảy ra trong thời gian triệt thoái của Quân Đoàn I và II. Ông Hưng dựa vào các việc đó để cho rằng tác giả trốn tránh trách nhiệm.
Ông Hưng còn dùng những lý do thiển cận và kỳ thị tôn giáo khi nói tác giả trốn nhiệm vụ khi thiền định theo Phật giáo. Ai cũng biết thiền định đem lại thêm phong phú cho đời sống tâm linh và việc đó không ảnh hưởng hay đụng chạm gì đến công vụ của tác giả. Các buổi thiền định được thực hiện ngoài giờ làm việc vào lúc đêm khuya hay sáng sớm trong phòng ngủ, không phải trong một cái tháp như ông nói. Ngoài ra, muốn trốn tránh nhiệm vụ thì thiếu gì phương cách đâu cần phải nói vì bận thiền.
Ngoài các chỉ trích trên, ông Hưng còn hâm nóng rượu cũ rồi đựng trong bầu mới bằng cách nêu lên những vấn đề đã được đề cập đến hay giải quyết từ trước. Ông Hưng đề nghị với Hoa Kỳ tăng cường cho quân đội VNCH 2 sư đoàn tổng trừ bị. Ông đâu biết việc đó đã được BTTM lưu tâm đến từ lâu. Vì giới hạn viện trợ và nhân lực, BTTM chỉ thành lập được 1 chiến đoàn Nhảy Dù, 1 chiến đoàn TQLC và hai liên đoàn BĐQ (có nói đến ở Chương 4, tiểu mục, Tổ Chức Quân Lực VNCH). Trước kia, tổng thống Diệm đã xin Mỹ viện trợ lập nhà máy đúc súng và làm đạn nhưng không được chấp thuận. Những năm sau cùng mà còn đề nghị đến những chuyện đó thì thật là viển vông. Cũng trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa, các đơn vị Địa Phương Quân và Dân Vệ được đặt dưới quyền kiểm soát của bộ Nội Vụ. Chỉ sau này, các lực lượng đó mới được đặt dưới quyền chỉ huy của quân đội. Hai tổ chức này thật ra cần thiết vì sắc thái chiến tranh Việt Nam: Ta phải đương đầu không những với quân chánh quy CSBV mà cả bộ đội địa phương, du kích và cán bộ nằm vùng cộng sản nữa.
Ông Hưng nói các sĩ quan VNCH chỉ biết xử dụng trực thăng hay gọi pháo binh và không quân yểm trợ khi đi hành quân với quân đội Mỹ là sai. Các sĩ quan ta được huấn luyện đầy đủ trước khi giao trách nhiệm chỉ huy các đơn vị chiến đấu từ cấp lớn đến cấp nhỏ, chứ không phải khi hành quân với Mỹ mới biết. Sau này khi thiết quân vận hay trực thăng được đem xử dụng ở chiến trường Việt Nam, sĩ quan đều theo học những lớp hướng dẫn về đặc tính và cách xử dụng các vũ khí mới đó. Vấn đề cấp vũ khí tối tân cho các đơn vị ta chỉ được thực hiện khi cộng sản đã dùng những vũ khí mới hơn. Điều này đã được đề cập đến trong quyển sách. Nhưng khi nói rằng chương trình "Việt Nam-Hóa chiến tranh" được thi hành một cách quá hấp tấp là nguyên do chánh thì không hoàn toàn đúng. Hoa Kỳ áp dụng chính sách "gradual response", tạm dịch là trả đũa hay phản ứng dần dần, từng độ một. Thí dụ hỏa tiễn TOW được đưa vào chiến trường Việt Nam khi súng chống chiến xa loại nhỏ như LAW không còn hữu hiệu. Còn súng trường M-16 đã được cấp phát cho các đơn vị Nhảy Dù và TQLC vào khoảng năm 1963. Lúc đó lữ đoàn Nhảy Dù được ủy nhiệm trắc nghiệm khả năng của súng AR-15 mới do hãng Colts chế. Sau này súng đó được đổi tên là M-16. M-16 tỏ ra rất thích hợp cho binh sĩ và chiến trường Việt Nam vì súng nhẹ, không quá dài, dễ bảo trì, đạn có sức công phá cao. Với đường kính là 5.56mm, đạn nhỏ và nhẹ nên mang được nhiều khi đi hành quân. Sợ loại súng tốt này có thể lọt vào tay địch, nên Hoa Kỳ chỉ cấp phát hạn chế. Sau tết Mậu Thân 1968 súng M-16 được phát cho các đơn vị khác.
Tác giả có một điểm nhỏ cần nêu ra vì ông Hưng đã đề cập tới: Ngày thường, khi di chuyển trong thành phố, tác giả dùng xe du lịch chức vụ (dùng cho BTTM), xe không gắn bảng sao, không có xe Jeep quân cảnh mở đường và hộ tống. Ghế trước chỉ có tài xế và sĩ quan tùy viên. Nói rằng có hai xe Jeep đi theo, và tác giả cho xe đậu dưới mấy cây me cao trước cổng Dinh Độc Lập là sai.
Sau cùng, nếu những gì ông Hưng biên trong cuốn sách đều đúng hết, thì phải đặt câu hỏi:
1. Giới chức nào cho tác giả lên cấp bực đại tướng và cho giữ chức vị Tổng Tham Mưu Trưởng" Không còn ai tài giỏi hơn nữa sao"
2. Tại sao không thay thế tác giả và sắp xếp lại Bộ Tổng Tham Mưu, nhứt là tác giả đã xin về hưu ba lần trong năm 1970-71" Giới chức nào trách nhiệm"
Có thể tin được những gì ông Hưng viết và nhớ trong sách hay không" Do một sự tình cờ, một nguồn tin cho hay ông Hưng không có tuyên thệ nhập đảng Dân Chủ. Như vậy ông Hưng đã không nói sự thật về một vấn đề liên quan mật thiết với ông ta.
Tóm lại, một vài phần trong cuốn The Palace File ở những phần viết về Quân Lực VNCH; Bộ Tổng Tham Mưu; và về cá nhân tác giả chỉ là những tiểu thuyết có luận đề, và chỉ có giá trị như những tiểu thuyết không hơn không kém.
Trong quyển sách, ông Hưng muốn chứng minh mình văn võ (cả chánh trị nữa) toàn tài và đã nêu ra nhiều kế hoạch vĩ đại. Nhưng ông vẫn chẳng cứu nổi con thuyền Việt Nam qua cơn bão tố quá ác nghiệt: Ông như con ruồi trong bài ngụ ngôn Pháp, "Con Ruồi và Cỗ Xe Ngựa" của La Fontaine.
PHỤ BẢN A:
Vai Trò Cùa Bộ Tổng Tham Mưu.
Một điều đáng ngạc nhiên về vai trò của Bộ Tổng Tham Mưu (BTTM) một Bộ Tư Lệnh của ba quân chủng to lớn là BTTM không có thẩm quyền gì cuộc chiến mà Bộ Tư Lệnh này được lập ra để điều khiển. Dựa theo hiến pháp và trên thực tế tổng thống là tư lệnh tối cao của quân đội. Trong vai trò đó, tổng thống quyết định tất cả các kế hoạch liên hệ đến cuộc chiến. Trong những vấn đề về an ninh và quốc phòng, tổng thống có được cố vấn của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia. Hội viên của Hội Đồng gồm Phó Tổng Thống, Thủ Tướng, Tổng Trưởng Quốc Phòng, và Tổng Tham Mưu Trưởng. Về vấn đề bình định và phát triển, một Hội Đồng Bình Định và Phát Triển Trung Ương được thành lập để giúp tổng thống phát họa kế hoạch và đường lối. Với tư cách là tổng tham mưu trưởng, tác giả là hội viên của hội đồng đó. Như vậy, về phương diện đường lối quốc gia, vai trò của người tổng tham mưu trưởng chỉ là vai trò cố vấn.
Cơ cấu quốc phòng được cải tổ theo một sắc luật ban hành vào tháng 7, 1970; vai trò và trách nhiệm của BTTM cũng được qui định trong sắc luật đó. BTTM được định nghĩa là một ban tham mưu của liên quân chủng, tạm thời có cơ cấu giống như một bộ tư lệnh Lục Quân. Không Quân và Hải Quân có bộ tổng tham mưu riêng của quân chủng đó, trong khi Lục Quân không có bộ tổng tham mưu riêng vì BTTM liên quân đã đảm trách luôn vai trò đó. Như vậy,trên thực tế cũng như trong bản chất, BTTM là một bộ tham mưu của Lục Quân với thẩm quyền trên hai quân chủng kia. Tổng Tham Mưu trưởng BTTM lúc nào cũng là một sĩ quan Lục Quân, chịu trách nhiệm trực tiếp với tổng trưởng quốc phòng về vấn đề huấn luyện, tổ chức và xử dụng quân đội trong đường hướng do tổng thống định liệu. Nhiệm vụ của BTTM bao gồm:
Tổ chức và bành trướng quân lực. Xử dụng quân đội để bảo vệ quốc gia và bình định lãnh thổ.
Thu thập, khai thác tinh tức tình báo, phản gián, có tình chất chiến lược và chiến thuật.
Phát triển, bổ dụng, bảo trì và quản trị quân đội.
Thiết lập cấp số quân đội và nhân viên dân sự cần thiết cho BTTM.
Thiết lập kế hoạch tiếp vận, theo dõi và cung cấp vũ khí và quân nhu dụng cho quân đội.
Huấn luyện binh sĩ, nâng cao tinh thần và đời sống vật chất cho quân nhân các cấp.
Nghiên cứu và phát triển khả năng tác chiến. Khi được chỉ định, soạn thảo kế hoạch hành quân hỗn hợp với các quốc gia đồng minh đang chiến đấu tại Việt Nam.
Soạn thảo và ban hành luật pháp căn bản về vấn đề giam giữ và đối xử với tù binh chiến tranh.
Với vai trò và nhiệm vụ được viết ra thành từng chi tiết nhỏ, chúng ta nhận thấy nhiệm vụ của BTTM không liên quan gì đến những quyết định tối hậu của cuộc chiến, đó là trách nhiệm của tổng thống, hay BTTM có trách nhiệm gì về áp dụng chiến lược của tổng thống trên thực tế đó là trách nhiệm của tổng trưởng quốc phòng. Trước tháng 4 năm 1972, tổng thống ít hỏi tổng trưởng quốc phòng về tình hình chiến sự. ... Tổng trưởng quốc phòng trong thời gian đó có vai trò như một người quản lý ngân sách và nhân lực của cuộc chiến. Về vấn đề quân sự và xử dụng quân đội, tổng tham mưu trưởng trả lời trực tiếp với tổng thống.
Bốn Quân Đoàn, trên lý thuyết, nằm dưới quyền điều khiển của BTTM. Tuy nhiên vì bản chất của cuộc chiến và cấp số cuả các cuộc hành quân trách nhiệm về hành quân được hoàn toàn ủy thác cho tư lệnh quân đoàn /quân khu. Là tư lệnh quân khu có trách nhiệm về hành chánh, tư lệnh quân đoàn /quân khu có quyền hành một tư lệnh đại khu vực quân sự. BTTM ít xen vào kế hoạch hành quân hay quyết định của các quân đoàn, trừ trường hợp có hành quân hay thám thính qua biên giới, hay quân đoàn yêu cầu cho thêm các đơn vị tổng trừ bị dưới quyền của BTTM. Vì tư lệnh quân đoàn là người có luôn thẩm quyền về kế hoạch bình định và phát triển ở vùng trách nhiệm, nên họ có thẩm quyền xử dụng tài nguyên quốc gia được chỉ định và phân phối cho vùng, và đặt các tỉnh trưởng dưới quyền kiểm soát của họ. Đây là một thẩm quyền mà BTTM không bao giờ có được. Thẩm quyền của các tư lệnh quân đoàn rất lớn. Họ thường liên lạc thẳng với tổng thống để nhận và thi hành quân lệnh. Và họ cũng là người chịu trách nhiệm trực tiếp với tổng thống.
Hàng năm BTTM soạn thảo kế hoạch quân sự cho năm tới. Kế hoạch quân sự này dựa theo tình hình chiến trường giữa ta và địch, và dựa vào kế hoạch quốc gia do tổng trưởng quốc phòng hay tổng thống phát họa. Kế hoạch thường niên của BTTM có danh số là "AB" kèm theo số thứ tự phía sau. Thí dụ như AB-139; AB-140. Bắt đầu từ năm 1967, khi có nhiều quốc gia đồng minh tham dự cuộc chiến Việt nam, kế hoạch quân sự thường niên được soạn thảo chung, và mang tên là "Kế Hoạch Hành Quân Hỗn Hợp." Kế hoạch AB-142 là kế hoạch quân sự thường niên hỗn hợp được BTTM, MACV và tư lệnh các quốc gia đồng minh soạn thảo chung. Kế hoạch bao gồm những chỉ thị cho các tư lệnh quân đoàn, tư lệnh Không Quân và Hải Quân trong năm tới. Cứ mỗi bốn tháng, sau này là mỗi tháng, một cuộc họp được tổ chức tại BTTM để duyệt xét lại tình hình ở mỗi quân khu, và tiến triển của các kế hoạch đang áp dụng.
Sau khi Hiệp Định Ba Lê 1973 được ký kết, BTTM đình chỉ các buổi họp quân sự hàng tháng vì mỗi kế hoạch quân sự đều có liên quan đến vấn đề chính trị. Từ đó, những buổi họp về quân sự được tổ chức tại Dinh Độc Lập dưới sự chủ tọa của tổng thống như là vị tổng tư lệnh tối cao của quân đội. Buổi họp còn có sự có mặt của phó tổng thống, thủ tướng, đương kiêm tổng trưởng quốc phòng và cố vấn an ninh quốc gia, trung tướng Đặng Văn Quang. Trong buổi họp, các tư lệnh quân khu (hay tư lệnh Không Quân, Hải Quân) thuyết trình về tình hình trong vùng trách nhiệm của họ. Sau khi thảo luận chung, tổng thống quyết định và ban quân lệnh hay chỉ dẫn cần thiết cho các tư lệnh tham dự.
PHỤ BẢN B:
Bản Điều Trần Của Đại Sứ Graham Martin Trước Tiểu Ban Điều Tra Đặc Biệt, Ủy Ban Liên Hệ Ngoại Giao Quốc Tế Hạ Viện. Ngày 22 Tháng 1 Năm 1976. Đề Mục: Lực Lượng Quân Sự Hai Bên Việt Nam Vào Những Ngày Cuối.
Tôi nói với tổng thống Thiệu, sau khi so sánh và phân tích lực lượng hai bên, và nếu cả hai dồn tất cả quân vào trận đánh sau cùng, cán cân quân sự về phía VNCH rất bi quan.
Kết luận của tôi là, nếu cộng sản quyết tâm đánh để triệt tiêu Saigon, thì Saigon không thể cầm cự hơn một tháng. Dù với sự phòng thủ khéo léo và quyết tâm, sự cầm cự sẽ không quá ba tuần.
Tôi nói, theo ý kiến của tôi, Hà Nội muốn giữ Saigon nguyên vẹn chứ không muốn Saigon trở thành một đống gạch vụn khi họ chiếm. Tuy nhiên không ai chắc chắn Hà Nội sẽ không biến Saigon thành bình địa nếu không có một thương lượng đình chiến.
Tổng thống Thiệu hỏi về chuyện quân viện có được gia tăng thêm không. Tôi trả lời là, nếu có một phép lạ nào đó khiến cho quân viện gia tăng, viễn ảnh đó chỉ tốt cho chuyện thương lượng trong tương lai. Vì quân viện sẽ không bao giờ đến Việt Nam kịp thời để cứu vãn tình hình. Tôi nói cán cân quân sự đã nằm về phiá địch quá nhiều.
Tôi nói với ông, bất cứ ai đang ngồi trên ghế ở Dinh Độc Lập lúc này hay bất cứ ở những trung tâm quyền lực nào, như Điện Cẩm Linh, Phủ Thủ Tướng Anh Quốc, Dinh Tổng thống Pháp, Đại Sảnh Đường Peking, hay Tòa Bạch Cung đều có một trở ngại như nhau: không ai biết được hoàn toàn sự thật đang xảy ra chung quanh. Tin tức bị che giấu, có người muốn che giấu tin tức để đem lợi cho cá nhân họ, hay vì sự chậm trễ của hệ thống hành chánh quan lại. Có người muốn giấu sự thật vì sợ làm ông tổn thương, hay họ không muốn là người đem tin buồn.
Với bất cứ lý do nào, rất khó nhận ra được sự thật của những gì đang xảy ra chung quanh.
Tôi nói với tổng thống Thiệu là tôi nói chuyện với ông như một cá nhân, không đại diện cho tổng thống, hay ngoại trưởng, hay cả như một đại sứ. Tôi nói với ông như một người đã quan sát nhiều biến chuyển ở Đông Nam Á từ lâu nay, và như một người trong hai năm qua đã bỏ ra nhiều thì giờ tìm hiểu tất cả ngọn ngành của quốc sự Việt Nam.
Tôi nói, càng già tôi càng nhận ra rõ là tôi càng không hiểu tất cả, và lúc nào cũng không chắc chắn về bất cứ việc gì. Nhưng lúc tôi nói chuyện với tổng thống Thiệu, đó là một thời điểm khó khăn, và nhận thức của tôi về tình hình lúc đó cũng giống như sự hiểu biết và nhận thức của những người Tây phương hiểu biết về Việt Nam. Một vài điều rất rõ ràng đối với tôi vào lúc đó: tình hình chiến sự rất bi quan, và dân miền Nam qui trách nhiệm vào tổng thống Thiệu. Những người trong đảng phái chính trị, phiá ủng hộ cũng như phía chống đối, đều không nghĩ rằng ông ta có thể đưa quốc gia ra khỏi cơn hiểm họa đang xảy ra.
Tôi nói với tổng thống Thiệu, kết luận của tôi là tất cả các tướng lãnh dưới quyền ông, mặt dù họ đang tiếp tục chiến đấu, tin rằng tình hình phòng thủ tuyệt vọng, trừ khi có một thương lượng ngưng bắn để chỉnh đốn hàng ngũ lại. Nhưng các tướng lãnh không nghĩ sẽ có cuộc thương lượng trừ khi vị tổng thống từ chức hay có một giải pháp nào để bắt đầu thương lượng.
Tôi nói, tôi nghĩ là nếu ông ta không từ chức, các tướng lãnh cũng sẽ mời ông từ chức.
Rồi ông Thiệu hỏi nếu ông từ chức thì có ảnh hưởng gì đến lá phiếu về viện trợ cho Việt Nam ở quốc hội Hoa Kỳ không. Tôi trả lời, vài tháng trước thì có thể ảnh hưởng số phiếu ở quốc hội, nhưng bây giờ sự thay đổi không đủ để thay đổi được kết quả.
Nói một cách khác, ông Thiệu nghĩ là nếu ông ta từ chức thì quốc hội có chắc chắn viện trợ đầy đủ cho sự sống còn của VNCH hay không. Tôi nghĩ chuyện thương lượng như vậy không còn nữa, ngay cả trước đây cũng không có chuyện thương lượng như vậy với quốc hội Hoa Kỳ.
Nói cho cùng, phía cộng sản sẽ nghe bất cứ những gì về người kế vị ông Thiệu, hay từ ông Thiệu. Sự từ chức của ông Thiệu không có ảnh hưởng ở miền Nam nhiều so với sự ảnh hưởng đối với CSBV.
Tôi nói tôi không trả lời được câu hỏi về ảnh hưởng của sự từ chức, nhưng dường như tất cả người dân miền Nam nghĩ sự từ chức sẽ đưa đến những tiến triển cho một thương lượng ngưng bắn.
Cá nhân tôi không nghĩ việc từ chức sẽ thay đổi được gì nhiều. Nếu Hà Nội thật sự muốn thương lượng, thì họ không muốn đối đầu với một lãnh tụ cứng rắn; họ muốn một người lãnh tụ yếu. Nhưng những người chung quanh tổng thống Thiệu nghĩ cần phải thương lượng vì không còn nhiều thời gian nữa.
Nhiều người nghĩ sẽ tránh được cảnh đổ nát, và nếu một quốc gia độc lập Nam Việt Nam tiếp tục hiện hữu, thì có hy vọng dù suy luận cho thấy sự hy vọng đó rất mỏng manh tình hình có thể khả quan hơn.
Cuộc đối thoại giữa tôi và tổng thống Thiệu kéo dài chừng một tiếng rưỡi đồng hồ.
PHỤ BẢN C:
Bản Điều Trần Của Đại Sứ Graham Martin Trước Tiểu Ban Điều Tra Đặc Biệt, Ủy Ban Liên Hệ Ngoại Giao Quốc Tế Hạ Viện. Ngày 22 Tháng 1 Năm 1976. Đề Mục: Nổ Lực Tìm Kiếm Một Thương Lượng Hòa Giải Với Cộng Sản.
Câu Hỏi 11: Ngoại trưởng Kissinger vào ngày 5 Tháng 5, 1975 có tuyên bố Nga đã "cộng tác vừa đủ trong vai trò giúp Hoa Kỳ soạn thảo kế hoạch di tản nhân viên Hoa Kỳ và Việt Nam, và trong vai trò về một viễn tượng thay đổi chính trị trong thời gian nói trên.
(a) Ông đã biết gì về vai trò của Nga trong vấn đề thương lượng trong hai tuần còn lại của tháng 4, 1975"
Trả Lời: Tôi chỉ biết được những gì tôi đã trình bày vừa qua. Có nghĩa là chính phủ Nga có thông báo cho Hoa Kỳ biết, là Hà Nội sẽ không cản trở cuộc di tản của chúng ta.
(b) Ông có đồng ý với những gì Kissinger tuyên bố"
Trả Lời: Tôi đồng ý.
Câu Hỏi 12: Trong thời gian trước khi Dương Văn Minh lên nắm quyền, Tòa Đại Sứ Pháp có thông báo cho ông biết là cộng sản muốn thương lượng chính trị với Minh, chứ không quyết tâm đánh bại VNCH về quân sự.
Trả Lời: Nói đúng hơn, ý nghĩa của câu hỏi đó nghiêng về phía người Pháp: người Pháp hy vọng chuyện sẽ xảy ra như vậy.
Hỏi: Như vậy thì người Pháp lấy tin tức đó từ đâu"
Trả Lời: Phần nhiều các chánh phủ, cũng như chánh phủ Hoa Kỳ và Pháp, ít cho biết họ dùng phương pháp nào, hay đường dây nào để thu thập tin tức. Và câu trả lời của tôi là, tôi không biết họ lấy tin tức từ đâu.
Câu Hỏi 13: Ngoại trưởng Kissinger tuyên bố vào ngày 5 tháng 5, 1975 là, cho đến ngày 27 tháng 4, 1975, Hoa Kỳ vẫn còn "nhiều hy vọng" CSBV sẽ không có ý chiến thắng về quân sự, mà họ sẽ "thương lượng" một giải pháp chính trị với Dương Văn Minh. Sự kiện nào đã khiến Hoa Kỳ nghĩ chuyện đó có thể xảy ra"
Trả Lời: Có nhiều tin tức mà tôi chưa biết được để trả lời câu hỏi này. Tôi có yêu cầu Bộ Ngoại Giao cung cấp tin tức về câu hỏi này, và sau đây là những sự kiện:
Ông Ngoại Trưởng tuyên bố như trên trong một cuộc họp báo vào ngày 29 tháng 4, ngay sau cuộc di tản. Hy vọng của Hoa Kỳ đến từ những tin tức tình báo và những tuyên bố phía cộng sản, và của VNCH vài tuần trước khi Saigon thất thủ. Như những gì tổng trưởng Ngoại Giao đã tuyên bố vào ngày 29 Tháng 4, là Hoa Kỳ đã liên lạc với nhiều người trung gian đại diện cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Bắc Việt, và đã có được một vị trí để trao đổi quan điểm qua lại. Ông Ngoại Trưởng có nói rõ (trong lần họp báo ngày 5 tháng 5) là Nga đã giúp đỡ một cách khiêm nhường để chúng ta soạn thảo được vấn đề di tản người Mỹ và Việt, đồng thời họ cũng cho biết có một khả thể nào đó cho một sự thay đổi về thương lượng chính trị cho hai bên.
Trong những tuần còn lại của Tháng 4, VNCH thi hành và phản ứng nhanh chóng, trả lời những đòi hỏi của CSBV như là những điều kiện để thương thuyết. Tháng 3 và đầu Tháng 4, CSBV đòi tổng thống Nguyển Văn Thiệu từ chức. Tổng thống Thiệu từ chức ngày 21 tháng 4. CSBV sau đó yêu cầu người kế vị tổng thống Thiệu từ chức, và nói rõ họ chỉ thương lượng với đại tướng Dương Văn Minh. Đòi hỏi này được thỏa mãn; Dương Văn Minh lên làm tổng thống sau đó. Cùng lúc, Saigon thỏa mãn tất cả những đòi hỏi từ phía cộng sản, mặt dù những đòi hỏi được đưa ra hàng ngày.
Tuy nhiên, cũng như những gì ông tổng trưởng Ngoại Giao đã tuyên bố, vì những lý do không rõ, CSVN thay đổi ý kiến vào đêm 27 tháng 4, và chuẩn bị thi hành kế hoạch quân sự của họ. Khả thể của một dàn xếp chính trị không còn nữa. Vào ngày 30 tháng 4 quân đội cộng sản chiếm Saigon, và tướng Minh bị ra lệnh kêu gọi quân đội VNCH đầu hàng vô điều kiện.
Câu Hỏi 14: Nói về chuyện những cố gắng đi tìm một giải pháp thương lượng chính trị với phía cộng sản để thay đổi chính quyền Saigon, trong khoảng từ ngày 19 đến ngày 27 tháng 4, hai phái đoàn Hung Gia Lợi và Ba Lan trong Ủy Hội Kiểm Soát Đình Chiến có đóng vai trò gì không"
Trả Lời: Câu trả lời của tôi là hai phái đoàn nói trên bị ngỡ ngàng vì sự biến chuyển quá nhanh của tình hình trong những ngày 19 đến 27. Theo sự quan sát và nhận định của tôi, trong giai đoạn đầu, vai trò của hai phái đoàn đó được nghĩ là có lợi cho cuộc thương lượng.
Câu Hỏi 14 (a): Họ có chuyển tin tức từ phía CSBV đến tòa đại sứ không"
Trả Lời: Theo sự hiểu biết của tôi, họ không có trực tiếp chuyển những tin tức nào đến tòa đại sứ.
Câu Hỏi 14 (b): Họ có cung cấp cho tòa đại sứ những "phân tích" về đường lối của Hà Nội về một thương lượng chính trị"
Trả Lời: Có, điều đó thật sự có. Họ cung cấp cho tòa đại sứ liên tục từng giờ về những biến chuyển.
Câu Hỏi 14 (c): Nếu có, thì họ đã cung cấp cho tòa đại sứ tin tức gì"
Trả Lời: Tôi có một ấn tượng là một trong những sự phân tích đã quá chậm so với những biến chuyển đang xảy ra; hoặc là những phân tích đó là một ngụy tạo, có trọng tâm là chính phủ Dương Văn Minh sẽ được Hà Nội chấp nhận để đi đến một thương lượng. Trong khi phân tích của một phái đoàn khác thì có vẻ thận trọng, chuyên nghiệp và chính xác hơn.
PHỤ BẢN D:
Việt Nam: Viễn Tượng Cho Tương Lai" Một Chiến Lược Cô Lập" (1)
Cách đây không lâu cán binh cộng sản vẫn còn lội bộ khuân vác, hay chuyên chở vũ khí trên xe đạp thồ dọc theo những con đường xâm nhập trong rừng núi. Khoảng cách và sự di động được đo bằng nước mắt và mồ hôi của những cán bộ Việt Minh. Những cán bộ này hình như không bao giờ biết mệt khi di chuyển vũ khí ra chiến trường cho đồng bạn.
Các tướng lãnh chỉ huy Pháp ở Việt Nam trong những năm đầu thập niên 1950, nhìn những tấm hình tuyên truyền về sức chiến đấu của dân công Việt Minh, lắc đầu, nửa thương hại, nửa nghi ngờ. Khoảng giữa năm 1954 quân đội anh dũng Pháp bị đánh bại hoàn toàn ở một thung lũng mà khi nhắc đến tên, nói lên huyền thoại của CS Bắc Việt.
Khi cuộc xung đột được nhen nhúm lại sáu năm sau, các cán binh Việt Cộng vẫn đi theo con đường những đàn anh Việt Minh của họ đã đi từ trước. Và một thập niên sau, sức mạnh của quân đội cộng sản được biểu dương qua một nguyên lý họ luôn luôn tôn sùng: Tiếp liệu là phương diện quan trọng nhất của chiến trường; và kết quả của trận chiến thường được quyết định từ đó. Một nguyên lý khác cũng được cộng sản áp dụng thường xuyên là sự tự do di chuyển ở chiến trường họ gọi là di động chiến lược một trong những khái niệm Cá-và-Nước của Mao Trạch Đông: dân chúng là nước; quân là những con cá sống, lội trong nước đó.
Sự thành hình của di động chiến lược đến từ hai điều kiện quốc nội và quốc ngoại của một quốc gia khi điều kiện kinh tế xã hội của những quốc gia thoát ra từ tình trạng thực dân đô hộ, từ khi thế giới chia ra hai khối rõ ràng sau đệ nhị thế chiến.
Thật vậy, gần một phần tư thế kỷ, cộng sản Việt Nam có được hai ưu điểm hơn phiá tự do: Họ có được sự an toàn ở các căn cứ hậu cần trong nội địa hay bên quốc gia lân cận những căn cứ hậu cần đó là nơi họ dưỡng quân sau những cuộc đụng độ để chuẩn bị cho những trận đánh mới mà không sợ bị khuấy phá. Hoặc khủng bố cho người dân địa phương sợ và nghe theo; hoặc dùng phương pháp tẩy não tuyên truyền để có sự hợp tác, cộng sản có thể di chuyển không sợ bị lộ, và từ đó họ tấn công, tàn phá, tùy theo sự thuận lợi về quân sự và chính trị. Những Căn Bản Quân Sự Để đương đầu với cộng sản, quân đội VNCH và Hoa Kỳ đã dùng mọi cách chỉ trừ chưa tấn công qua "hậu phương vĩ đại" của Bắc Việt mà thôi. Tuy nhiên chừng bốn năm trước đây cộng sản gần như đối đầu được với những kế hoạch chiến lược của đồng minh qua sáu nguyên tắc căn bản du kích chiến của Mao Trạch Đông: Địch tiến ta lùi, địch lùi ta tiến; lấy nhỏ đánh lớn, lấy lớn đánh nhỏ; lấy thực lực của địch làm của ta; và quân đội CS lừa bịp nhân dân khiến dân phải nuôi CS.
Đến năm 1967, cuộc chiến Việt Nam bước vào năm thứ tám, cuộc tranh chấp hai bên gần như bất phân thắng bại: mỗi ngày hai bên giao chiến ở nhiều nơi trên chiến trường, hàng trăm trận lớn nhỏ, và bên nào cũng cho mình thắng.
Nhìn lại giai đoạn này chúng ta phải đồng ý là mỗi bên đều có phần thắng ở một phần nào đó. Đối diện với hỏa lực độc tôn của đồng minh, cộng sản thường rút đi sau khi đụng trận. Nhưng thông thường, các tư lệnh đồng minh không tiếp tục lợi dụng những thành công chiến thuật đó, mà lại để cho địch rút về mật khu an toàn của họ. Ngược lại, quân đội Bắc Việt không đủ khả năng để đánh bại VNCH hay làm dân chúng Hoa Kỳ nản lòng như họ đã làm với Pháp ở Điện Biên Phủ 18 năm về trước.
Sự bế tắc về quân sự giữa hai bên có thể nhìn thấy một cách rõ ràng từ nhiều góc cạnh. Với hệ thống tuyên truyền khôn khéo, Hà Nội thành công ngụy tạo cho thế giới tin tưởng cuộc chiến của họ là cuộc chiến cho độc lập và tự do. Dĩ nhiên, ở miền Nam, người dân đã có kinh nghiệm với cộng sản qúa nhiều để tin vào những tuyên truyền đó. Song song với những tuyên truyền, cộng sản nằm vùng không cần quan tâm với người dân tìm mọi cách để phá tan nền tảng kinh tế, xã hội ở miền Nam. Như vậy, đến năm 1967, cuộc chiến nằm trong thế bất phân thắng bại về kinh tế, quân sự và chính trị và không bên nào có khả năng chiếm được thế thượng phong.
Đối diện với cuộc chiến không đi đến đâu, các tư lệnh đồng minh thấy họ phải làm một cái gì đó để phá vỡ cái vòng lẩn quẩn của chiến tranh: phá hủy và chết chóc; càng đánh mạnh thì càng chết nhiều, và sự tàn phá lớn hơn. Nhưng chiến lược quân sự toàn cầu Hoa Kỳ có tính cách uyển chuyển, từng chiến lược mà Hoa Kỳ đang áp dụng ở Việt Nam không tạo ra được khó khăn nào mà Hà Nội không phản ứng lại được.
Về phía cộng sản, các tư lệnh quân sự Bắc Việt thấy được thực tế của chiến trường. Nhưng vì không phải quan tâm về luân lý, đạo đức, họ phác họa một kế hoạch tấn công rất độc hại, tàn ác, mà chỉ cần thêm một chút may mắn thì đã đưa họ đến chiến thắng. Trong cuộc tổng tấn công, tổng nổi dậy, vào những ngày đầu năm 1968, lợi dụng cuộc ngưng bắn vào ngày tết, cộng quân xâm nhập và tấn công nhiều thành phố quân lỵ của VNCH.
Cuộc tấn công ồ ạt, liều lĩnh vào năm Mậu Thân 1968, là sự trả lời rõ ràng cho đồng minh, là tình hình chiến trường vào lúc đó chưa hẳn là "thấy được ánh sáng ở cuối đường hầm" như họ nghĩ. Cuộc tấn công của cộng sản khiến dư luận quốc nội Hoa Kỳ muốn chính phủ họ rút khỏi chiến trường Đông Dương. Sau ba tháng tấn công với một số thương vong là 80 ngàn người, CSBV đã không đạt được mục đích đề ra. Thay vì toàn dân miền Nam tổng nổi dậy như họ tưởng, dân miền Nam ngược lại, đã chống cộng sản hoàn toàn. Thay vì đạt được một chiến thắng mỹ mãn, các cấp số đơn vị của CSBV bị hao tổn một cách thảm hại.
Cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968 hình như là một kế hoạch dựa vào những nguyên lý chiến tranh của thống soái Lâm Bưu dùng nông thôn bao vây thành thị. Cộng sản dự định cuộc tấn công sẽ đem lại sự kiểm soát làng xã, nông thôn nhiều hơn họ đang có. Nhưng đến giữa năm 1968 quân đội VNCH và Hoa Kỳ đã cắt đứt vòng dây của cộng sản chung quanh các đô thị, và lợi dụng những khoảng trống chính trị ở thôn quê, VNCH nới rộng sự kiểm soát cuả chính phủ sâu rộng hơn vào các phần trên lãnh thổ VNCH.
Với tất cả mồ hôi, nước mắt, xương máu, cấp chỉ huy cộng sản không đạt được gì trong trận Mậu Thân, trừ một kết qủa mà các phân tích gia quân sự gọi là "một thất bại quân sự nhưng một chiến thắng tuyên truyền vô giá." Sự thiệt hại của CSBV được chính phe cộng sản công nhận vài tháng sau, khi Trung Ương Cục Miền Nam ra quyết nghị thứ 9, chỉ thị các đơn vị cộng sản quay trở lại chiến lược "tiết kiệm lực lượng": trở lại lối đánh du kích. Quyến nghị này cho thấy tình trạng thật sự suy sụp về khả năng của cộng sản sau trận Mậu Thân.
Trận tấn công năm 1968 là một dấu mốc quan trọng của cuộc chiến Việt Nam ít ra theo những gì được nói về cuộc tấn công đó. Giữa năm 1968, trong khi cộng quân rút lui trên mọi mặt trận, Hoa Kỳ và VNCH thực thi một số biện pháp đã làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt của cuộc chiến.
Sau khi dân chúng miền Nam thể hiện lá phiếu bằng chân của họ đối với cộng sản trong năm Mậu Thân, chính quyền VNCH quyết định võ trang nhân dân miền Nam. Hơn nửa triệu vũ khí cũ được giao cho Nhân Dân Tự Vệ, một lực lượng bao gồm tất cả tráng niên từ 16 đến 50 tuổi. Với gần hai triệu người dân được giao cho phương tiện để chống lại cộng sản, cuộc chiến Việt Nam trở thành một chiến tranh nhân dân ở trong lãnh thổ miền Nam. Nói theo ngôn ngữ chiến tranh du kích của cộng sản, thì con cá du kích quân VC bắt đầu thấy vũng nước dân chúng bắt đầu cạn dần: khả năng di động của cộng quân bị giới hạn nhiều từ khi chương trình Nhân Dân Tự Vệ được áp dụng.
Sau khi lực lượng Nhân Dân Tự Vệ nhận lãnh một phần trách nhiệm của Nghĩa Quân; Nghĩa Quân được giao lại phần trách nhiệm của Địa Phương Quân. Chỉ vài tháng sau, hai lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân có nhiệm vụ bảo vệ một phần lớn lãnh thổ, để 10 sư đoàn chủ lực của VNCH được rảnh tay tấn công vào những hậu cứ của cộng sản.
Đến cuối năm 1969, phần lớn các căn cứ của CSBV ở miền Nam bị phá hủy; cuộc chiến bây giờ giới hạn vào những vùng ở biên giới. Sự kiện này đưa đến một thay đổi lớn về tình hình chiến sự ở Việt Nam khi quân đội Hoa Kỳ giảm binh và chuẩn bị tái phối trí từ các vùng trách nhiệm của họ. Đến ngay thời gian này, hoàng thân Norodom Sihanouk, "ông hoàng Đỏ", bị đảo chánh và mất quyền ở Cam Bốt. Quân đội VNCH lập tức mở cuộc hành quân tấn công qua các căn cứ cộng sản ở bên kia biên giới. Khi cộng sản không còn xử dụng được hải cảng Sihanoukville, bộ tư lệnh tối cao cộng sản bây giờ chỉ còn con đường xâm nhập Hồ Chí Minh là đường tiếp tế duy nhất cho chiến trường miền Nam. Khi nhắc đến đường mòn Hồ Chí Minh, chúng ta cũng phải nói đến cuộc hành quân Lam Sơn 719, đánh qua Tchepone và những mục tiêu không kém quan trọng khác ở Hạ Lào.
Bốn năm sau cuộc tấn công Mậu Thân, tình hình chiến trường rõ hơn đối với những rối loạn hỏa mù của những năm tháng trước. Thật vậy, mặc dù tổn thất về nhân sự của cuộc chiến vẫn còn cao 50 binh sĩ Hoa Kỳ, 350 Việt Nam, và 2500 cộng quân tử trận hàng tuần tình hình chiến sự sau năm 1971 có tính cách tiếp liệu: địch quân cố gắng mở đường tiếp tế; đồng minh tìm cách cắt đứt. Thêm vào đó, cộng quân không còn lợi thế trong liên hệ quân sự chính trị với người dân như họ đã có trước đây. Không còn sự ủng hộ của dân và bị phân tán mỏng, tinh thần chiến đấu của cán binh cộng sản không còn cao như trước. Để thay vào mất mát đó, cộng sản cố gắng cung cấp thêm cho các đơn vị vũ khí và phương tiện vật chất.
Với tình hình mới, trên quan điểm quân sự thuần túy, đồng minh nghĩ phải có cách nào để đối phó; và CSBV có chiến thuật gì mới cho cuộc chiến đấu trường kỳ của họ. Cô Lập Từ năm 1966, trong một buổi nói chuyện với nhiều sĩ quan cao cấp, tác giả có đề cập đến một chiến lược gồm có 7 điểm để đối phó vối cuộc chiến, mà tác giả gọi là Chiến Lược Cô Lập. Với tất cả những khiếm khuyết của chiến lược, 7 điểm đó được nêu ra ở đây để chúng ta có thể bàn về những ưu điểm và giới hạn của nó.
Tách rời du kích ra khỏi dân để phá đi hạ tầng cơ sở của chúng.
Cô lập các đơn vị chủ lực và đơn vị địa phương để cả hai không tựa vào và tiếp ứng nhau, để chúng ta có thể tiêu diệt dễ hơn.
Triệt tiêu các căn cứ hậu cần của địch trong lãnh thổ VNCH.(1)
Triệt tiêu các căn cứ hậu cần của địch ở những nước lân cận.
Thiết lập một hàng rào chống xâm nhập dọc theo vĩ tuyến 17, từ Đông Hà đến Savannakhet.(2)
Cắt liên lạc giữa mặt trận và hậu cứ của CSBV ra làm hai bằng cách đổ bộ lên Vinh hay Hà Tỉnh.
Thành lập một liên minh các quốc gia gồm có Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam.(3)
Từ khi Chiến Lược Cô Lập được đề ra, đến nay đã qua một thời gian khá lâu, nhưng không một kế hoạch nào được thực thi về kế chiến lược này.
Khi Nhân Dân Tự Vệ được thành lập vào năm 1968, dân có được phương tiện tự vệ, và không còn để bị cộng sản dọa nạt bằng những phương tiện khủng bố. Tiếp theo chương trình nhân dân tự vệ là kế hoạch Phụng Hoàng một kế hoạch đem lại nhiều kết quả khả quan, phá hủy các tổ chức nằm vùng của cộng sản các cơ cấu hoạt động của cộng sản tại thôn xã lần lần biến mất. An ninh được tái lập ở nông thôn và cộng sản chỉ hoạt động hữu hiệu trong tình trạng hỗn loạn thiếu chính quyền mất đi cơ sở chính trị quân sự ở nông thôn. Trong tình thế đó, cuộc chiến không còn căn bản là du kích nữa. Và khi đánh theo chiến tranh qui ước, cộng sản không thể thắng được đồng minh vì hỏa lực bên ta quá mạnh. Cho đến năm 1970, các căn cứ hậu cần của cộng quân hầu như bị hủy diệt hoàn toàn. May mắn hơn cho đồng minh, năm 1970, khi tình hình chính trị thay đổi ở Pnom Penh chúng ta có dịp tấn công những căn cứ và chiến khu của địch nằm dọc theo biên giới Cam Bốt. Những kết qủa thâu lượm được ở những căn cứ như Parrot's Beak, Angle's Wing, Dog's Face làm cho đồng minh phấn khởi và đưa đến cuộc tấn công qua Hạ Lào năm sau như là một kế hoạch đương nhiên.
Hành quân Lam Sơn 719 bắt đầu vào tháng 2, 1971 và chấm dứt hai tháng sau. Hành quân Lam Sơn 719 chặn đứng kế hoạch phản công của CSBV ở Vùng I. Mặc dù không thành công mỹ mãn như cuộc hành quân qua Cam Bốt, cuộc hành quân đánh qua Hạ Lào đã phá hủy một số lớn quân nhu dụng ở vùng Tchepone, và làm gián đoạn sự xâm nhập của CSBV vào Nam.
Có nhiều nhận định cho rằng cuộc hành quân Lam Sơn 719 thất bại. Những nhận định này có thể đến từ suy luận cuộc hành quân là một cố gắng tối khẩn để kết thúc cuộc chiến. Lối suy luận đó không đúng. Nhìn từ quan điểm quân sự trong chiến tranh trường kỳ, ít nhất là hai ba điểm sau cùng trong Chiến Lược Cô Lập phải được thực hiện ngay sau hành quân Lam Sơn 719 để có thể ổn định được tình hình chiến trường ở Việt Nam. Nhưng với tình hình đối diện đang trở lại mức bình thường, chúng ta phải chờ một thời gian nữa thì những kế hoạch trong Chiến Lược Cô Lập mới có thể được dư luận tán đồng và thực hiện.
Mặc dù tình hình chính trị ngay lúc này không cho phép đồng minh thực hiện những kế hoạch phản công trong Chiến Lược Cô Lập, phía đồng minh đang có nhiều lợi thế trong cuộc chiến. Tuy nhiên, phải cần nhiều cố gắng hơn về phương diện chính trị phải phục vụ người dân như đề ra trong Chiến Lược Cô Lập. Người dân chỉ xa lánh cộng sản nếu họ thấy được sự chăm sóc của chính quyền.
Thêm vào đó, để hoàn toàn cô lập địch, chính quyền liên tục tấn công đối phương bằng nhiều ngã để người dân thấy lúc nào họ cũng được bảo vệ. Chỉ có cách đó thì chính phủ mới lấy được lòng tin của dân, bớt đi những phàn nàn. Khi lấy được lòng dân, cộng sản sẽ không còn nơi hoạt động, vì họ chỉ hoạt động được khi người dân bất mãn. Roger Trinquier, tác giả cuốn Chiến Tranh Mới, cho rằng muốn thắng trong chiến tranh cách mạng, chính phủ phải thỏa mãn sự trông đợi của người dân, và chính phủ phải có nhiều cán bộ chuyên phục vụ cho lợi ích công cộng và cho dân.
Vì phân nửa dân miền Nam sống ở nông thôn, ưu tiên phải được đặt nặng cho đời sống của dân ở đó. Về phương diện này, quân dân cán chính miền Nam có thể học hỏi nhiều bài học quí giá từ những kinh nghiệm ở Mã Lai Á. Tự do là một điều đáng quí, nhưng đôi khi chúng ta không thể cho một vài loại tự do được hiện hữu, nếu sự tự do đó đi ngược lại an ninh tập thể.
Biện Pháp Chưa Đúng Mức
Như một biện pháp chống du kích chiến, chiến thuật ngăn du kích ra khỏi dân chưa đủ để đánh bại cộng sản. Mọi người đều biết chiến lược cuả cộng sản là xử dụng du kích chiến và chiến tranh qui ước song song với nhau: dùng quân du kích để quấy phá và dùng quân chủ lực để tiến công chiếm giữ. Nếu chúng ta để hai lực lượng đó phối hợp nhau, nông thôn sẽ không bao giờ được bình định và cuộc chiến sẽ tiếp tục lâu hơn chúng ta có thể tiên đoán. Vì lý do nầy, triệt tiêu du kích chưa đủ: vật liệu và nhân sự xâm nhập từ miền Bắc phải được ngăn chận nếu chúng ta muốn kiểm soát được hiểm hoạ của cộng sản. Nếu chúng ta thấy oanh tạc và dội bom đã không ngăn chận được sự xâm nhập, chúng ta cần một biện pháp khác hữu hiệu hơn.
Phi Luật Tân, Mã Lai và Nam Hàn đã chiến đấu với cộng sản, và cộng sản bị đánh bại không khó lắm. Những quốc gia này không nằm liền lục địa, hay chỉ là những bán đảo, và địa hình đó có lợi cho những kế hoạch chống xâm nhập.
Trái lại, Việt Nam có hơn 1500 cấy số biên giới ở hướng tây và một bờ biển dài tương đương ở phiá đông. Như vậy, cộng sản có một hành lang xâm nhập vô tận. Đồng minh đã cố gắng ngăn chận những ngõ xâm nhập này; nhưng có khi được khi không. Để cắt đứt tất cã cử ngõ xâm nhập hữu hiệu hơn, chúng ta phải thiết lập một hàng rào ở phía nam vĩ tuyến 17, chạy dài từ Đông Hà tỉnh Quảng Trị, cho đến thành phố Savannakhet nằm trên bờ sông Cửu Long ở Lào.
Khi nói đến một hàng rào ngăn chận, tác giả không có ý so sánh hàng rào đó như chiến lũy Maginot, hay hàng rào Siefried, hay một hàng rào kẻm gai chạy dài từ Stettin xuống bờ biển Baltic; từ Trieste xuống vùng Adriatic. Hàng rào ngăn chận này là một hệ thống phòng thủ, với khoảng ba sư đoàn quân, có nhiệm vụ phòng thủ và tảo thanh các đơn vị CSBV đang hoạt động ở Hạ Lào.(4)
Tấn Công Hay Liên Hiệp
Kế hoạch hàng rào ngăn chận này rất có thể không được chánh phủ Lào chấp thuận, nhất là trong lúc đang có thảo luận về vấn đề tái thi hành Hiệp Ứơc Geneva 1962 đang bị bỏ quên. Nếu không thể nào có sự ưng thuận của chính phủ Lào, còn một giải pháp khác: tấn công vào phía nam của Bắc Việt.
Tấn công vào Vinh hay Hà Tỉnh có lẽ là giải pháp duy nhất để chận đứng cuộc chiến tranh trường kỳ của CSBV nếu VNCH có thể thuyết phục thế giới thấy ý định của mình là chỉ chận đứng sự xâm nhập của cộng sản Hà Nội. Và nếu cuộc đổ bộ này được thực hiện, mục tiêu đổ bộ sẽ nằm trong khoảng trên vĩ tuyến 18 và dưới phía nam sông Cả một chút. Lực lượng tấn công sẽ đổ bộ gần Bến Thủy. Từ đó, lực lượng đánh ngang qua Đèo Keo Neua và Đèo Mụ Già cửa ngõ của đường xâm nhập Hồ Chí Minh. Cuộc tấn công chỉ thành công khi lực lượng đổ bộ chiếm và giữ được đầu ngọn của con đường xâm nhập và chận đúng mọi di chuyển vào Nam.
Kế hoạch đổ bộ tấn công này sẽ được coi là một vi phạm của hiệp định Geneva 1954. Cuộc hội đàm Ba Lê đang diễn ra bốn năm rồi. Và đã đến lúc những mỹ ngữ của công pháp quốc tế phải nhường lại cho những chuẩn bị của chiến trường. Nếu một cuộc tấn công toàn diện miền Bắc không thể xảy ra được trong hoàn cảnh chính trị thế giới đang đối diện, thì một cuộc đổ bộ giới hạn có thể coi là khả thể. Đổ bộ lên một phần nhỏ của miền Bắc cũng có thể cảnh tỉnh Nga và Trung Cộng hai quốc gia đang cung cấp tài nguyên và tiền bạc cho CSBV là đã đến lúc họ nên rời cuộc chiến ở Đông Nam Á.
Tấn công hay là không, và có được một thương lượng chính trị hay không, nền an ninh ở Đông Dương trong thời gian tới chỉ có thể bảo đảm được bằng những phương thức chính trị và quân sự, mà kết quả là một liên hiệp giũa các quốc gia Lao, Cam Bốt, Thái Lan và VNCH. Trong một bài diễn thuyết vào tháng 3, 1970, trước khi có những biến đổi chính trị ở Pnom Penh, người viết tiên đoán: "Không sớm thì muộn, một liên hiệp dồng minh sẽ thành hình vì những quốc gia ở Đông Dương đang bị hăm dọa bởi một kẻ thù chung. Và dù các quốc gia này có hệ thống chính trị khác nhau, họ đều đồng ý chỉ có một mặt trận liên hiệp, đồng minh, là phương cách hữu hiệu nhất để chống lại kế hoạch xâm lăng của Hà Nội."
Nói thì dễ, nhưng thực hành thì khó. Xung đột đang xảy ra ở Đông Dương là một cuộc xung đột toàn diện. Như vậy, phương cách đối phó phải có một chiến lược toàn diện. Một điều đáng tiếc là chiến lược đồng minh đang áp dụng ở Đông Dương trong thập niên qua hoàn toàn thiếu tính chất toàn diện đó. Và nếu chiến lược không có tính chất toàn diện thì không thể nào có được một giải pháp thỏa đáng cho cuộc chiến này.
Cộng sản Bắc Việt, dĩ nhiên, cố gắng tìm một chiến thắng quân sự. Nhưng sau một thời gian chiến đấu dai dẳng, với nhiều thiệt hại và khó khăn, chiến thắng quân sự có vẻ như là một giấc mơ. Rồi trước đó, trận lụt lớn nhất trong 100 năm nay gây ra nhiều thiệt hại ở đồng bằng sông Hồng, càng làm cho giấc mơ chiến thắng quân sự của họ trở thành một ác mộng không kém.
Việt Nam Cộng Hòa nằm trong một hoàn cảnh khả quan hơn. Nhưng với những bất mãn đang xảy ra trong xã hội, giới lãnh đạo quốc gia không thể mạo hiểm với những kế hoạch táo bạo và hy vọng đem lại những kết quả lớn. Thêm vào đó, sự liên hệ với Hoa Kỳ giới hạn nhiều hoạt động và bắt buộc VNCH phải nằm trong thế thủ. Như vậy, trừ khi có một biến chuyển bất thường nào đó xảy ra nói theo lời một nhà lãnh đạo Hoa Kỳ VNCH phải "gồng" cho đến tàn cuộc chiến. Miền Bắc khai diễn cuộc chiến không có lời tuyên chiến thì có thể miền Bắc sẽ ngưng cuộc chiến trong yên lặng, thay vì bằng một hiệp ước. Hoà Bình thật sự cho Việt Nam vẫn chưa đến.(5)
Chú Thích
1. Bài Chiến Lược Cô Lập (nguyên tác, Vietnam: What's Next" The Strategy of Isolation) được đăng trong tạp chí Military Review của trường US Command and General Staff College, Fort Leavenworth, Kansass, số 52, Tháng 4, 1972. Trong khoảng thời gian hơn 25 năm qua, rất nhiều sách vở, Việt lẫn ngoại quốc, viết về chiến tranh Việt Nam. Nhưng hình như chưa có sách nào đề nghị một giải pháp khả dĩ giải quyết chiến tranh thuận lợi cho VNCH. Hy vọng Chiến Lược Cô Lập được xem như một trong các đáp số cho bài toán trên. Tuy nhiên, chiến lược này có áp dụng được hay không trên thực tế lại là chuyện khác (chú thích của tác giả).
2. Tháng 6, năm 1964, Ban Tham Mưu Liên Quân Hoa Kỳ có nghiên cứu một kế hoạch tương tự như đã trình bày trong Chiến Lược Cô Lập. Kế hoạch sẽ dùng bốn sư đoàn Lục Quân Hoa Kỳ làm một phòng tuyến từ Đông Hà qua Savannakhet. Kế hoạch được tư lệnh Lục Quân Hoa Kỳ Harold K. Johnson chấp nhận, nhưng bị Đô Đốc Harry Felt (tiền nhiệm của đô đốc Sharp), Tư lệnh Quân Đội Hoa Kỳ, Thái Bình Dương phản đối. Theo đô đốc Felt, đóng quân như vậy sẽ nằm trong thế thủ và không thực hiện được gì. Trích theo Robert Buzzanco, Masters of War, trang 171, cước chú 51 (chú thích của dịch giả).
3. Tất cả 7 điểm của chiến lược phải được thực hiện cùng một lúc thì mới có hiệu quả mong muốn. Thời gian thuận tiện nhất là sau cuộc tấn công Mậu Thân 1968. Lúc đó hạ tầng cơ sở cộng sản đã gần hoàn toàn tiêu diệt, và các đơn vị chính quy cộng sản bị đánh bật ra vùng biên giới (chú thích của tác giả).
4. Trên thực tế chiến lược này không được chấp nhận và thi hành: Về phía VNCH, chiến lược này được tác giả trình miệng cho trung tướng Thiệu và thiếu tướng K (Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, 1967). Chiến lược không được chấp thuận vì không có sự ủng hộ của Hoa Kỳ. Về phiá Hoa Kỳ, theo tướng Phillip Davidson (Vietnam at War, Oxford University Press, 1988), cả Bộ Tổng Tham Mưu Hoa Kỳ , cùng đô đốc Sharp và đại tướng Westmoreland, đều có kế hoạch đánh ra vùng bắc khu phi quân sự, cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh, đánh phá các căn cứ ở Lào, Cam Bốt, và oanh tạc các mục tiêu quan trọng chung quanh Hà Nội, Hải Phòng. Các kế hoạch trên đều không được tổng trưởng quốc phòng McNamara và tổng thống Johnson (1967) chấp thuận (chú thích của tác giả).
5. Trong quyển Chiến Thuật và Chiến Lược (Trung Tâm Quân Sử, Lục Quân Hoa Kỳ , 1980), tác giả đại tá Hoàng Ngọc Lung có nói đến một số châm ngôn về chiến tranh như sau (không rõ xuất xứ): Khi chiến thuật sai và chiến lược sai thì chiến tranh sẽ chóng thua; Khi chiến thuật đúng nhưng chiến lược sai, trận chiến có thể thắng, nhưng chiến tranh sẽ thua; Khi chiến thuật sai nhưng chiến lược đúng, trận chiến có thể thua nhưng chiến tranh sẽ thắng; và khi chiến thuật đúng và chiến lược đúng thì chiến tranh sẽ thắng mau lẹ. Cả VNCH và Hoa Kỳ đều ở vào trường hợp thứ hai. Trong phần kết luận ở cuốn sách, tác giả đã nêu rõ lý do tại sau VNCH không tồn tại được. Bây giờ phải thêm một lý do không kém phần quan trọng nếu không nói là quan trọng nhất: là cả Hoa Kỳ và VNCH không áp dụng một chiến lược địa lý chính trị (geopolitics) thích nghi và hữu hiệu cho cuộc chiến. Cũng vì chúng ta không có một chiến lược thích nghi và hữu hiệu cho cuộc chiến nên phía cộng sản mới có thể đem thêm nhiều quân vào miền Nam và đạt đươc thế thượng phong trong tương quan lực lượng. Với một cái nhìn thực tiển, vô tư và chính xác, thiếu tướng John E. Murray trong cuốn Vietnam as History (Peter Baestrup, Ed., Washington, DC, University Press, 1984) đã nói như sau, và chúng ta có thể dùng làm một kết luận cho chiến tranh Việt Nam: "Nếu muốn biết về cuộc chiến Việt Nam thì phải biết về chiến tranh; muốn biết về chiến tranh thì phải biết đôi chút về toán học. Trong thời cao điểm của lực lượng Hoa Kỳ ở Việt Nam chúng ta có 433 tiểu đoàn tác chiến Mỹ và Đồng Minh; địch có 60 trung đoàn (180 tiểu đoàn). Năm 1974, khi chúng ta rút lui, Việt Nam Cộng Hòa có 189 tiểu đoàn; địch tăng lên 110 trung đoàn (330 tiểu đoàn). Lấy đi B-52, F-4, lấy đi hải pháo, lấy đi tất cả.... và ta bắt đầu yểm trợ miền Nam với 2% tổng số tiền đã dùng cho quân đội Mỹ, để đương đầu với một số địch quân nhiều hơn. Ta phải nhớ, Nã Phá Luân đã nói: "Thượng đế đứng về phe nào có các tiểu đoàn lớn nhất, mạnh nhất." Đúng như vậy. Từ năm 1974 thượng đế đã đúng về phe cộng sản; họ lớn hơn, mạnh hơn. Và đó là lý do tại sao chúng ta thua chiến tranh Việt Nam."
No comments:
Post a Comment