Người phụ nữ Việt Nam Cộng Hòa làm gián điệp nhị trùng .
•TIN BUỒN.
Vô
cùng thương tiếc báo tin cho các thân hữu chị DUNG KRALL , nhủ danh
Đặng Mỹ Dung vừa mới qua đời vào lúc 7giờ tối ngày 23 tháng 3 năm 2023
sau một thời gian bạo bịnh.
Chị
DUNG KRALL (1946 -2023) là tác giả của tác phẩm hồi ký A thousand Tears
bằng Anh Ngữ hiện có bán trên Amazon. Bản Việt ngữ Ngàn Gịot Lệ Rơi.
Chị là ân nhân của hơn hàng ngàn gia đình người Việt tỵ nạn khi bước chân tới Atlanta, và những vùng phụ cận, Hoa Kỳ.
Chị
là một người phụ nữ có tấm lòng nhân hậu và cản đảm, trung trực đầy
nhiệt huyết, giúp đỡ nhiều hoàn cảnh khó khăn của người Việt tỵ nạn từ
47 năm nay. Một người phụ nữ ưu tú
trong cách đối nhân xử thế.
“Đến khi về chín suối,
Ta xin gửi đá vàng,
Của trăm năm buồn tủi,
Về trả lại nhân gian...”
(Bùi Giáng)
Cầu nguyện cho chị được an nhiên trong cõi Vĩnh Hằng.
Xin phân ưu cùng tang quyến và bạn bè khắp nơi.
Kính bái.
- Thân Hữu:
Nguyễn thị Thảo An.
Phan thị Mỹ Hạnh.
Nguyễn thị Thu Hương.
Anh Chị Nguyễn văn Hương
PS. Gia đình không làm tang lễ và tổ chức Viếng Thăm theo di nguyện của chị DUNG KRALL.
• CÂU CHUYỆN MỞ ĐẦU
Trong
cuốn Ngàn Giọt Lệ Rơi (A Thousand Tears Falling), bà Đặng Mỹ Dung thuật
lại cuộc đời và công tác gián điệp của bà. Bà là người con thứ tư trong
gia đình 7 anh chị em, 5 gái,
2 trai. Người cha tên Đặng Văn Quang, sau đổi thành Đặng Quang Minh. Bà
mẹ tên Trần Thị Phàm. Người cha Đặng Quang Minh là cán bộ cao cấp của
Việt Cộng, đã từng làm đại sứ của “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa
Miền Nam Việt Nam”, ở Liên Xô và một số nước
Cộng Sản Đông Âu.
Sau
Hiệp định Genève 1954, Đặng Quang Minh và con trai đầu lòng là Đặng Văn
Khôi tập kết ra Bắc. Bà mẹ và các con nhứt định không đi tập kết vì
không ưa chế độ Cộng Sản. Ông Minh
không muốn làm áp lực mạnh, vì tin tưởng rằng hai năm sau sẽ trở về
đoàn tụ gia đình.
Sau
khi học hết chương trình trung học ở trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ,
năm 18 tuổi, Mỹ Dung nhận được việc làm ở phòng Tâm lý chiến thuộc Quân
đoàn 4, Cần Thơ.
Bà
mẹ bán tiệm may, cùng với mấy chị em dọn về Sài Gòn. Ở Sài Gòn, Mỹ Dung
được thu nhận vào làm việc tại Trung tâm BOQ (Bachelor Officers’
Quarter). Ở đây bà gặp và có mối tình
với Trung úy Hải Quân John James Krall, tình báo Hải Quân Hoa Kỳ. Sau
vụ tấn công Tết Mậu Thân 1968, cả hai về Mỹ, và làm đám cưới tại
Monterey, California. Dung được đổi thành Yung và lấy họ của chồng là
Krall. Cái tên Yung Krall từ đó.
Năm
1975, John J. Krall chuyển về làm việc ở Hạm đội Thái Bình Dương, do Đề
đốc Gaylor làm Tư lịnh . Yung Krall xuất sắc trong vai trò gián điệp
đôi, đã phá vỡ hai ổ gián điệp
Việt Cộng ở Hoa Kỳ và Pháp.
Trong
tựa đề của cuốn Ngàn Giọt Lệ Rơi, cựu Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ, Griffin
Boyette Bell đã viết: “Yung Krall đúng là một công dân Hoa Kỳ vĩ đại.
Tôi nhiệt liệt tán dương sự
nghiệp của cô đối với đất nước chúng ta”.
Tình nguyện làm gián điệp để di tản gia đình
Ít
ngày trước 30/4/1975, bất ngờ vào một buổi sáng, Yung Krall nhận một cú
điện thoại từ Paris của một người Pháp, xưng tên Jean Sagan, bạn thân
của cha bà là Đặng Quang Minh,
báo tin Miền Nam VN sắp sụp đổ, và hối thúc Yung Krall di tản gấp mẹ và
em ra khỏi nước. Yung Krall sực nhớ lại ba năm trước, có nhận được,
cũng của kẻ trung gian bí mật này, một bao thơ (không ghi tên người
gởi), cũng từ Pháp, chuyển một số hình của Đại sứ
Đặng Quang Minh chụp ở Hà Nội chung với Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường
Chinh.
Chồng
của Mỹ Dung là Thiếu tá John J. Krall xin nghỉ phép 30 ngày, tức tốc
bay về Việt Nam, vận động với Sứ quán Hoa Kỳ để đưa mẹ vợ và em vợ được
sang Mỹ. Theo nguyên tắc, chuyến
đi nầy bất hợp pháp, vì Bộ Quốc phòng Mỹ cấm sĩ quan tự ý đến Việt Nam,
nếu không có công vụ lịnh của cấp chỉ huy. Việc này làm cho Yung Krall
lo âu, không biết việc gì có thể xảy ra cho chồng và gia đình ở Việt
Nam. Bà liền nghĩ ra một ý kiến táo bạo, là
điện thoại cầu cứu thẳng cho Đề đốc Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương.
Sau
một thời gian chờ đợi, khó khăn, Mỹ Dung được nói chuyện với Đề đốc. Bà
cho biết chức vụ của cha trong chính quyền Việt Cộng, đồng thời cho
biết những nguy cơ của mẹ, kể cả
nội dung cuộc điện đàm với người Pháp tên Jean Sagan, về nguy cơ sụp đổ
của chính quyền miền Nam. Đề đốc Gaylor liền cho Thiếu tá Hải Quân Dave
Smith tiếp xúc với bà để lấy thêm những chi tiết cần thiết. Trong cuộc
gặp gỡ này, để được chắc ăn, Mỹ Dung cho
biết, bà sẽ tình nguyện phục vụ chính phủ Hoa Kỳ khi nào cần đến.
Tình
nguyện của bà có hiệu quả nhanh chóng. Không đầy 24 giờ sau, một nhân
viên CIA, mặc thường phục, tên Bob Jantzen đến tận nhà bà, sốt sắng ghi
đầy đủ lý lịch của thân nhân
bà ở Việt Nam. Bob cũng hứa sẽ thông báo cho Tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn,
cho biết John Krall đang ở Việt Nam. Tham vụ Ngoại giao của Sứ quán Mỹ ở
Việt Nam là Grant Ichikawa liên lạc được với chồng bà để sắp xếp mọi
việc cho thân nhân của bà. Ngày 10/4/1975, John
Krall về Mỹ trước. Vài hôm sau, mẹ và em của bà đến phi trường
Honolulu, Hawaii.
Tháng
6 năm 1975, Bob Jantzen cho Mỹ Dung gặp sĩ quan phụ trách công tác là
Robert Hall (Rob) là người trực tiếp làm việc với Mỹ Dung, trong những
việc như theo dõi công tác, ra
chỉ thị, nhận báo cáo, v.v. Rob cử Mỹ Dung theo học khóa huấn luyện ở
Langley.
• Mỹ Dung gặp cha lần thứ nhất sau 20 năm xa cách
Ngày
20/7/1975, Mỹ Dung vui mừng khi đọc được một bản tin trên tờ báo Japan
Times, cho biết ngày 5/8/1975, hai phái đoàn, Hà Nội và Mặt Trận Dân Tộc
Giải Phóng Miền Nam, do Đỗ
Xuân Oánh và Đặng Quang Minh hướng dẫn, sẽ đến Tokyo để tham dự Hội
nghị Quốc tế, chống bom nguyên tử. Mỹ Dung vui mừng, liền bay qua Nhật
với đứa con trai tên Lance, 5 tuổi, để gặp lại cha sau hơn 20 năm nhớ
thương. Trong cuộc gặp, Đặng Quang Minh không dám
nhận con gái và cháu ngoại, mà bảo là người quen cùng làng. Mỹ Dung đau
buồn vì không nói được tiếng Ba đối với người cha vô cùng thương nhớ,
mà xưng hô với nhau là bác, cháu.
Khi
chia tay, Ông Minh an ủi con gái: “Ba không tìm cách thay đổi con,
nhưng xin con cũng đừng dày xéo niềm tin của ba. Nếu con thoải mái với
niềm tin của con thì ba cũng hài lòng”.
• Mỹ Dung gặp cha lần thứ hai
Giữa
tháng 9 năm 1975, khi được biết người cha có chuyến công tác đến Paris,
Mỹ Dung làm thủ tục để đưa mẹ (Bà Trần Thị Phàm) sang Pháp để gặp cha.
Trước ngày khởi hành, sếp CIA
là Jerry Parker tiếp Mỹ Dung tại một nông trại ở Virginia, ông tỏ ý
muốn giúp sĩ quan Việt Cộng Đặng Văn Khôi, là anh cả của Mỹ Dung, đào
thoát khỏi chính quyền Cộng Sản. Khôi là chuyên viên về tên lửa hướng
dẫn (guided missiles) được huấn luyện ở Trung Quốc
và Liên Xô. Robert Hall được lịnh qua Paris để theo dõi và giúp đỡ Mỹ
Dung.
Tại
Paris, bà Trần Thị Phàm vui mừng tràn đầy nước mắt khi gặp lại chồng
sau 21 năm xa cách. Những ngày vui ngắn ngủi qua mau, bà Phàm lại đầm
đìa nước mắt khi chia tay. Ông Minh
lên máy bay Aeroflot về sứ quán của ông ở Liên Xô. Cũng tại Paris, ông
Phan Thanh Nam, đại diện Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, đề nghị
để cho sinh viên Phạm Gia Thái đưa mẹ con bà Mỹ Dung về ngụ ngôi nhà ở
Verrière-la-Buisson, đồng thời làm hướng dẫn
viên hai người khách đi thăm Paris. Bà Mỹ Dung khéo léo từ chối, là đã
thuê phòng tại khách sạn rồi. Cũng trong lần gặp gỡ nầy, cả ông Đặng
Quang Minh và Phan Thanh Nam đều thuyết phục mẹ con bà Mỹ Dung hãy về
sống tại Việt Nam.
Đại
sứ Việt Cộng Võ Văn Sung mời bà Mỹ Dung đến sứ quán, tỏ ý muốn chồng
bà, Thiếu tá John Krall, tiếp xúc làm việc với cha vợ Đặng Quang Minh,
giúp Hà Nội. Đồng thời vận động
dư luận quần chúng Mỹ đòi Hoa Kỳ phải bồi thường chiến tranh 3.25 tỷ đô
la như Tổng thống Richard Nixon đã hứa hồi tháng 2 năm 1973. Võ Văn
Sung cũng cho biết, Việt Cộng có một số “cảm tình viên” ở Mỹ, và yêu cầu
bà Mỹ Dung tiếp xúc và làm việc với người cầm
đầu Hội Việt Kiều Yêu Nước ở San Francisco tên Phan Thanh Nam, ông Nam
cũng tuyển mộ Mỹ Dung làm việc cho Cộng Sản để thu lượm tin tức trong
chính quyền Hoa Kỳ. Hắn cũng đề nghị Mỹ Dung nên giả vờ như một người
chống Cộng. (“You should even pretend that you
are anti-communist).
Khi trở về Hawaii, Yung Krall được CIA chỉ thị, cùng chồng dời về sinh sống ở thủ đô Washington, D.C.
Hướng công tác mới là phá vỡ hệ thống gián điệp Cộng Sản ở nước ngoài.
• Yung Krall đóng vai trò gián điệp nhị trùng
Đặng
Mỹ Dung được bố trí đóng vai gián điệp nhị trùng, một vai trò khá nguy
hiểm, là khi có gián điệp nhị trùng của hai bên đụng độ với nhau, nhưng
Mỹ Dung vẫn chấp nhận. Vài tháng
sau, Mỹ Dung trở qua Paris để bắt liên lạc với Huỳnh Trung Đồng, Chủ
tịch Hội Liên hiệp Việt kiều ở Pháp. Mỹ Dung được hướng dẫn đi thăm trụ
sở và thư viện, chứa đầy những tài liệu tuyên truyền. Tham dự những buổi
học tập của cán bộ, và gặp các phần tử than
Cộng Việt-Pháp. Bà cũng được trao những ấn phẩm Anh-Việt để phổ biến ở
Hoa Kỳ.
Điều
quan trọng là Huỳnh Trung Đồng căn dặn Mỹ Dung phải tiếp xúc với cán bộ
Nguyễn Thị Ngọc Thoa ở thủ đô Washington, để phối hợp hoạt động. Ngọc
Thoa là người cầm đầu mạng lưới
tình báo ở thủ đô Washington. Về Mỹ, khi nghe Mỹ Dung báo cáo, sếp CIA
Robert Hall ngăn cản, không cho Mỹ Dung gặp mặt Ngọc Thoa, cho đó là vụ
việc của FBI. Sếp CIA hăm dọa, sẽ bãi nhiệm Dung, nếu không tuân lệnh.
Cho rằng, không một ai được phép làm việc
cùng một lúc với CIA và FBI.
Đối
với Mỹ Dung, đó là việc duy nhất mà bà phải làm, và hơn nữa, bà đã bỏ
ra nhiều công sức, chỉ còn một vài bước nữa là hoàn tất công việc. Mỹ
Dung bướng bỉnh cãi lại, cho rằng
bà đã làm việc không ăn lương cho CIA suốt 9 tháng qua, và không có một
hợp đồng nào cả, không có một ràng buộc nào cả. Bà không phải là nhân
viên chính thức của CIA.
Mỹ
Dung nhờ chồng trình vụ việc lên Đề đốc Bobby Inman, Giám đốc Cục Tình
báo Hải Quân, mà John Krall là nhân viên của cơ quan này. Vài hôm sau,
Đề đốc Inman tiếp xúc với bà. Bà
cho biết, việc cần thiết phải làm, là phá vỡ màng lưới gián điệp Việt
Cộng ở Hoa Kỳ. Ông Inman hứa sẽ thảo luận với Giám đốc FBI là ông
Clarence Kelly.
Vào
tháng 6 năm 1976, nhân viên FBI Bill Flesman và nhân viên đặc trách
CIA, Bill Reardon được chỉ định cùng làm việc với Mỹ Dung. Từ đó, một
điệp vụ có hợp đồng chính thức.
• Vụ án gián điệp Đinh Bá Thi và Trương Đình Hùng
Do
bức thơ giới thiệu của Huỳnh Trung Đồng, Chủ tịch Hội Liên hiệp Việt
Kiều ở Pháp, Mỹ Dung gặp bà Ngọc Thoa một cách dễ dàng, tại một căn gác
nhỏ ở địa chỉ đường 18th Street,
thủ đô Washington. Địa chỉ nầy là nơi phát hành tài liệu tuyên truyền
của Việt Cộng, cũng là nơi phát hành nguyệt san Người Việt Đoàn Kết. Nhờ
sự giúp đỡ của LM Trần Tam Tĩnh, Canada, nguyệt san xuất bản 5,000 số
mỗi tháng.
Bà
Thoa sống rất kín đáo và kham khổ. Có chồng Mỹ là người thiên tả, thân
Cộng. Hệ thống hoạt động của bà Thoa gồm những trí thức người Việt thân
Cộng ở Mỹ.
Một
sinh viên có khả năng và hăng hái hoạt động là Trương Đình Hùng, con
của Luật sư Trương Đình Dzu. Bà Mỹ Dung trở thành người “giao liên”
chuyển những bao thơ mật của Trương
Đình Hùng và của bà Thoa đến Huỳnh Trung Đồng và Nguyễn Ngọc Giao ở
Paris. Đương nhiên là những thơ mật đã được copy để lưu hồ sơ. Trong
đường dây gián điệp Việt Cộng, bà Mỹ Dung cũng bắt liên lạc được với
Nguyễn Văn Lũy, Chủ tịch Hội Việt Kiều Yêu Nước tại
San Francisco, và những thành viên khác.
• Gặp Đại sứ Việt Cộng Đinh Bá Thi ở trụ sở Liên Hiệp Quốc
Cuối
năm 1976, bà Dung điện thoại xin đến thăm Đinh Bá Thi, Đại sứ Việt Cộng
ở trụ sở Liên Hiệp Quốc, New York. Ông Thi vui vẻ nhận lời vì đã quen
biết với cha bà là Đặng Quang
Minh. Mục đích đến thăm là trao một bao thơ mật mà Trương Đình Hùng gởi
cho ông. Ông Thi mời bà Dung đến ở tại Sứ quán Hà Nội ở LHQ. Sự việc
bất ngờ, ngoài dự liệu. Bà thông báo cho hai sếp CIA và FBI, cho biết,
nếu trong 3 ngày mà không có liên lạc, thì có
thể gặp nguy hiểm.
Bà
Dung cho biết, trong sứ quán, ngoài ông Thi ra, thì chỉ có 4 người. Họ
ăn ở chung với nhau. Thường xuyên nghe ngóng thời sự qua 3 cái tivi, và
không ai được phép rời New York
quá 25 dặm. Tất cả đều nhịn ăn sáng để tiết kiệm. Đó là thời điểm mà
người Việt trong nước ăn bo bo hoặc ăn độn với khoai.
Theo
bà Mỹ Dung thì ông Thi tánh tình cởi mở, không quá khích. Ông cho biết,
vợ ông bịnh nặng ở Việt Nam mà chính phủ không cho xuất ngoại, vì
nguyên tắc là nhân viên ngoại giao
không có quyền đem gia đình theo, để tránh nạn đào ngũ. Ông Thi buồn
rầu nhận định: “Khi một chế độ không mang lại hạnh phúc cho dân và không
đưa đất nước tiến tới một tương lai đã hứa hẹn, thì phải thối lui, và
tự đặt câu hỏi: Vì sao?” (Trang 312 Hồi ký).
• Chiến dịch Operation Magic Dragon của FBI
Trương Đình Hùng bị FBI bắt.
Chiến dịch Operation Magic Dragon (Rồng Ma Thuật) nhằm vào Trương Đình Hùng và Ronald Louis Humphrey.
Kể
từ năm 1977, Mỹ Dung bám sát vào Trương Đình Hùng (David Hùng). Hùng
không thuận với Nguyễn Văn Lũy, Chủ tịch Hội Việt Kiều Yêu Nước tại San
Francisco (HK), nên Hùng nhờ “người
giao liên” Mỹ Dung liên lạc thẳng với Phan Thanh Nam, Xử lý Thường vụ
đại sứ Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Ở Paris, và Đại sứ Đinh Bá
Thi (LHQ). David Hùng tâm sự với người giao liên, với khả năng và sự
ngoại giao rộng rãi, anh ta hy vọng được kết nạp
vào Đảng và giao trách nhiệm điều khiển hệ thống tình báo ở Hoa Kỳ.
Trong
bức thơ mà Phan Thanh Nam nhờ Mỹ Dung chuyển cho David Hùng, ông Nam
viết: “Hoan nghênh chương trình làm việc của anh… đã có khả năng và mánh
lới thu thập tin tức…”
Tóm lại, Trương Đình Hùng tự nhận là gián điệp của Việt Cộng, không thể chối cãi được ở tòa án.
Một
hôm, David Hùng khoe với Mỹ Dung rằng anh ta “có thể có những gì anh
muốn, nhờ một nhân vật “vô ra tự do ở tầng thứ 7 của Bộ Ngoại giao”.
Mỹ
Dung liền báo cho Giám đốc FBI là ông Clarence Kelley và Thứ trưởng Bộ
Ngoại giao Warren Christopher về vụ việc. Thế là chiến dịch Operation
Magic Dragon thành hình.
• Bao thơ cuối cùng của người giao liên
Khi
Mỹ Dung đến từ giã David Hùng để đi Luân Đôn, bà theo chồng đến nhiệm
sở mới, là Bộ Tư Lệnh Hải Quân Hoa Kỳ ở Âu châu. Hùng đưa cho Mỹ Dung
một bao thơ đựng tài liệu lấy ở
Quốc Hội, trao cho Huỳnh Trung Đồng. Hùng nói: “I ran over the Congress
to get a package of that stuff”.
Đó là bức thơ cuối cùng của người giao liên.
Do
điệp viên Mỹ Dung thông báo, với sự đồng ý của Tổng thống Jimmy Carter
và giấy phép của Bộ trưởng Tư pháp, Griffin Bell, FBI đặt máy thu hình
bí mật tại văn phòng của Humphrey
ở cơ quan USIA. Và đặt máy nghe lén, micro, tại nhà của David Hùng.
Ngày 31/3/1978, FBI bủa lưới bắt Ronald Humphrey và Trương Đình Hùng.
Trong
những bức thơ mà David Hùng nhờ Mỹ Dung chuyển đi, có hai tài liệu mật
do Ronald L. Humphrey, nhân viên của cơ quan USIA (US Information
Agency). Ông nầy, 46 tuổi, có người
vợ Việt Nam tên Kim, bị kẹt ở Việt Nam sau 30/4/1975. Ông trao tài liệu
mật để David Trương can thiệp cho vợ ông được sang Mỹ.
Chứng
cớ rõ ràng không thể chối cãi, nên cả hai, David Trương và Humphrey,
mỗi người lãnh 15 năm tù. Đinh Bá Thi được hưởng quy chế ngoại giao nên
bị trục xuất ra khỏi nước Mỹ.
Đinh
Bá Thi là đại sứ đầu tiên của Việt Cộng ở Liên Hiệp Quốc, mà làm ăn bê
bối, mời gián điệp Mỹ vào ở sứ quán mà còn tâm sự “linh tinh vô tổ chức”
nhằm bôi bác chế độ, (Thời
điểm 1968) nên bị thanh trừng bằng cái chết bất thường vì tai nạn ô tô
khi từ Phan Thiết vào Sài Gòn.
Tại
tòa án, Humphrey tố cáo David Hùng lừa gạt ông ta. David Hùng không làm
gì cả trong việc đưa bà Kim, vợ ông sang Mỹ. Mà do các nhà ngoại giao
Thụy Điển, Tây Đức và Hội Hồng
Thập Tự Quốc tế can thiệp.
• Vài nét tổng quát về Trương Đình Hùng và Trương Đình Dzu
Trương
Đình Hùng (David Trương), con của Trương Đình Dzu, sinh ngày 2/9/1945
tại Sài Gòn. Năm 1965, sang Mỹ du học. Ông tỏ ra có cảm tình đặc biệt và
ủng hộ chính quyền Hà Nội.
Nhiệt liệt ca ngợi Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam. Ông và một
nhóm bạn bè tích cực ca ngợi hai phái đoàn Việt Cộng trong Hội đàm
Paris.
Trong
vụ án gián điệp năm 1978, Trương Đình Hùng bị kết án 15 năm tù. Ở tù
được 7 năm 4 tháng thì được trả tự do với điều kiện là phải ra khỏi nước
Mỹ. Năm 1986, ông Hùng và người
vợ Mỹ, Carolyn, đến sống ở Hòa Lan. Ông đi nhiều nơi, và sau cùng chết
vào ngày 26/6/2014 tại Penang, Malaysia, thọ 69 tuổi.
Cha
của Hùng, Luật sư Trương Đình Dzu, sinh ngày 10/11/1917 trong một gia
đình giàu có và quyền thế ở Bình Định. Ra Hà Nội học trường Lycée Albert
Sarraut, rồi học khoa Luật của
Đại học Đông Dương. Năm 1945, Trương Đình Dzu vào Sài Gòn mở tổ hợp
luật sư, gồm có Nguyễn Hữu Thọ, sau làm Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải
phóng Miền Nam, và Trần Văn Khiêm, em của bà Trần Lệ Xuân, vợ của Ngô
Đình Nhu.
Năm
1967, ông Dzu ra ứng cử Tổng thống, chạy đua với liên danh Nguyễn Văn
Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ. Sau khi thất cử, ông bị bắt về tội hoạt động cho
Việt Cộng. Ông Dzu ngồi tù cho đến
tháng 4 năm 1975, thì được Tổng thống Trần Văn Hương ký lệnh trả tự do
cho ông.
Mỉa
mai thay. Năm 1978, con trai ông là Trương Đình Hùng bị tù 15 năm về
tội làm gián điệp cho Việt Cộng, thì ở Việt Nam, Trương Đình Dzu bị đi
tù cải tạo từ năm 1978 đến năm 1987
(9 năm) vì tội làm gián điệp cho CIA.
Sau khi ra trại, Dzu phải sống trong một thời gian dài trong tình trạng bị quản chế cho đến ngày chết vào năm 1991.
(1946 - 2023)
• Những lời khen tặng bà Đặng Mỹ Dung
Bà
Mỹ Dung được đề cao như: Yung Krall, truly a great American…a genuine
American hero. Giáo sư Douglas Pike, thuộc Đại học Berkeley viết: “Yung
Krall’s A Thousand Tears Falling
is one of the best of this genre”.
Ngày
19/4/1996, tại buổi lễ ở Kennesaw State College, GA, Ủy ban Georgia
Author of the Year Committee đã bầu Đặng Mỹ Dung là một trong 45 tác giả
đặc sắc nhất của năm. Đại hội
toàn quốc Society Daughter of The American Revolution Hoa Kỳ, đã tặng
huy chương Danh Dự về thành quả phục vụ cộng đồng và đất nước Hoa Kỳ.
Giới lập pháp và hội đoàn Cựu Chiến binh Mỹ cũng thường mời Yung Krall
đến trình bày về các vấn đề Việt Nam.
• Kết luận
Làm gián điệp xâm nhập vào lòng địch là một vai trò rất nguy hiểm, nhất là gián điệp hai mang.
Người
phụ nữ Việt Nam, bà Đặng Mỹ Dung (Yung Krall) đã hoàn thành nhiệm vụ
một cách xuất sắc, rất tài tình. Đã phá vỡ hai ổ gián điệp Việt Cộng,
một ở Pháp và một ở Hoa Kỳ. Nhiệm
vụ này không có một người Mỹ nào thi hành được cả, vì phải xâm nhập vào
các cộng đồng người Việt ở Pháp và ở Hoa Kỳ.
Cựu
Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ, Griffin Boyette Bell, đã viết: “Yung Krall
đúng là một công dân Hoa Kỳ vĩ đại. Tôi nhiệt liệt tán dương sự nghiệp
của cô đối với đất nước chúng ta”.
– Trúc Giang MN
(Minnesota, 7/3/2022) / Việt Báo
*******
Đặng
Mỹ Dung tên tiếng Mỹ là Yung Krall, sinh năm 1945 là một cựu điệp viên
CIA, cựu đặc vụ FBI gốc Việt và vợ của một sĩ quan hải quân Mỹ[1]. Bà
Dung, cũng lại là một liên lạc
viên của các cơ quan tình báo Việt Nam ở Mỹ và Paris, là một nhân chứng
trong vụ án gián điệp của Trương Đình Hùng.
http://
• Đặng Mỹ Dung
https://g.co/kgs/5DGyQY
• Tiểu sử
Đặng
Mỹ Dung là con gái của Đặng Quang Minh (làm giáo chức tên thực là Đặng
Văn Quang), nguyên đại sứ Việt Cộng (MTDTGPMNVN) tại Nga, có 6 anh em.
Năm 1954 khi bà được 9 tuổi thì
cha bà tập kết ra Bắc. Mặc dù muốn đưa cả vợ con đi, nhưng vợ không
bằng lòng, vì không đồng ý với đường lối làm việc theo Cộng sản của ông,
nên ông chỉ đưa người con trai cả là Đặng Văn Khôi đi theo, để vợ và 6
người con ở lại. Bà Dung chỉ gặp lại cha lần
đầu tiên vào tháng 8 năm 1975 lúc cha bà đại diện phái đoàn của Mặt
trận Giải phóng Miền Nam đi qua Tokyo để dự hội nghị chống bom nguyên
tử. Theo bà Dung thì bà bắt đầu làm việc với cơ quan tình báo Mỹ CIA vào
tháng 5 năm 1975, để trả ơn cho họ, sau khi nhờ
họ giúp má bà ra khỏi Việt Nam[1].
Bà
Đặng Mỹ Dung đã cộng tác với CIA và FBI để phá mạng lưới gián điệp Việt
Nam hoạt động tại Mỹ thời kỳ 1976-1978[2], đưa đến việc ông Đinh Bá
Thi, đại sứ Việt Nam tại Liên hợp
quốc bị trục xuất. Ronald Humphrey, người cung cấp tài liệu và Trương
Đình Hùng, người nhận và chuyển tới phía Việt Nam ở Paris qua bà Dung bị
kết án 15 năm tù.
Ngàn Giọt Lệ Rơi
Bà
Dung được biết đến nhiều qua cuốn tự truyện Ngàn Giọt Lệ Rơi (tiếng
Anh: A Thousand Tears Falling) kể lại hoàn cảnh của một gia đình bị phân
chia vì chiến tranh, vì ý thức hệ.
Trong lời tựa của cuốn này, cựu Bộ trưởng Tư Pháp Hoa Kỳ Griffin
Boyette Bell viết: "Yung Krall đúng là một công dân Mỹ vĩ đại. Tôi nhiệt
liệt tán dương sự nghiệp của cô đối với nước ta, và tôi vui mừng thấy
rằng cuối cùng người đọc đã được biết đến câu chuyện
của người phụ nữ xuất sắc này. Hy vọng của tôi là cuốn sách này sẽ đóng
góp vào quá trình hàn gắn vết thương và xiết chặt tình cảm ở đất nước
này và ở Việt Nam." [1]
Một
câu chuyện thật nhưng ly kỳ như trinh thám về cuộc đời của nữ điệp viên
CIA Đặng Mỹ Dung được bà kể lại trong 412 trang sách của cuốn tự truyện
A Thousand Tears Falling (Ngàn
giọt lệ rơi)
Cuối
năm 1995, nhà xuất bản Longstreet Press, Atlanta, Georgia, cho phát
hành ấn phẩm ” Ngàn Giọt Lệ Rơi, A Thousand Tears Falling “ của một phụ
nữ Việt tên Yung Krall tự Đặng
Mỹ Dung , với lời giới thiệu nồng nhiệt của Griffin B. Bell , nguyên Bộ
trưởng Tư pháp thời Tổng thống Carter . Quyển tự thuật này, dày 412
trang, khác với tác phẩm ” When Heaven And Earth” về nhiều khía cạnh :
tác giả là một phụ nữ thuộc giới trung lưu gốc
Cần Thơ , trình độ trên trung học, sinh năm 1946, hoạt động trong ngành
tình báo CIA, đồng thời là nhân viên của FBI . Điểm đáng lưu ý: Thân
phụ của Yung Krall là Đặng Quang Minh, một thành viên cấp cao trong Đảng
CSVN và Đại sứ của Chính phủ Giải Phóng Miền
Nam tại Bắc Âu và Liên Sô.
Năm
1968, tác giả lập gia đình với Trung úy phi công Hải quân Mỹ John J.
Krall. Sau khi bất chấp hiểm nguy giúp chính quyền Hoa kỳ phá vỡ năm
1978 , mạng lưới tình báo Việt cộng
tại Mỹ gồm có Đinh Bá Thi, Trương Đình Hùng và đồng bọn, tác giả từ
nhiệm và về sinh sống tại Atlanta . Đương sự đã phải viết thơ khiếu nại
thẳng với Đề đốc Stansfield Turner, Giám Đốc CIA, và mặt khác, nhờ Văn
phòng Luật sư Quinlan J. Shea Jr , Columbia,
Maryland, căn cứ vào Luật Thông tin Tự do, quyết liệt tranh đấu nhiều
tháng mới được phép thực hiện quyển hồi ký MNGLR . Cả hai, Griffin Bell
và Quinlan Shea, nơi trang 8 và 142 trong sách, đều đề cao Yung Krall
như “truly a great American …a genuine American
hero”.
Phê
bình về các tác phẩm tả thực bi kịch VN, Gs Douglas Pike, thuộc Đại học
Berkeley, viết “Yung Krall’s A Thousand Tears Falling is one of the
best of this genre, if not the best”.
Ngày 19.4.1996, tại buổi lễ ở Kennesaw State College, GA, Ủy ban
Georgia Author of the Year Committee đã bầu Đặng Mỹ Dung một trong 45
tác giả đặc sắc nhứt trong năm. Ngày 18 tháng 4 sắp đến, Đại hội toàn
quốc Society Daughters of The American Revolution,
Hoa kỳ, sẽ tặng cho đương sự tại Hoa Thịnh Đốn huy chương danh dự về
thành quả phục vụ cộng đồng và đất nước. Giới Lập pháp và các hội đoàn
cựu chiến binh Mỹ cũng thường mời Yung Krall trình bày về vấn đề VN. Để
giúp độc giả Việt nhận định về mối nguy nan
do hoạt động tình báo của CS Hà-nội tạo ra tại Hoa kỳ, nhứt là đối với
cộng đồng di cư chúng ta, tác giả bài này đã phỏng vấn Yung Krall về
quyển sách của cô và nhiều chi tiết bên lề. Xin tóm lược sau đây các
điểm chính yếu.
• Tình phụ tử sâu đậm không hàn gắn nổi những dị biệt chính trị giữa cha con.
17
chương đầu của hồi ký MNGLR dành để trình bày cuộc sống của gia đình
tác giả từ 1945 đến 1954 trong chiến khu Nam bộ và từ 1954 đến 1975
trong vùng quốc gia. Thân phụ của Yung
Krall xuất thân là một giáo viên, tên thật Đặng Văn Quang, sau đổi
thành Đặng Quang Minh, sinh năm 1909 tại Vĩnh Long, tham gia hoạt động
cho CS từ lúc 18 tuổi, bị Pháp bắt giam năm 1930 và sau 1940, đày ra Côn
đảo cho đến 1945. Thân mẫu của Yung Krall là
bà Trần Thị Phàm, có 7 người con, hai trai và năm gái. Yung Krall là
người con thứ tư trong gia đình. Trước Hiệp định Genève, Đăng Quang Minh
đắc cử Dân biểu CầnThơ trong Quốc hội CS và năm 1954, rút về Bắc Việt
để làm việc trong ngành ngoại giao.
Trong
10 năm chống Pháp và Chính phủ quốc gia, Đặng Quang Minh cùng gia đình
đổi vùng thường xuyên, từ Ông Dẹo, Ba Ngọn (Cần-thơ) qua Kim Quy, Cảng
Chú Hàng (Chương Thiện) để tổ
chức kháng chiến. Yung Krall kể lại rằng cha cô lắm lúc vắng mặt nhiều
tháng, có lẽ qua Thái-lan mua võ khí, và khi về nhà thì thường phải cải
trang ẩn núp để tránh Mật thám Pháp truy lùng. Tại Ông Dẹo, Lê Đức Mai,
sau này đổi tên thành Mai Chí Thọ, em ruột
của Lê Đức Thọ, thường lui tới với gia đình cô. Cuối 1953, Lê Đức Thọ,
từ Hà-nội vào, có đến chủ tọa một phiên nhóm cán bộ tại Cảng Chú Hàng.
No comments:
Post a Comment