Tuesday, April 22, 2025

Chương 2: Tình Hình Trước Hiệp Định Ba Lê Những Ngày Cuối Của VNCH (The Final Collapse - General Cao Van Vien). Dịch Giả: Nguyễn Kỳ Phong

Sau cuộc tấn công của cộng sản vào tháng 4, năm 1972 (Mùa Hè Đỏ Lửa), quân đội VNCH được lệnh tái chiếm các phần đất đang nằm trong tay địch. Ở Quân Khu I, hành quân Lam Sơn 72 được khai diễn với sự tham dự của sư đoàn 1 Bộ Binh (SĐ1/BB); sư đoàn Nhảy Dù (SĐND); sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC); và các đơn vị phụ thuộc. (1) Đến ngày 15 tháng 9, 1972, quân ta đã chiếm lại thành phố Quảng Trị và phần lớn lãnh thổ của tỉnh. Một hành lang phòng thủ được thiếp lập song song với sông Thạch Hãn, chạy dài ra bờ biển. Cộng quân chống trả rất mãnh liệt ở Quảng Trị, và có lúc mở nhiều cuộc phản công không thành ở phía nam Q/Khu I.


Ở Quân Khu II, nhiều cuộc hành quân được tổ chức nhằm giải tỏa áp lực địch ở Kontum, Pleiku, tái chiếm thung lũng An Lão ở Bình Định, giải tỏa các quốc lộ 19, 21, và đoạn đường Pleiku-Kontum trên quốc lộ 14. Để thực hiện nhiệm vụ đó, quân đoàn II được bổ sung thêm hai liên đoàn Biệt Động Quân (BĐQ), có cấp số tương đương hai trung đoàn. Hai liên đoàn này được tổ chức lại và đến từ Quân Khu IV (quân khu và quân đoàn giống nhau trong ý nghĩa quân sự; quân đoàn I phụ trách an ninh cho quân khu I; quân đoàn II cho quân khu II, v. v. . .)

Ở Quân Khu III, lực lượng chúng ta thành công giải tỏa An Lộc và vùng phụ cận. Tuy nhiên khoảng đường từ Lai Khê lên An Lộc trên quốc lộ 13 vẫn còn bị phong tỏa.

Trong khi đó, tình hình ở Quân Khu IV nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ của quân đội VNCH. Tất cả các cuộc đụng độ giữa ta và địch đều xảy ra trên đất Cam Bốt. Tuy nhiên một số xã ấp ở Chương Thiện vẫn còn bị cộng quân chiếm.

Tình hình quân sự trong nửa năm còn lại của năm 1972, nói một cách tổng quát, ta và địch ngang nhau trên chiến trường. Trong khi đó kế hoạch rút quân của Hoa Kỳ đang tiếp tục diễn ra. Đến năm 1973, địch có phần mạnh hơn vì chúng ta không còn được yểm trợ về không lực của Không và Hải Quân Hoa Kỳ.

Về phương diện chính trị, để đối đầu với tình trạng khẩn trương của năm 1972, chính quyền trung ương VNCH áp dụng một số biện pháp mạnh. Thiết quân luật được ban hành toàn quốc; giới hạn và gia tăng điều kiện miễn dịch đối với thanh niên trong lứa tuổi động viên. Ban hành sắc luật cấm nam công dân trong khoảng tuổi 17-43 du hành ra nước ngoài. Cùng lúc quốc hội ủy nhiệm tổng thống được toàn quyền quyết định về vấn đề kinh tế và quốc phòng trong thời gian từ tháng 7 cho đến tháng 12 năm 1972. Luật báo chí mới được áp dụng để chính phủ có thể kiểm soát các cơ quan ngôn luận hữu hiệu hơn. Cuộc bầu cử xã ấp của năm 1972 bị hủy bỏ. Thay vào đó các tỉnh trưởng được lệnh cải tổ lại cơ sở địa phương và chỉ định các trưởng ấp và xã trưởng trong vòng hai tháng.

Những Thương Thuyết Đầu Tiên

Trên quan điểm quân sự, cộng sản thất bại nặng nề trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968. Nhưng về quan điểm chính trị và ảnh hưởng đối với tâm lý quần chúng, cuộc tấn công Tết Mậu Thân đem lại cho cộng sản ưu điểm. Thắng hay bại, qua trận Tết Mậu Thân, quần chúng Mỹ thất vọng về cuộc chiến ở Việt Nam. Khi đại tướng Westmoreland xin tiếp viện thêm hai trăm ngàn quân cho chiến trường, giới quan sát đi đến nhận xét là cuộc chiến Việt Nam khó giải quyết đơn thuần bằng vấn đề quân sự. Ngày 31 tháng 3, 1968, tổng thống Johnson tạm ngưng oanh tạc từ vĩ tuyến 20 trở lên, và đề nghị một giải pháp hòa bình. Cùng ngày, tổng thống Johnson tuyên bố ông không ra tái tranh cử cho nhiệm kỳ tổng thống sắp đến. Một tháng sau Bắc Việt đồng ý thương nghị hòa đàm, với cuộc họp đầu tiên vào ngày 10 tháng 5, 1968, giữa W. Averell Harriman và Xuân Thủy. (2) Lần nói chuyện đó không đi đến đâu. Để thúc đẩy Bắc Việt thật sự thương lượng và chứng tỏ thiện chí của Hoa Kỳ, tổng thống Johnson vào ngày 31/10, ra lệnh ngưng dội bom trên toàn lãnh thổ Bắc Việt. Nhiều cuộc hội đàm được diễn ra sau đó, nhưng không có một kết quả nào đáng kể sau một năm dài thương nghị.

Cũng trong tiến trình tìm giải pháp hòa bình cho Việt Nam, ngày 7 tháng 4, 1969, chính phủ VNCH đề nghị một giải pháp sáu điểm:

1. Cộng sản phải rút hết quân khỏi miền Nam.
2. Ngưng xử dụng căn cứ ở Lào và Cam Bốt.
3. Chủ trương hòa hợp và đại đoàn kết dân tộc.
4. Sự thống nhất đất nước sẽ được thực hiện trong tinh thần hòa hợp.
5. Cần sự quốc tế kiểm soát để bảo đảm cộng sản sẽ không xâm lấn trong tương lai.
6. Ân xá cho các phần tử cộng sản ở miền Nam nếu họ tuyên thệ từ bỏ bạo động và tuân theo luật pháp. (3)

Một tháng sau, ngày 8 tháng 5, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đề nghị ngược lại một lập trường 10 điểm, nhằm chấm dứt chiến tranh:

1. Tôn trọng chủ quyền quốc gia của Việt Nam theo tinh thần hiệp định Geneva.
2. Hoa Kỳ và quân đội Đồng Minh phải tháo gỡ quân cụ, vũ khí, và rút khỏi miền Nam vô điều kiện.
3. Vấn đề có mặt của các lược lượng quân sự ở miền Nam sẽ do người Việt Nam tự giải quyết lấy.
4. Thiết lập một cuộc bầu cử trong tinh thần tự do dân chủ để lập một quốc hội lập hiến và một chính phủ liên hiệp.
5. Trong thời gian chờ cuộc bầu cử tổ chức, không phía nào được ép người dân theo chế độ của mình.
6. Miền Nam sẽ theo một chính sách đối ngoại trung lập và hòa bình.
7. Sự thống nhất đất nước sẽ theo những giai đoạn hòa giải, không có sự can thiệp của ngoại quốc.
8. Hai bên sẽ tránh liên kết về quân sự với nước ngoài trong khi chờ đợi sự thống nhất.
9. Vấn đề trao trả tù binh sẽ được hai bên giải quyết.
10. Quốc tế sẽ kiểm soát Hoa Kỳ và Đồng Minh rút quân khỏi Việt Nam.

Hai giải pháp có nhiều dị biệt. Những điểm chánh là (1) VNCH nhấn mạnh điểm cộng sản phải rút quân khỏi miền Nam, trong khi cộng sản đòi Hoa Kỳ và Đồng Minh rời Việt Nam vô điều kiện; (2) VNCH đề nghị một chương trình hòa giải dân tộc, cộng sản thì muốn một hiến pháp mới và một chánh phủ liên hiệp (một chính phủ bất lợi cho VNCH); (3) Hai bên đều muốn có sự kiểm soát của quốc tế. Nhưng cộng sản muốn quốc tế kiểm soát Hoa Kỳ và Đồng Minh rút quân, VNCH muốn sự hiện diện của quốc tế như một bảo đảm cộng sản sẽ không tiếp tục gây hấn. Sự dị biệt giữa hai giải pháp hòa bình làm cho cuộc hội ngưng trệ đến những tháng đầu năm 1970. Để thể hiện thêm thiện chí trong cuộc hòa đàm, Hoa Kỳ tuyên bố sẽ sẽ rút 25 ngàn quân khỏi Việt Nam cuối tháng 8, 1970, và sẽ thực hiện kế hoạch Việt Nam hóa ngay. (4) Cộng sản trả đũa lập tức, tuyên bố sự thành hình của một Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời từ ngày 10 tháng 6, 1969.

Trong khi cuộc hội đàm kéo dài và không đi đến đâu, ở Mỹ, sinh viên và hội đoàn tổ chức nhiều cuộc biểu tình phản đối chiến tranh vào những tháng cuối của năm 1969. Trong khi đó, đối diện với những gia tăng hoạt động quân sự của cộng sản, Hoa kỳ và VNCH mở một cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt vào ngày 29 tháng 4, 1970. Từ trước đến giờ, các căn cứ của cộng sản nằm trên đất Cam Bốt được coi là bất khả xâm phạm. Trong cuộc hành quân này, vô số vũ khí, quân trang và quân dụng của cộng sản bị tịch thu hay phá hủy. Tuy cộng sản đang ra mặt thương lượng, nhưng họ tiếp tục xâm nhập người và vũ khí vào Nam.

Vào ngày 8 tháng 2, 1971, quân đội VNCH mở cuộc tấn công vào Hạ Lào với mục đích phá hủy các căn cứ hậu cần và binh trạm của cộng sản thiết lập dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh. Cuộc tấn công qua Hạ Lào chỉ thành công một phần, vì thời tiết bất lợi và khả năng không vận bị giới hạn. Trong khi đó, ở bàn hội nghị, cộng sản vẫn không chịu nhân nhượng với đề nghị của họ. Đại sứ David K.E. Bruce, trưởng đoàn hòa đàm, tuyên bố là trong hai năm qua cộng sản chỉ dùng bàn hội nghị để tuyên truyền chứ không thật sự muốn tìm một giải pháp hòa bình. Đại sứ Phạm Đăng Lâm phiá VNCH cũng báo cáo về Saigon tương tự.

Quân đội Hoa Kỳ tiếp tục rời Việt Nam theo chương trình giảm quân trong kế hoạch Việt Nam hóa như đã định. Bộ Tổng Tham Mưu (BTTM) và Bộ Tư Lệnh Quân Viện Hoa Kỳ (MACV) hợp tác chặt chẽ để đạt được mục tiêu chính trị của kế hoạch. Trong năm 1971, cộng quân tiếp tục pháo kích vào thành phố và tấn công qua khu phi quân sự. Để trả đũa, Hoa Kỳ oanh kích trở lại các mục tiêu quân sự ở miền Bắc. Nhưng chiến dịch dội bom không làm cuộc hòa đàm ở Ba Lê tiến triển thêm. Cuộc dội bom của Hoa Kỳ cũng không ngăn được Bắc Việt xâm nhập và tích tụ nhiều lực lượng mạnh để chuẩn bị một cuộc tấn công qui mô bắt đầu vào ngày 30 tháng 3, 1972. (5) Một tháng sau, cuộc hòa đàm ở Ba Lê được đình hoãn.

Cuộc hòa đàm "cởi mở" ở Ba Lê là như vậy. Tình trạng chúng ta đối diện ở Ba Lê giống như cuộc hòa đàm giữa Hoa Kỳ và Bắc Hàn gần hai mươi năm về trước. Trong hai hội nghị, cộng sản dùng giống một chiến thuật "vừa đánh vừa đàm" để đạt được mục tiêu tương tự. Cho đến lúc Henry Kissinger, cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống Nixon, trực tiếp tham dự thương thuyết bằng nhiều cuộc gặp gỡ bí mật với phía bên kia thì cuộc hòa đàm mới chuyển hướng. Đối với Kissinger, cuộc chiến Việt Nam đã kéo dài quá lâu. Hai bên không thể nào chấp nhận những quan điểm khác biệt để có thể cùng bỏ súng và tin tưởng nhau, để đi đến một sự hòa hợp. Mỗi bên đều nghi ngờ đối phuơng luôn giấu một lá bài tẩy trong tay và sẽ xử dụng để lừa bên kia. Kissinger suy luận, cách duy nhất để gây được lòng tin với nhau là những liên lạc riêng. Kissinger là người thấy được giá trị của kẻ trung gian trong các cuộc thương nghị. Tuy không phải là một chuyên viên về vấn đề Đông Nam Á lúc bấy giờ, nhưng Kissinger đã từng được TT Johnson ủy nhiệm việc liên lạc bí mật đầu tiên với đại diện ngoại giao của Bắc Việt là Mai Văn Bộ qua trung gian của hai người Pháp mà Kissinger quen biết. (6)

Khi Nixon trở thành tổng thống, Kissinger, nay đã thành cố vấn an ninh quốc gia, thuyết phục Nixon cho ông ta tiếp tục đường lối ngoại giao bí mật. Được sự ưng thuận của Nixon, Kissinger và Xuân Thủy gặp nhau lần đầu tiên vào tháng 8, 1969, ở tư gia của Jean Sainteny ở Ba Lê. Sau đó, từ tháng 2 cho đến tháng 4, 1970, Kissinger và Lê Đức Thọ bí mật gặp nhau bốn lần, nhưng không đem lại một tiến triển nào. (7) Trong lần nói chuyện vào tháng 9, 1970, Kissinger đề nghị Hoa Kỳ không còn đòi hỏi một cuộc rút quân song phương. Thay vào đó, Kissinger đề nghị một giải pháp đình chiến tại chỗ. Phiá cộng sản thì muốn Hoa Kỳ ngưng trợ giúp VNCH và thay chánh phủ đó bằng một chánh phủ liên hiệp như những điều kiện tiên quyết cho giải pháp hòa bình. Nói như vậy là Hoa Kỳ phải đứng vào vị trí bảo đảm cho những hoạt động của cộng sản ở miền Nam được tiếp tục để được rút quân ra khỏi cuộc chiến trong danh dự. Hoa Kỳ đã nhân nhượng nhiều trong những lần thương nghị, nhưng đối với nhiều đòi hỏi vô lý của Bắc Việt, cuộc nói chuyện bí mật giữa hai bên bị bế tắc.

Sau hai trận hành quân đánh qua Cam Bốt và Hạ Lào, Hoa Kỳ tiếp tục nhượng bộ cộng sản với một đề nghị mới gồm hai điểm: (1) Hoa Kỳ sẽ rút quân sáu tháng sau ngày hai bên đồng ý đi đến một thỏa hiệp. (2) Tổng thống thống Thiệu sẽ từ chức một tháng trước ngày có cuộc tổng tuyển cử. Bắc Việt từ chối đề nghị đó trong lần nói chuyện vào ngày 3 tháng 5, 1971. Trong năm lần gặp tiếp theo vào tháng 6, 7 và 8, tất cả các đề nghị mới của Hoa Kỳ đều bị từ chối, dù Hoa Kỳ cố gắng thay đổi theo ý muốn của cộng sản. Đến lần nói chuyện vào tháng 9 thì Hoa Kỳ mới hiểu ý định thật sự của cộng sản: Họ muốn Hoa Kỳ trao miền Nam cho họ trước khi Hoa Kỳ rút quân. Phải cần đến ba năm dài thương lượng Hoa Kỳ mới thấy được ý đồ của cộng sản! Cũng trong lần nói chuyện đó, cộng sản nhận thấy Hoa Kỳ muốn cố gắng tìm một giải pháp để chấm dứt chiến tranh, chứ không chỉ tìm một hiệp định chấm dứt chiến tranh như một che đậy cho sự đầu hàng. (8)

Ngày 20 tháng 3 năm 1972 Hoa Kỳ đề nghị hai bên tiếp tục thương thuyết lại. Bắc Việt đồng ý, nhưng sau đó xin đình hoãn đến ngày 15 tháng 4. Hoa Kỳ lại đề nghị ngày họp mới là 24 tháng 4. Chưa nhận được trả lời từ phía cộng sản thì ngày 31 tháng 3, 1972, cộng sản tấn công qui mô trên toàn lãnh thổ VNCH. Theo tôi nghĩ, qua sự che giấu khéo léo, cộng sản đã giữ được bí mật ngày giờ của cuộc tấn công, dù họ đã hoạch định và chuẩn bị cuộc tấn công ngay sau lần nói chuyện cuối cùng của năm 1971.

Tình hình quân sự ở miền Nam vào tháng 4 năm 1972 nguy ngập đến độ Hoa Kỳ lo sợ VNCH có thể thất thủ. Ngày 2 tháng 5, Lê Đức Thọ và Kissinger trở lại bàn hội nghị. Đối diện với những diễn tiến quân sự không được khả quan ở miền Nam, Hoa Kỳ đề nghị nếu Bắc Việt ngưng tấn công, đình chiến, và trao trả tù binh, Hoa Kỳ sẽ rút quân trong vòng bốn tháng. Lê Đức Thọ lập tức bác bỏ đề nghị đó, và quyết liệt muốn Hoa Kỳ thay chính phủ VNCH bằng một chính phủ liên hiệp. Với những đỏi hỏi vô lý như vậy, Hoa Kỳ cho Bắc Việt biết đề nghị của họ không thể nào được chấp nhận. Sau đó Hoa Kỳ gia tăng cường độ oanh tạc miền Bắc và phong tỏa hải cảng Hải Phòng và các thủy đạo quan trọng của Bắc Việt. Qua sự can thiệp của Nga và Trung Cộng, hai bên trở lại thương lượng với nhau vào những ngày 1, 14, và 19 tháng 8, 1972. Trong những lần hội đàm đó, tuy cộng sản vẫn muốn thấy Hoa Kỳ ép tổng thống Thiệu từ chức trước khi nói đến chuyện ngưng bắn, thái độ của họ trở nên hòa hoãn hơn. Họ công nhận Việt Nam có hai chính phủ, hai quân đội và một thực thể chính trị thứ ba: Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời của cộng sản ở miền Nam được coi như ngang hàng chính phủ VNCH.

Sửa Soạn Ngưng Bắn

Tiến sĩ Kissinger đến Saigon gặp tổng thống Thiệu ngày 16 tháng 8, 1972. Kissinger nói cho tổng thống Thiệu về những áp lực chính trị ở nội địa Hoa Kỳ, và những áp lực này có thể ảnh hưởng đến cuộc bầu củ tổng thống như thế nào. Kissinger đồng thời lập lại sự cương quyết của tổng thống Nixon đi tìm một giải pháp hòa bình cho chiến tranh Việt Nam. Ngày 11 tháng 9, 1972, Kissinger và Lê Đức Thọ gặp lại ở Ba Lê. Nhưng trong cuộc họp lần này tất cả sự thỏa thuận đã có từ những lần trước được viết ra thành văn kiện. Sự thỏa thuận, nói một cách tổng quát là: Vì Việt Nam có hai chính phủ, hai quân đội, và nhiều lực lượng chính trị khác, nên nếu đi đến một chính phủ hòa hợp hòa giải thì điều này phải được thực hiện bằng một giải pháp hoà bình, và hai bên tránh tìm cách triệt hạ nhau. VNCH sẽ không bị cưỡng ép theo một chế độ thân cộng hay thân Mỹ. Như vậy, lần đầu tiên trong cuộc hòa đàm, cộng sản bỏ ý định yêu cầu Hoa Kỳ thay thế chính phủ VNCH bằng một chính phủ thân cộng. (9)

Lần gặp vào ngày 26 tháng 9, Bắc Việt thêm vào bản thỏa hiệp một Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải Quốc Gia. Với nhiều tiến triển khả quan xảy ra cho cuộc hòa đàm, mọi người hy vọng hòa bình sẽ được thực hiện trong những ngày sắp đến. Ngày 8 tháng 10, 1972, Kissinger trở lại thương lượng tiếp. Đó là lần thứ 19 Kissinger băng qua Đại Tây Dương để hội đàm với Lê Đức Thọ. Bắc Việt và Hoa Kỳ thỏa thuận với nhau qua một bản dự thảo bằnh Anh ngữ, trong đó Bắc Việt đồng ý coi vấn đề chính trị và quân sự là hai vấn đề khác nhau và phải được giải quyết riêng rẽ; Hai bên đồng ý ngưng bắn tại chỗ; Và vấn đề chính trị của miền Nam sẽ được giải quyết bởi hai miền. Như vậy, bản dự thảo kết thúc một cuộc đối thoại dài mấy năm trời của hai người điếc. (10) Tuy nhiên bản dự thảo còn nhiều chi tiết cần được bổ túc thêm. Sơ thảo của bản hiệp định giữa Kissinger và Lê Đức Thọ bao gồm chín điểm:

1. Hoa Kỳ tôn trọng chủ quyền, lãnh thổ và độc lập của Việt Nam.
2. Cuộc ngưng bắn sẽ được thực hiện hai mươi bốn giờ sau khi hiệp định có hiệu lực. Quân đội Hoa Kỳ sẽ rút khỏi miền Nam trong vòng 60 ngày.
3. Tất cả tù binh sẽ được trao trả trong vòng 60 ngày.
4. Thành lập một cơ cấu hành chánh gọi là Hội Đồng Hòa Hội hợp Hòa Giải Quốc Gia, gồm ba thành phần, để tổ chức cuộc bầu cử.
5. Sự thống nhất VN sẽ được thực hiện từng phần qua phương cách hòa hợp.
6. Một Ủy Ban Kiểm Soát và Giám Sát Quốc Tế sẽ được thiết lập.
7. Tổ chức một hội nghị quốc tế trong vòng 30 ngày để bảo đảm hòa bình ở Việt Nam.
8. Tất cả các lực lượng hứa sẽ tôn trọng độc lập, chủ quyền và lãnh thổ của Lào và Cam Bốt.
9. Hoa Kỳ sẽ góp phần vào công cuộc tái thiết hậu chiến ở miền Bắc và Đông Dương.

Được sự khuyến khích của tổng thống Nixon, Kissinger gặp lại Lê Đức Thọ hai ngày 9 và 10 tháng 10, mỗi ngày 16 tiếng để tiếp tục thương lượng. Một số dị biệt của hai phía được giải quyết, và cả hai đi đến một thời khoá biểu thực thi hiệp định: Hoa Kỳ ngừng oanh tạc và ngừng thả mìn phong tỏa Bắc Việt vào ngày 18; Sau khi được tổng thống Thiệu chấp nhận, Hoa Kỳ và Bắc Việt sẽ ký bản thỏa hiệp ngày hôm sau, 19 tháng 10, 1972.

Bản hiệp định chính thức sẽ được bốn bên, VNCH, Bắc Việt, Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời, và Hoa Kỳ, ký tại Ba Lê vào ngày 26/10/1972. Và cuộc ngưng bắn sẽ được thi hành vào ngày, 27/10.

Mọi việc tiến triển tốt đẹp. Hai bên muốn thấy cuộc ngưng bắn xảy ra trước ngày bầu cử tổng thống Hoa Kỳ. Bắc Việt sốt sắng hơn, vì họ nghĩ tổng thống Nixon sẽ không nhân nhượng nhiều sau khi được tái đắc cử. Tin tức của cuộc mật đàm giữa Lê Đức Thọ và Kissinger được chuyển đến đại diện của VNCH theo thường lệ. Tuy nhiên đại diện VNCH không biết gì về nội dung của bản hiệp định đang được trao đổi qua lại giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt, hay là thời khóa biểu thực thi hiệp định đó. Tiến sĩ Kissinger tin tưởng ông có thể thuyết phục chính phủ VNCH chấp nhận hiệp định ông thương lượng với Bắc Việt. Nhưng một bất ngờ xảy ra làm đình hoãn lịch trình của bản hiệp định: Ngày 11 tháng 10, toà đại sứ Pháp ở Hà Nội bị thiệt hại trong cuộc dội bom của Hoa Kỳ. Đại sứ Pháp, Pierre Susini bị thương nặng. Khi Lê Đức Thọ phản đối với Kissinger, Hoa Kỳ đã ngừng oanh tạc. (11) Hai bên soạn lại một thời khóa biểu mới: Ngày 21 ngừng dội bom; ngày 22 ký bản hiệp định sơ thảo tại Hà Nội; và ngày 30/10 là ngày chánh thức ký bản hiệp định tại Ba Lê.

Chú Thích Chương 2

1. Lần đầu tiên trong cuộc chiến, Bộ Tổng Tham Mưu không còn quân tổng trừ bị khi hai sư đoàn Dù và TQLC hành quân ở Vùng I. Tình trạng trên được cải thiện sau 1972 (Xem tiểu mục tổ chức quân lực VNCH ở Chương 4) (chú thích của tác giả).

2. Theo Larry Berman trong No Peace, No Honor, trang 23, phái đoàn Hoa Kỳ và VNCH đến Paris ngày 9 tháng 5, và nói chuyện với Bắc Việt lần đầu vào ngày 13 tháng 5, 1968 (chú thích của dịch giả).

3. Cùng ngày, tổng thống Thiệu đọc một diễn văn trước quốc hội nói đến lập trường sáu điểm này. Đọc Đoàn Thêm, 1969: Việc Từng Ngày, trang 119.

4. Trên thực tế Hoa Kỳ đã bắt đầu giảm thiểu số quân có mặt tại Việt Nam từ tháng 7, 1969. Khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 8, 1969, Hoa Kỳ "tái phối trí" 25 ngàn quân. Xem Jeffrey Clarke, Advice and Support: the Final Years, Phụ Bản C, trang 524 (chú thích của dịch giả).

5. Bộ tư lệnh MACV biết điểm tụ quân và kế hoạch tấn công của Bắc Việt từ tháng 1, 1972. Đại tướng Abrams và Tổng Tham Mưu Trưởng Liên Quân, Đô đốc Thomas Moore, xin lệnh của Nixon và Henrry Kissinger dùng B-52 phá hủy các điểm tập trung quân và xe tăng của địch, nhưng bị từ chối ba lần. Nixon và Kissinger muốn cho Bắc Việt tấn công trước rồi mới phản ứng. Đọc Lewis Sorley, A Better War: The Unexamined Victories and Final Tragedy of America's Last Years in Vietnam (Harvest Books: New York, 1999), trang 307-321; Dale Andradé, Trial by Fire: The 1972 Easter Offensive, America's Last Vietnam Battle (Hippocrene Books: New York, 1995) trang 24-30; Philip B. Davison, Vietnam at War: The History 1946-1975 (Oxford University Press: Oxford, 1988) trang 669; Ngô Quang Trưởng, The Easter Offensive of 1972 (Center of Military: Washington, D.C., 1980), trang 9-14. Hai tác giả Lewis Sorley và trung tướng Philip Davison là sĩ quan tình báo cao cấp của CIA và MACV (chú thích của dịch giả).

6. Tác giả Cao Văn Viên muốn nói đến hai trung gian người Pháp tên Hertbert Marcovich và Raymond Aubrac, mà Kissinger nhờ đi Hà Nội để nhắn đề nghị của tổng thống Johnson với Hồ Chí Minh vào cuối tháng 7, 1967. Marcovich là bạn của Kissinger, Aubrac là bạn của Marcovich; Aubrac quen thân với Hồ Chí Minh từ năm 1946. Kissinger liên lạc với Aubrac qua Marcovich. Sau lần liên lạc ở Hà Nội, tất cả các liên lạc về sau xảy ra ở Ba Lê giữa Mai Văn Bộ và Aubrac. Xem David Kraslow và Stuart H. Loory, The Secret Search for Peace in Vietnam (Vintage Books: New York 1968), trang 219-224. Cộng sản Việt Nam viết về những hội họp bí mật này trong, Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ, Tiếp Xúc Bí Mật Việt Nam-Hoa Kỳ Trước Hội Nghị Paris (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 2000) (chú thích của dịch giả).

7. Tất cả chi tiết về những lần nói chuyện bí mật giữa Henry A. Kissinger và Lê Đức Thọ được trích theo quyển Kissinger (Boston-Toronto: Little, Brown and Co., 1974) của Bernard Kalb và Marvin Kalb (ghi chú của tác giả).

8. Kissinger, tr. 183-184 (ghi chú tác giả).

9. Trong lần mật đàm ngày 12 tháng 7, 1971, Lê Đức Thọ nằn nỉ Hoa Kỳ phải thay chính phủ Nguyễn Văn Thiệu bằng một chính phủ khác trong kỳ bầu cử tháng 10 năm 1971. Có lúc Lê Đức Thọ nhắn với Kissinger là "...có nhiều cách để thay Thiệu nếu quí ông muốn hạ bệ hắn [Thiệu]." Kissinger hiểu Lê Đức Thọ muốn nói đến chuyện ám sát. Xem Larry Berman, sách đã dẫn, trang 106-109; Trong The Palace File của Nguyễn Tiến Hưng và Jerrol L. Schecter, trang 80-81 cũng có bàn đến chuyện ám sát đó (chú thích của dịch giả).

10. Marvin Kalb và Bernard Kalb, sách đã dẫn, trang 354 (chú thích của tác giả).

11. Marvin Kalb và Bernard Kalb, sách đã dẫn, trang 359, 361 (chú thích của tác giả).

No comments:

Post a Comment