Ngày 30 tháng 4, 1975, khi Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ và không còn hiện
hữu như một quốc gia, thế giới bạn và thù sửng sốt. Mọi người, ngay cả
kẻ chiến thắng, không tin cộng sản chiếm được miền Nam một cách dễ dàng
và nhanh chóng như vậy. Làm sao chuyện đó có thể xảy ra" Tại sao miền
Nam sụp đổ quá nhanh" Chuyện gì đã xảy đến cho một quân đội đã anh dũng
chống lại hai cuộc tấn công hung hãn của CS vào năm 1968 và 1972" Làm
sao một quân đội hùng mạnh như quân đội VNCH có thể sụp đổ một cách dễ
dàng trong một thời gian ngắn ngủi"
Nhiều câu hỏi đặt ra, nhưng khó tìm câu trả lời. Thật vậy, tìm một lời
giải thích trung thực và rõ ràng cho những câu hỏi trên là chuyện không
dễ: Những kinh nghiệm đau thương và sự phẩn nộ bắt nguồn từ một mất mát
lớn lao có thể làm cho câu trả lời sai lạc, thiếu chính xác. Thêm vào
đó, những mặc cảm lỗi lầm, hay bản năng tự vệ muốn bảo tồn thanh danh
của những người trong cuộc, có thể làm cho sự thật, giả, ngụy tạo, và
chân lý lẫn lộn. Trong khi chúng ta có thể xác định những nguyên do trực
tiếp đưa đến sự thất thủ, một số nguyên do có hậu quả liên đới khác,
những nguyên do xa gần, được ghi lại rành mạch hay chỉ được nhắc đến một
cách ngấm ngầm cần được nói đến.
Từ khi lập quốc, Việt Nam có một lịch sử trường tồn dài và gian khổ.
Ngoài lịch sử về của những triều đại phong kiến, lịch sử Việt Nam là
lịch sử của những cuộc tranh đấu chống ngoại xâm. Là một quốc gia nhỏ bé
ở phía nam biên giới một quốc gia vĩ đại với tên là "Trung Quốc," Việt
Nam luôn luôn lo sợ bị đô hộ. Một ngàn năm nằm dưới sự đô hộ của của
Trung Hoa, rồi giành lại được độc lập chín trăm năm. Sau đó, gần một
trăm năm nằm dưới sự cai trị của Pháp; và ba mươi năm nội chiến... tất
cả, là lịch sử Việt Nam. Trong thời gian bị Tàu đô hộ, dưới sự lãnh đạo
của Hai Bà Trưng, Triệu Ẩu, và Lý Bôn, nhân dân Việt Nam nổi dậy ba lần
vào các năm 39, 248, và 542 sau tây lịch, chống lại sự đô hộ và giành
lại được độc lập dù chỉ trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, trong suốt
thời gian bị thống trị, dù người Tàu bắt buộc người Việt phải sống theo
phong tục, tập quán, ngôn ngữ của họ, người Việt đã bền bỉ chống lại sự
đồng hóa của người Tàu. Đó là một kỳ công sau những năm dài bị đô hộ,
người Việt Nam trở thành một nước độc lập với một nền văn hóa riêng
biệt.
Nền độc lập của Việt Nam bắt đầu từ năm 939, dưới triều Ngô. Đây là một
triều đại hưng thịnh nhất của lịch sử Việt Nam. Trong 600 năm đầu từ khi
được độc lập, các triều đại Lê, Lý, Trần, đã mở mang bờ cõi về hướng
nam, sâu vào lãnh thổ dân Chàm, rồi từ năm 1471 sát nhập luôn đất Chàm
vào lãnh thổ Việt Nam. Ba lần, vào những năm 1257, 1284, và 1287, dưới
sự chỉ huy tài ba của Trần Hưng Đạo, chúng ta đã chống lại những cuộc
tấn công hung bạo của quân Mông Cổ. Đánh bại được quân Mông Cổ là chuyện
chưa xảy ra trong lịch sử của các dân tộc khác: Cho đến lúc đó, Mông Cổ
đã chiếm trọn Trung Hoa, và đang trên đường chinh phục toàn cõi Châu
Âu.
Nhưng Việt Nam bị kém may mắn khi bị phân chia ba lần. Lần đầu rất ngắn,
xẩy ra năm 1527 dưới đời Mạc Đăng Dung, khi Mạc Đăng Dung cướp quyền
nhà Lê. Lần phân chia thứ nhì kéo dài gần 200 năm, xảy ra khi chúa Trịnh
ở miền Bắc và Chúa Nguyễn ở miền Nam tranh chấp quyền lực với nhau. Đất
nước thống nhất vào năm 1802 khi Nguyễn Ánh, dưới sự giúp đỡ của người
Pháp, đánh bại đối phương và lên ngôi với niên hiệu Gia Long.
Chính sự giúp đỡ từ ngoại nhân đã đưa đến sự thống trị của người Pháp.
Trong thời gian gần một trăm năm bị đô hộ, nhiều cuộc nổi dậy chống lại
người Pháp. Từ những cuộc nổi dậy đầu tiên của các nhà cách mạng như
Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, hô hào việc khôi phục lại ngôi vua như
một chánh nghĩa, cho đến cho đến những nhà cách mạng có tinh thần quốc
gia thuộc Quốc Dân Đảng như Nguyễn Thái Học người đã cùng mười ba đồng
chí trả giá cho lòng ái quốc bằng đầu mình trên máy chém vào năm 1930.
Sau đệ nhị thế chiến, một số đảng viên Quốc Dân Đảng được sự trợ giúp
của Trung Hoa, trở về Việt Nam với ý định tranh đấu giành lại độc lập từ
người Pháp. Nhưng với một cơ cấu tổ chức thiếu chặt chẽ; với nội tình
trong đảng có nhiều phân chia, Quốc Dân Đảng không tranh được ảnh hưởng
sâu rộng đối với quần chúng như những Đảng Cộng Sản lúc đó còn nằm dưới
tên Việt Minh. Với cơ cấu tổ chức đảng chặt, ý chí kiên trì, nhóm cộng
sản của Việt Minh chiếm chánh quyền dễ dàng sau khi Nhật đầu hàng Đồng
Minh vào tháng 8, 1945, rồi tuyên bố Việt Nam độc lập vào ngày 2 tháng 9
cùng năm.
Sau đệ nhị thế chiến, với sự hỗ trợ của Anh Quốc, Pháp trở lại miền nam
Việt Nam trước, sau đó vừa thương lượng, vừa hăm dọa miền bắc với ý định
tái lập chánh quyền đô hộ. Nhưng những thương lượng giữa Pháp và Việt
Minh không đem lại kết quả. Sự căng thẳng giữa đôi bên gia tăng... và
chiến tranh bùng nổ vào ngày 19 tháng 12, 1946.
Cuộc chiến tranh chống Pháp kéo dài tám năm. Trong thời gian đó, nhóm
lãnh đạo Việt Minh dần dần trở nên lộ liễu hơn với ý thức hệ cộng sản.
Họ hô hào người dân tiến về "con đường chủ nghĩa xã hội." Hành động
tuyên truyền của những người cộng sản đưa người dân đến một chọn lựa
chính trị: Sau khi Pháp thua trận Điện Biên Phủ và ký hiệp định Geneva
1954, những người không cộng sản đã chọn thái độ chính trị của họ. Từ
sau hiệp định, Nam Việt Nam hiện hữu như một quốc gia độc lập, với một
vận mệnh riêng biệt. Toàn cõi Việt Nam bây giờ là một hữu thể độc lập
chia ra làm hai miền: Miền Bắc với chính thể cộng sản, được Trung Cộng
và Nga hỗ trợ về hai mặt quân sự kinh tế; miền Nam quốc gia được Hoa Kỳ
và các quốc gia không cộng sản phụ giúp. Hoa Kỳ dùng viện trợ kinh tế và
quân sự để xây dựng miền Nam thành một quốc gia độc lập, chống cộng,
như một kế hoạch nằm trong chiến lược ngăn chặn sự xâm lăng của cộng sản
ở vùng Đông Nam Á. (1) Khi chiến tranh tái diễn vào đầu thập niên 1960,
đây cũng là nơi hai thế giới cộng sản và không cộng sản dùng nơi thử
nghiệm vũ khí mới, chiến thuật quân sự, và ý thức hệ chính trị.
Thật sự mà nói, trong khoảng thời gian trợ giúp Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH), với viện trợ quân sự và nhân sự qua các sư đoàn tác chiến, Hoa
Kỳ đã tạo cho VNCH một lực lượng tự vệ đáng kể. Từ một quân lực với
173.000 quân nhân trang bị với vũ khí lỗi thời, quân đội VNCH trở thành
một quân lực hùng mạnh, trang bị vũ khí tối tân, với hơn một triệu quân,
và được coi là quân đội lớn nhất so với các quốc gia không cộng sản ở Á
Châu. Không Quân VNCH lớn hàng thứ sáu trên thế giới, và các sư đoàn
tác chiến tinh nhuệ của VNCH được so sánh ngang hàng với các sư đoàn tác
chiến Hoa Kỳ. Nhưng sự trợ giúp đó cũng là một chuyện đáng tiếc: sau
một thời gian dài nhận viện trợ, quân đội hùng mạnh nầy đã quá lệ thuộc
vào tiền và quân viện để có thể sinh tồn; tinh thần tác chiến quen nhìn
vào khả năng yểm trợ của không lực Hoa Kỳ như một cái mộc chống đỡ sự
xâm lăng lộ liễu của cộng sản từ miền Bắc. Không thể chối cãi là quân
đội VNCH có khả năng tác chiến; họ có khả năng tác chiến và tác chiến
khá.
Nhưng trong một thời gian dài họ tập ra tánh lệ thuộc vào những điều
kiện đã có sẵn; coi những nhu cầu quân cụ là một nguồn viện trợ vô tận,
và Hoa Kỳ lúc nào cũng đứng bên cạnh để giúp đỡ nếu họ bị lâm vào tình
trạng nguy ngập. Lối suy nghĩ như vậy, sau một thời gian, điều kiện hóa
tinh thần của đa số: dân thấy an lòng và quân đội thấy tin tưởng vào sự
giúp đỡ của Hoa Kỳ.
Như vậy, khi Hoa Kỳ chuyển hướng muốn thương lượng với cộng sản và bắt
đầu rút quân khỏi Việt Nam một cách nhanh chóng trong kế hoạch "Việt Nam
hóa", quân đội VNCH chưa chuẩn bị về tinh thần cũng như nhân sự để thay
thế. Làm sao họ có thể thiết lập ngay các đơn vị tác chiến để thay thế
bảy sư đoàn đầy đủ, bốn lữ đoàn biệt lập, và vô số các đơn vị yểm trợ
phụ thuộc của Hoa Kỳ đang có mặt tại Việt Nam. (2) Đó là chưa kể các đơn
vị của các quốc gia của thế giới tự do. Không có vũ khí, quân cụ, huấn
luyện quân sự, hay bất cứ một tuyên truyền chính trị nào có thể thay vào
khoảng trống nhân sự đang thiếu và trấn an được một tâm lý lo sợ sẽ bị
bỏ rơi. Sau khi Hoa Kỳ rút quân, quân lực VNCH bị trải mỏng ra và bắt
đầu thấy được những hậu quả của sự thiếu thốn đó.
Cuộc tấn công của địch quân vào năm 1972 cho thấy sự yếu kém của kế
hoạch Việt Nam hóa một cách thảm thương. Nếu không có sự yểm trợ về
không lực và không vận của Hoa Kỳ quân đội ta khó giữ nổi An Lộc, chận
đứng cuộc tấn công của cộng quân vào Kontum, hay chiếm lại Quảng Trị.
Sau cuộc tấn công năm 1972, những phần đất đã mất, chúng ta để mất luôn
vì không còn khả năng đánh chiếm lại. Nói tóm lại, chúng ta giữ được cán
cân quân sự đối với địch nếu có sự yểm trợ không lực của Hoa Kỳ. Và với
không lực, VNCH có khả năng chống lại mọi cuộc tấn công của miền Bắc.
Nhưng một khúc quanh lịch sử xuất hiện, và khúc quanh đó đưa đến mọi
thay đổi. Hiệp Định Ba Lê được trao vào tay chúng ta như một trát lệnh
tử hình. Việt Nam Cộng Hòa bị dẫn vào một ngõ cụt từ đó. Không ngạc
nhiên khi đối phương gọi bản hiệp định là một chiến thắng. Thật vậy,
cộng sản đã thắng vòng đầu. Khi Hoa Kỳ đã rời khỏi Việt Nam, cộng quân
sửa soạn cho một cuộc tấn công cuối. Họ không còn lo ngại gì nữa: không
kích và yểm trợ của không quân Hoa Kỳ không còn nữa dù chỉ như một hăm
dọa lấy lệ. Cán cân quân sự từ lâu được giữ quân bình một cách cẩn thận
bằng không lực, từ nay nghiêng hẳn về phía địch.
Câu hỏi Hoa Kỳ có trở lại can thiệp hay không là sự quan tâm lớn nhất
khi VNCH miễn cưỡng chấp nhận duyệt xét Hiệp Định Ba Lê. Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu đã không làm khó dễ với Hoa Kỳ, khi ông đòi muốn Hoa Kỳ
bảo đảm can thiệp nếu muốn VNCH ký hiệp định Ba Lê. Sự bảo đảm của Hoa
Kỳ là vấn đề hệ trọng, gắn liền vào sự sống còn của một quốc gia. Hơn
tất cả mọi người, tổng thống Thiệu nhận thấy nếu không có sự bảo đảm của
Hoa Kỳ, VNCH không có cách nào chống lại cuộc tấn công qui mô của quân
đội Bắc Việt với vũ khí tối tân, và quân cụ đầy đủ hơn. Chẳng những sự
can thiệp của Hoa Kỳ là một cần thiết về vấn đề quân sự, lời hứa bảo đảm
còn nâng cao tinh thần của quân đội VNCH. Viễn ảnh VNCH phải chiến đấu
một mình không có sự trợ giúp và bảo vệ của Hoa Kỳ sau hiệp định là
chuyện không thể suy tưởng được. Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa tin khi
tổng thống Nixon thành khẩn hứa là Hoa Kỳ sẽ trả đũa mạnh nếu cộng sản
vi phạm hiệp định Ba Lê. Việt Nam Cộng Hòa coi lời hứa của tổng thống
Nixon là lời hứa của Hoa Kỳ, không nghĩ đến những chuyện khó khăn trong
tương lai sẽ xẩy ra cho Nixon như vụ Watergate, hay quốc hội Hoa Kỳ tức
giận về chuyện đó đến độ ngăn cản những vị tổng thống kế nhiệm thi hành
lời hứa của Hoa Kỳ đối với VNCH dù lời hứa đã được chánh phủ tiền nhiệm
đồng ý thoả thuận.
Đầu năm 1975 cộng quân đánh một ván bài để dò xét phản ứng của Hoa Kỳ:
Họ chiếm tỉnh Phước Long, tiên đoán Hoa Kỳ sẽ không phản ứng gì. Cộng
quân tiên liệu đúng và thắng canh bạc. Bây giờ họ biết chắc Hoa Kỳ sẽ
đứng ngoài cuộc chiến, không bao giờ trở lại. Con đường xâm lăng của
cộng sản vậy là không còn gì cản trở cho đến mục tiêu chiến thắng sau
cùng. (3)
Nếu cái chết của VNCH bắt đầu bằng hiệp định Ba Lê, và sự im lặng của
Hoa Kỳ là một dấu hiệu tốt để cộng sản tiếp tục kế hoạch tối hậu của họ,
thì vấn đề giảm thiểu quân viện đã làm gia tăng tiến trình của hai sự
kiện trên. Từ những bất lợi đó, chuyện VNCH sẽ sụp đổ là chuyện phải xảy
ra. Quân lực VNCH đã quen chiến đấu với số lượng quân trang quân dụng
nhất định, bây giờ khó hoạt động trong hoàn cảnh thiếu thốn như trong
tài khóa năm 1975. Lần đầu tiên trong cuộc chiến, khi cường độ chiến
trường gia tăng mãnh liệt theo hoạt động của địch, quân đội Việt Nam rơi
vào tình trạng yếu thế. Việt Nam Cộng Hòa mất đi sức mạnh hỏa lực và
khả năng cơ động là hai ưu điểm chính yếu để giữ thăng bằng về chiến
thuật đối với một đối phương lúc nào cũng nắm thế chủ động. Bây giờ quân
đội VNCH chỉ còn một hy vọng duy nhất là cầm cự trong trong khi chờ đợi
Hoa Kỳ tái định lại mức quân viện cần thiết như đã cung ứng trong quá
khứ. Nhưng có một nghịch lý trong sự khó khăn khi ngành hành pháp đi xin
ngân khoản tài trợ quân viện: tổng thống Hoa Kỳ phải van xin quốc hội
về một ngân khoản đã được chấp thuận trước. Quốc hội Hoa Kỳ từ chối đề
nghị về ngân quỹ của tài khóa 1975, vì ngôn ngữ trong bản cam kết gọi
chi phí đó là ngân khoản phụ trội hoặc là ngân khoản cho thêm thay vì
tên gọi đúng nghĩa của ngân khoản đó là ngân khoản cần thiết [chữ in
nghiêng của tác giả].
Quân viện bị giảm bớt nặng không những gây ra hậu quả bi thảm ở chiến
trường, sự cắt giảm còn làm các chiến lược gia miền Nam lo âu. Khả năng
giữ được lãnh thổ gắn liền với mức viện trợ. Khi quân viện bị cắt giảm,
nhiệm vụ bảo vệ lãnh thổ nguyên vẹn khó hoàn tất. Các chiến lược gia
VNCH suy luận: phương cách tốt nhất là phòng thủ lãnh thổ theo khả năng
quân viện cho phép. (4) Nói ra nghe đơn giản, nhưng chiến lược phòng thủ
cách đó phản ảnh tình hình thực tại. Đầu năm 1975 khi tổng thống Thiệu
tái bố trí các đơn vị theo hệ thống phòng thủ mới, quyết định của ông
không phải không chín chắn hay không có lý do. Nhưng cũng chính quyết
định nầy là một định mệnh, kéo theo những lầm lẫn tại hại khác. Và những
lỗi lầm tích tụ, đem đến sự sụp đổ của miền Nam.
Nguyên nhân chính làm VNCH sụp đổ nhanh chóng là kế hoạch tái phối trí
các đơn vị được thực hiện quá vội vàng và bất cẩn. Nhưng với một cuộc
phối trí quan trọng và rộng lớn như vậy, dù cho kế hoạch được thực hiện
cẩn thận như hoạch định, xác suất thành công cao lắm cũng chỉ được năm
mươi phần trăm căn cứ trên khả năng truy kích của địch quân. Lịch sử
quân sự cho ta nhiều thí dụ về những cuộc lui quân trở thành một cuộc
tan hàng rối loạn. Đó là lý do tại sao tư lệnh mặt trận rất ngại khi
phải áp dụng kế hoạch lui quân gấp rút. (5)
Trong bối cảnh của chiến tranh Việt Nam, chính trị và quân sự gắn liền
nhau. Ở một cuộc chiến mà người dân cần sự bảo vệ của quân đội và quân
đội chiến đấu vì dân. Khi soạn thảo kế hoạch rút quân, nếu không tiên
liệu phản ứng của dân thì kế hoạch đó kể như thất bại. Quân đội VNCH
không phải như quân đội viễn chinh, chiến đấu trên một lãnh thổ xa lạ.
Khi rút lui hay di chuyển, nếu quân đội không bảo vệ hay di tản dân, thì
đó là hành động vô trách nhiệm và thiếu bổn phận. Sự thất bại của cuộc
tái phối trí quân đội ở Vùng I và II là bằng chứng cho thấy một sự thật
thảm thương: dân và quân đội không thể nào rời nhau được; và sự di
chuyển /di tản của quân đội có thể bị hạn chế bởi số dân đang tìm cách
đi theo. Nguyên nhân sự sụp đổ của quân đội VNCH là những khó khăn đó.
Đó là những nguyên do giải thích sự tan rã nhanh chóng của một quân đội
đã chiến đấu anh dũng cho đến khi bị tan rã vì những biến cố nằm ngoài
khả năng kiềm chế của họ.
Chú Thích Chương 1
1. Ở phần sau của quyển sách tác gỉa sẽ bàn về Chiến Lược Cô Lập, một lý
thuyết ngăn chặn xâm lăng của cộng sản. (chú thích của tác giả).
2. Đại sứ Bunker và tư lệnh MACV Creighton Abrams lần đầu nói chuyện với
tổng thống Thiệu về kế hoạch Việt Nam hóa ngày 17 tháng 1, 1969. Nhưng
từ tháng 4, 1968, tổng thống Thiệu đã tuyên bố người Mỹ có thể rút quân
dần trong tương lai. 11 tháng 4, 1968, tổng thống Johnson bổ nhiệm tướng
Abrams thay tướng Westmoreland làm tư lệnh quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam.
Gần cuối năm 1968, Johnson ra lệnh Abrams nghiên cứu kế hoạch Việt Nam
hóa. Vào tháng 1, 1969, Hoa Kỳ có 359 ngàn quân Bộ Binh; 80 ngàn Thủy
Quân Lục Chiến; 36 ngàn Hải Quân; và 58 ngàn Không Quân ở Việt Nam. Phía
VNCH có tương đương 10 sư đoàn bộ binh (kể luôn sư đoàn Dù và sáu tiểu
đoàn TQLC) và 16 thiết đoàn. Xem Shelby Stanton, The Rise and Fall of an
American Army (Presidio: California, 1985), trang 284-285; Jeffrey J.
Clarke, Advice and Support: The Final Years (U.S. Army Center of
Military: Washington, D.C., 1988) trang 346-347; đô đốc Elmo R. Zumwalt,
Jr., On Watch (Quadrangle: NY, 1976) trang 36, 46-47, 377-378; và Đoàn
Thêm, 1968: Việc Từng Ngày, (Xuân Thu: California, 1989), trang 11, 129
(chú thích của dịch giả).
3. Về những áp lực từ phía Hoa Kỳ bắt buộc Việt Nam Cộng Hòa phải thỏa
thuận Hiệp Định Ba Lê 1973, đọc Larry Berman, No Peace, No Honor: Nixon,
Kissinger and Betrayal in Vietnam (The Free Press: NY, 2001); Nguyễn
Tiến Hưng và Jerrold L. Schecter, The Palace File (Harper & Row: NY,
1986). Về vai trò của Alexander Haig như một người đưa tin giữa Nixon,
Kissinger và tổng thống Thiệu, đọc Roger Morris, Haig: The General
Progress (The Playboy Press: Chicago, 1982) (chú thích của dịch giả).
4. Vào khoảng tháng 1 năm 1974, Bộ Tổng Tham Mưu được phía Hoa Kỳ thông
báo viện trợ quân sự trong tài khoá 74-75 bị cắt giảm 300 triệu mỹ kim.
Tổng Cục Tiếp Vận phụ trách việc cung cấp quân trang, quân dụng, xe cộ,
vũ khí và đạn dược cho toàn thể quân lực VNCH đã nghiên cứu một kế hoạch
để đối phó với tình hình mới. Một cách tổng quát, kế hoạch nhận định
là, chương trình quân viện bị cắt giảm chỉ có thể thỏa mãn một quân đội
với số quân ít hơn; và số quân đó chỉ có khả năng phòng thủ một lãnh thổ
tương xứng của VNCH mà thôi. Kế hoạch này rấy hợp lý trên thực tế.
Nhưng tổng thống Thiệu, với tư cách Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Lực VNCH,
đã đề ra đường lối quốc gia "Bốn Không" (một trong những cái không đó là
không cắt đất cho cộng sản). Thấy kế hoạch của Tổng Cục Tiếp Vận trái
với quốc sách trên nên tác giả không chỉ thị trình lên tổng thống một
cách chính thức. Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Liên Quân
kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, được phép trình miệng kế hoạch
trên cho tổng thống. Theo lời tướng Khuyên trình lại, sau khi nghe
thuyết trình, tổng thống Thiệu không có chỉ thị gì thêm, và tổng thống
cũng không có chỉ thị nào trực tiếp cho tác giả. Vì những lý do trên, kế
hoạch bị bỏ qua một bên (chú thích của tác giả).
5. Chương Tan Hàng Rối Loạn ở Cao Nguyên sẽ nói thêm về phương cách nào
có thể chiếm lại được Ban Mê Thuột (Chú thích của tác giả).
No comments:
Post a Comment