Cả nước Việt Nam đang háo hức chuẩn bi đón mừng ngày lễ lớn đó, tôi cũng rất mừng vì tôi thuộc về bên ‘có một triệu người vui’.
Nhưng tôi vẫn muốn nói lên cảm nghĩ thật lòng, dù có khi sẽ bị ném đá.
Theo
sự hiểu biết thiển cận của tôi, hai chữ “giải phóng” có nghĩa là, được
giải thoát khỏi một sự gì hoặc giải thoát khỏi một cái gì đó. Liên tưởng
tới sự kiện 30-4-1975, với những gì xảy ra trong gia đình chúng tôi, và
điều bản thân tôi đã từng trải, khiến tôi luôn đi tìm giải đáp cho câu
hỏi: Miền Bắc và miền Nam, ai đã giải phóng ai? Và giải phóng khỏi cái
gì?
Hai chữ “họ hàng” sau sự kiện 30-4 -75 đã có thêm một nghĩa mới: miền Nam đi tìm họ, miền Bắc đi tìm hàng.
Hằng
ngày ngùn ngụt đám dân Bắc vào Nam, và khi quay ra, trên tàu hỏa và tàu
thủy chất đầy những thứ hàng mà nhiều người Bắc lúc đó chưa nhìn thấy
bao giờ. Tivi trắng đen tivi màu, tủ lạnh tủ đá đủ cỡ, xe máy các kiểu,
máy dệt len gọn nhẹ, những dàn máy nhạc Akai, máy cassette. Kể cả những
rổ rá, xô thùng chậu bằng nhựa đủ màu sắc… Ai cũng tấm tắc khen: “Ôi,
sao đẹp thế!”
Anh
cả và anh hai của chồng tôi vào Sài Gòn từ trước năm 54, một anh là hoa
tiêu và một anh là thuyền trưởng làm việc tại cảng Sài Gòn. Sau khi Sài
Gòn được tiếp quản, để bảo đảm cho hoạt động ở cảng, và nhất là nhu cầu
rất lớn cho sự đi lại bằng tàu thủy giữa Sài Gòn và Hải Phòng, rất cần
những người có kinh nghiệm để hướng dẫn tàu thuyền ra vào cảng an toàn.
Nên theo yêu cầu của Ban Quân Quản lúc đó, hai anh phải tiếp tục làm
việc tại cảng, may không bị đi học tập cải tạo.
Khi
được phép là các anh đã đón ngay bố vào Sài Gòn. Trong cuộc cải tạo tư
sản ở miền Bắc, nhà máy, cửa hàng, nhà cửa của gia đình bị tịch thu, và
ông chủ tư sản là bố chồng tôi, dù đã hơn 60, vẫn bắt buộc phải đi làm
công nhân trong nhà máy gạch. Cụ bị máy cán mất một chân, từ đó mấy chục
năm cụ chỉ toàn chống nạng. Sau bao năm gặp lại, các anh ôm bố khóc nức
nở như đứa trẻ. Ngay lập tức, các anh đưa bố đi làm chân giả. Ông chủ
cửa hàng chân giả đã biếu không cho bố hai chiếc để cụ thay nhau. Ông
nói: “Mai mốt rồi cửa hàng tôi sẽ bị đóng, và những chiếc chân này rồi
sẽ vào sọt rác thôi.” Chỉ đúng tuần sau cửa hàng ông bị tịch thu. Khi
thấy cụ sau bao năm đã bỏ được chiếc nạng khốn khổ, có thế đi lại thẳng
lưng với chiếc chân giả nhẹ nhàng, trông cụ trẻ ra hàng chục tuổi, không
ai có thể cầm nổi nước mắt.
Tất
cả anh chị em chúng tôi cũng lần lượt được các anh đón vào Sài Gòn
chơi, và được các anh cho xe máy, tivi, tủ lạnh, tủ đá. Trong lúc cả phố
nhà tôi ở Hà Nội chưa nhà nào có tủ lạnh, với chiếc tủ đá chúng tôi làm
đá bán, vào những ngày nắng chảy mỡ và lúc có điện, người vào mua đá
như chảy hội. Cô em được chiếc máy dệt gọn nhẹ, cô bắt đầu làm gia công
dệt áo thêm đồng ra đồng vào. Cảm giác lúc đó của chúng tôi khi nhận
những món qùa nhìn thấy lần đầu là: sững sờ không tin vào mắt mình, và
rồi sung sướng đến không sao tả xiết. Cái mà khiến chúng tôi mê li nhất
là dàn máy Akai với cả bộ thùng loa mà chúng tôi chưa bao giờ được biết
đến.
Tối
tối mỗi khi có điện, đám bạn đến đầy nhà để nghe bài nhạc Pháp: “Bang
Bang”. Khi đó chúng tôi chẳng biết tên bài hát là gì, tác giả và ca sĩ
đang hát là ai. Sau đoạn lời tếng Pháp mà chúng tôi mù tịt, thật may cô
ca sĩ hát cả tiếng Việt, nên chúng tôi cũng hiểu mập mờ nội dung bài
hát. Khi sống trong cảnh cả ngày chỉ nghe đài phát thanh phát ra những
bài hát như thét như gào ‘không cho chúng nó thoát, chúng bay vào sẽ
không có đường ra nó…’ quen tai, bây giờ được nghe hai tiếng ‘bang bang’
với âm điệu du dương đến mê hồn, khiến chúng tôi không ngờ trên đời này
lại có những loại nhạc làm lay động lòng người đến như vậy.
Khi xưa đôi ta bé ta chơi
Đôi ta chơi bắn súng khơi khơi
Chơi công an đi bắt quân gian
Hiên ngang anh giơ súng ngay tim: Bang! bang!
Anh bắn ngay em: Bang! bang!
Em ngã trên sân: bang! bang!
Tiếng súng khi xưa: bang!bang!
Ta sẽ không quên bao giờ ….
Đôi ta theo nhau lớn lên mau
Đôi ta luôn thân thiết bên nhau
Ta yêu nhau như lũ bé con
Nhưng anh ham chơi bắt nhau luôn: bang! bang!
Anh thích lăng quăng: bang! bang!
Em cũng theo anh: bang! bang!
Tiếng súng khi xưa: bang! bang!
Ta sẽ không quên bao giờ…
Đám
con gái đàn bà chúng tôi cứ như bị thôi miên, ôi sao nhạc du dương đến
mê hồn, hai tiếng “bang bang” êm dịu, ngọt ngào, đằm thắm như nụ hôn ban
đầu.
Không
chỉ riêng nhà tôi, mà cả phố Hàng Bông Hà Nội như được thay hình đổi
dạng. Tất cả các cửa hàng bày la liệt hàng từ trong Nam buôn ra, muôn
màu muôn vẻ, dân chúng đến ngắm như chảy hội.
Gia
đình chồng tôi bị kết tội là nhà tư sản, nên ngôi nhà duy nhất còn lại,
do mồ hôi công sức bố mẹ làm nên, cũng bị liệt vào diện tịch thu. May
có mấy người làm chứng, vì bố đã dấu mấy anh Việt minh trong nhà khỏi bị
lính Pháp bắt, nên gia đình vẫn được sống ở phần trong của nhà đó, còn
phần cửa hàng mặt phố thuộc về nhà nước cho thuê.
Bà
chủ thuê cửa hàng trước đó chỉ bầy bán giây điện, bóng đèn linh tinh.
Sau 30-4, bà bán các máy dàn nhạc, cassette cũ từ trong Nam buôn ra. Cứ
mỗi khi có điện, là con cái bà mở nhạc Abba vang ầm cả phố. Dù cho nắng
mùa hè nóng chảy mỡ, nhưng tiếng hát vẫn cứ véo von: “Happy New Year,
Happy New Year…” Bà chủ mồ hôi dòng dòng trên trán, nói với các con, mà
ngoại ngữ cũng mù tịt như bà, rằng: “Chẳng biểt nó hát gì, nhưng nghe
cũng hay hay.”
Tôi
đi chợ đầu phố Hàng Da, chị bán rau cứ mời chào: “Em ơi, mua mướp tươi
đi, chị sẽ gọt vỏ cho.” Nghe vậy tôi bèn ngồi xuống trước gánh rau của
chị. Tôi rất ngại gọt vỏ qủa mướp, dù dao có sắc mấy, khi gọt vẫn bị
nham nhở và mất sâu phần thịt. Vì vậy người bán cũng chẳng bao giờ gọt
hộ người mua. Lúc này chị cầm trong tay chiếc dao gọt tôi chưa thấy bao
giờ, tay chị lướt nhẹ nhàng từ trên xuống dưới quả mướp, vỏ mỏng như tờ
giấy cứ đều đều chui từ giữa kẽ dao rơi xuống vẫn đúng chiều dài của qủa
mướp. Chỉ trong tích tắc, qủa mướp hết vỏ vẫn tròn trịa như nguyên. Với
nét mặt thật sung sướng chị nói : “Cái thứ dao của bọn ngụy hay thật.”
Mấy chị đang đứng chờ mua cũng xen vào: “Thế đấy, cái dao đơn giản và
thuận tiện thế mà miền Bắc xã hội chủ nghĩa cũng không làm nổi…”
Và
trên đường người ta cũng chứng kiến những anh bộ đội được về nhà, khi
bước ra khỏi tàu Thống Nhất, trên lưng ba lô căng đầy và trong tay ôm
con búp bê mắt to mặc váy đầm đẹp tuyệt về làm qùa cho con. Ngay cả
những đồ chơi cho thiếu nhi của ‘bọn ngụy’ mà sao cũng đẹp tuyệt, đã là
những câu cửa miệng của mọi người.
Như
vậy là, sau 30-4-75, dân của thủ đô Hà Nội đã được tiếp cận văn minh tủ
lạnh, đã được biết trên thế giới này, ngoài nhạc cách mạng Việt Nam,
còn có thứ nhạc hay đến thôi miên con người đến chừng nào. Và nhờ con
dao đơn giản made in Sài Gòn mà chị hàng rau cảm thấy sung sướng vì bán
được nhiều hàng hơn.
Thật
may cho chúng tôi, sau khi nhận qùa của các anh cho không lâu, thì nhà
các anh cũng bị quân quản đến khám, tất cả những gì còn lại trong kho bị
tịch thu hết. Nhà to của các anh, kể cả phần có bể bơi cũng bị trưng
thu mất một nửa. Khi những ‘chuyên gia’ Nga xuất hiện tại cảng Sài Gòn,
biết là khi kẻ thắng không cần đến mình nữa, rồi cũng sẽ bị vào tù. Các
anh đã bắt buộc phải ra đi. Các anh phải bí mật ra đi, chia tay không
lời chào với người cha sau bao năm mới gặp lại, và rồi chưa biết có được
gặp lại nhau nữa không. Lần đầu tiên tôi thấy bố chồng khóc, nước mắt
dàn dụa, và từ đó nụ cười đã biến khỏi trên khuôn mặt nhăn nheo của cụ,
còn lại chỉ là những vết hằn của nỗi đau vô tận.
Sau
vài tháng 30-4-75, là một làn sóng di cư ầm ầm từ Bắc vào Nam của những
gia đình cán bộ cách mạng vào tiếp quản những vila, căn nhà lớn nhỏ của
những kẻ thua cuộc, và họ tận hưởng trong niềm vui với những chiến lợi
phẩm mà họ giành được.
Tất
cả những gì tôi kể trên là sự thật trăm phần trăm. Và cũng chính bởi
vậy, nên khiến tôi cứ đi tìm giải đáp cho câu hỏi: Sự kiện 30-4-75, miền
Bắc và miền Nam, ai đã giải phóng ai? Và giải phóng khỏi cái gì? Một sự
thật mà bất kỳ ai còn có lòng trung thực đều không thể phủ nhận là:
30-4-75 đã giải phóng miền Bắc khỏi sự nghèo nàn lạc hậu, đã cho dân Bắc
được tiếp cận tới sự văn minh của nhân loại.
Trần Lệ Bình
No comments:
Post a Comment