Cựu Tổng thống Jimmy Carter, người đã qua đời vào ngày 29/12/2024 ở tuổi 100, đã bị đánh giá thấp kể từ khi ông rời nhiệm sở vào tháng 1/1981. Trên thực tế, Carter là hình mẫu cho những gì một tổng thống một nhiệm kỳ có thể làm được. Trong thời đại mà hầu hết người Mỹ coi trọng giá trị của chiến thắng hơn bất kỳ điều gì khác, Carter đã chứng minh rằng một vị tổng tư lệnh sẵn sàng đốt cháy vốn chính trị và tập trung vào các mục tiêu cao cả thay vì lợi ích ngắn hạn có thể làm được những điều tuyệt vời cho quốc gia và thế giới.
Điều này có thể nghe lạ lùng đối với chúng ta ngày nay, nhưng kỹ năng của Carter trong vai trò nhà lãnh đạo và chính trị gia rất đáng gờm. Trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1976, vị cựu thống đốc Georgia vô danh đã đánh bại một số đối thủ nổi tiếng trong cuộc bầu cử sơ bộ của Đảng Dân chủ và sau đó tiếp tục đánh bại Tổng thống đương nhiệm Gerald Ford.
Từ năm 1977 đến năm 1981, Carter đã đàm phán một thỏa thuận hòa bình lịch sử giữa người Ai Cập và người Israel – một thỏa thuận vẫn tồn tại cho đến ngày nay; đưa chủ nghĩa môi trường vào chương trình nghị sự chính trị ở thời điểm mà hầu hết các quan chức được bầu đều không coi vấn đề này là trọng tâm, bao gồm cả việc thông qua Đạo luật Bảo tồn Đất đai vì Lợi ích Quốc gia Alaska năm 1980; và nâng cao quyền con người trong chính sách đối ngoại thông qua những thay đổi quan trọng đối với Bộ Ngoại giao, tất cả đều nhận được sự đánh giá cao từ các nhà viết tiểu sử như Jonathan Alter và Kai Bird.
Cho đến nay, Hiệp ước Trại David vẫn là một trong số ít đột phá ngoại giao ở Trung Đông, và việc Carter bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vào năm 1979 từ lâu đã được xem là một thành phần quan trọng trong việc làm tan băng Chiến tranh Lạnh. Hơn nữa, việc Carter ủng hộ các luật có đạo đức là liều thuốc tiên chữa lành vết thương của Watergate, cũng như những nỗ lực của ông nhằm tước bỏ “chế độ tổng thống chuyên quyền” (imperial presidency) bằng cách cắt giảm quy mô của thể chế này. Ví dụ, Carter đã loại bỏ một số nghi lễ, chẳng hạn như yêu cầu không phát bài “Hail to the Chief” khi ông bước vào phòng.
Tuy nhiên, nhiệm kỳ tổng thống của Carter cũng chứa đựng những câu chuyện cảnh giác. Dù giá trị của các chính quyền tổng thống một nhiệm kỳ như Carter cần được nghiên cứu và ca ngợi, nhưng cái giá khổng lồ khi thất bại trong việc củng cố và bảo vệ đảng chính trị đóng vai trò nền tảng cho nhiệm kỳ của vị tổng thống đó cũng cần được lưu tâm.
Cuối cùng thì, bất chấp mọi thành công, Carter đã khiến Đảng Dân chủ rơi vào thế yếu vào năm 1980, và mở cánh cửa vào Phòng Bầu dục cho một phong trào bảo thủ sẽ tiếp tục làm suy yếu các ý tưởng và chính sách quan trọng nhất của ông cho đến tận ngày nay.
Chính trị đảng phái theo kiểu cũ chưa bao giờ là vùng an toàn của Carter. Ngay từ đầu, ông đã phải vật lộn để duy trì quan hệ chặt chẽ với Đảng Dân chủ tại Đồi Capitol. Nhiều đảng viên Dân chủ trong Quốc hội không tin tưởng ông và cho rằng thông điệp chống Washington của ông là có hại.
Trước khi nhậm chức, Carter đã có một cuộc trao đổi căng thẳng với Jack Brooks, Hạ nghị sĩ Dân chủ Texas, vào tháng 12/1976. Brooks, Chủ tịch Ủy ban Hạ viện về Hoạt động Chính phủ, đã lắng nghe khi tổng thống đắc cử giải thích cách ông dự định đề xuất một đạo luật vốn sẽ mở rộng thẩm quyền của mình, từ đó sáp nhập và thu hẹp các cơ quan liên bang nhằm theo đuổi hiệu quả cao hơn. Brooks đã cảnh báo tổng thống mới rằng Quốc hội sẽ không nhượng bộ thẩm quyền này cho ông. Nhưng Carter quyết không nhân nhượng. Căng thẳng trong phòng lên cao đến mức một trong những cố vấn hàng đầu của tổng thống, Bert Lance, đã phải can thiệp.
Quan hệ không mấy tốt đẹp với Đảng Dân chủ trong Quốc hội tiếp tục cản trở Carter tại thời điểm đang có một chính phủ thống nhất. Người liên lạc với Quốc hội thay mặt Tổng thống, Frank Moore, đã liên tục mắc sai lầm, làm xói mòn lòng tin đối với chính quyền mới ở cả Hạ viện và Thượng viện.
Có những sai lầm nhỏ nhặt, chẳng hạn như khi đội ngũ của Carter quyết định phục vụ bánh cuộn ngọt trên đĩa giấy, thay vì một bữa sáng đầy đủ tại một trong những cuộc họp đầu tiên của ông với các đảng viên Dân chủ từ Đồi Capitol. Các cuộc gọi điện thoại không được hồi đáp, và nhân viên của ông dường như không biết cách thức hoạt động của Washington. Trong một lần khác, đội ngũ của Moore đã không báo trước cho một nhà lập pháp của Đảng Dân chủ rằng tổng thống sẽ đến thăm quận của ông. Carter cũng chẳng giúp ích gì khi ông liên tục phản đối gần 300 dự án nước vào năm 1977 như một phần trong đề xuất ngân sách của mình, xem chúng là không cần thiết, theo đó làm phật lòng nhiều đảng viên Dân chủ cấp cao trong Quốc hội, những người đang trông chờ vào khoản chi tiêu đó.
“Họ chạy đua chống lại Washington, rồi trở thành một phần của Washington, nhưng lại không được trang bị về mặt tâm lý cũng như kỹ thuật để đối mặt với điều đó,” một hạ nghị sĩ của Đảng Dân chủ phàn nàn với tờ New York Times.
Cũng có những vấn đề lớn hơn, do chính Tổng thống Carter gây ra cho đảng của mình trong lúc theo đuổi một chương trình nghị sự tự do phi chính thống, hậu những năm 1960. Chẳng hạn, vào năm 1977 và 1978, Đảng Dân chủ chủ yếu quan tâm đến tình trạng ảm đạm của nền kinh tế, vốn đã bị ảnh hưởng bởi sự kết hợp của nạn thất nghiệp, lạm phát, và cuộc khủng hoảng năng lượng đang diễn ra. Khi Carter quyết định rằng bảo tồn năng lượng sẽ là ưu tiên hàng đầu của mình, nhiều nhà lập pháp trên Đồi Capitol đã không hài lòng.
Một số ưu tiên của Carter đã đi ngược lại lợi ích cơ bản của những vị đại diện cho các khối cử tri muốn có nhiều nhiên liệu hóa thạch hơn để cắt giảm chi phí, và việc bảo tồn năng lượng cũng không giải quyết được những nhu cầu thiết yếu, ngắn hạn của cử tri.
Như Chủ tịch Hạ viện Tip O’Neill hồi tưởng trong một bài viết chung với William Novak trên tờ Washington Post năm 1987, “Tôi đã nhiều lần phàn nàn về đội ngũ của Kennedy, nhưng chí ít họ còn quan tâm đến các thành viên Dân chủ của Quốc hội. Thái độ của họ là: Chúng tôi muốn các bạn được tái đắc cử, và chúng tôi đang nỗ lực giúp đỡ các bạn. Nhưng dưới thời Carter, những đảng viên Dân chủ trong Quốc hội thường có cảm giác rằng Nhà Trắng thực sự đang chống lại chúng tôi.”
Khi giải quyết các vấn đề trong nước, Carter thường xuyên làm các nhóm Dân chủ cốt lõi nổi giận. Gói kích thích kinh tế của vị tổng thống đắc cử năm 1977 đã hủy bỏ khoản hoàn thuế mà ông từng hứa với cử tri trung lưu, và đưa ra một luật chủ yếu tập trung vào giảm thuế. Carter phản đối mức chi tiêu công mà Đảng Dân chủ kêu gọi nhằm giảm tỷ lệ thất nghiệp. Nhiều nhà lãnh đạo người Mỹ gốc Phi nhận thấy rằng Carter không ưu tiên nhu cầu của họ. Tổng thống cũng cản trở nỗ lực thúc đẩy bảo hiểm y tế quốc gia của Thượng nghị sĩ Massachusetts Ted Kennedy, cắt đứt mọi cuộc đàm phán với em trai của hai huyền thoại đã khuất của Đảng Dân chủ.
Các sáng kiến chính sách khác của Carter chỉ càng làm tăng tốc phong trào bảo thủ hiện đại, vốn tìm cách thúc đẩy chính trị hữu khuynh. Năm 1977, Carter quyết định trao lại quyền kiểm soát Kênh đào Panama cho người Panama, tin rằng điều này sẽ làm giảm căng thẳng nội bộ mà Tướng Omar Torrijos Herrera đang chật vật giải quyết, và nói rộng hơn, là làm giảm tình cảm tiêu cực đối với Mỹ, vốn đã hình thành trong nhiều thập kỷ ở Mỹ Latinh.
Sau khi ký hai hiệp ước liên quan, Carter đã tìm đủ mọi cách bảo vệ chúng trong quá trình phê chuẩn của Thượng viện vào mùa xuân năm 1978. Ông yêu cầu các thượng nghị sĩ ủng hộ các hiệp ước, dù chúng không được ưa chuộng, bằng cách dựa vào quan hệ cá nhân và việc đưa các thượng nghị sĩ đến kênh đào để họ có thể tận mắt chứng kiến những gì đang bị đe dọa. Carter cũng tiến hành các cuộc họp với công nghệ điện thoại mới để ông và các thành viên chính quyền có thể trình bày trực tiếp quan điểm của mình với cử tri. Cuối cùng, chính sách chính trị cứng rắn đã có hiệu quả. Vào tháng 3/1978, Thượng viện đã phê chuẩn hiệp ước đầu tiên với tỷ lệ 68 trên 32. Sang tháng 4, Thượng viện tiếp tục phê chuẩn hiệp ước thứ hai với cùng biên độ.
Vấn đề là trong lúc Carter vui mừng về thành công của mình, thì phe bảo thủ cũng vậy, dù rằng họ đã thất bại. Những nhân vật bảo thủ như Ronald Reagan hiểu rằng hầu hết cử tri Dân chủ không quan tâm đến các hiệp ước này, dù một số người đồng tình với lời chỉ trích rằng chúng sẽ là dấu hiệu của sự kém cỏi. Trong khi đó, hầu hết các thành viên cánh hữu đều phản ứng dữ dội. Những người bảo thủ lên án hành động của Carter là không yêu nước và nguy hiểm.
“Chúng ta đã xây dựng nó, chúng ta đã trả tiền cho nó, nó là của chúng ta, và chúng ta sẽ giữ nó,” Reagan lập luận về kênh đào vào năm 1976.
Các tổ chức bảo thủ đã lợi dụng sự tức giận đối với hai hiệp ước để tăng số lượng thành viên và tiền quyên góp.
“Đó chính là lòng yêu nước, và đó là việc chúng ta làm tốt nhất,” Howard Phillips của tổ chức bảo thủ The Conservative Caucus tự hào nói.
Trong cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ năm 1978, liên minh bảo thủ của các đảng viên Dân chủ và Cộng hòa miền Nam đã được phục hồi sau năm 1976, một phần là nhờ các hiệp ước của Carter.
Đến cuối nhiệm kỳ của Carter, Đảng Dân chủ đã rơi vào khó khăn. Họ phải chịu thiệt hại trong các cuộc thăm dò khi các thành viên đối mặt với sự trỗi dậy nhanh chóng của Reagan. Ngoài ra, trong vòng bầu cử sơ bộ, Carter cũng phải đối mặt với thách thức tàn khốc từ Thượng nghị sĩ Kennedy, người đổ lỗi cho Carter vì đã từ bỏ các giá trị cốt lõi của Đảng Dân chủ khi theo đuổi đường lối trung dung. Với cuộc khủng hoảng con tin ngày càng trầm trọng hơn ở Iran, nơi có hơn 50 người Mỹ bị giam giữ, Đảng Dân chủ cuối cùng đã mất đi sự nhiệt tình bảo vệ Carter.
Dù Carter vẫn thắng thế trong vòng sơ bộ, ông đã bước vào đại hội đảng với thiệt hại nặng nề. Đảng Dân chủ hướng đến cuộc tổng tuyển cử cùng sự chia rẽ nội bộ, tinh thần suy sụp sâu sắc, và không đủ khả năng chứng minh với cử tri rằng họ đã làm hết sức mình sau bốn năm nắm quyền.
Kết quả của cuộc bầu cử năm 1980 là Reagan thắng với 489 phiếu Đại cử tri. Đảng Cộng hòa cũng giành được quyền kiểm soát Thượng viện, lần đầu tiên kể từ năm 1955. “Liên minh Dân chủ cũ vừa bỏ rơi Tổng thống Carter ngày hôm qua,” Adam Clymer của tờ New York Times nhận xét.
Trong tám năm tiếp theo, Reagan đã điều hướng chính trị sang cánh hữu, và trong nhiều thập kỷ sau đó, Đảng Cộng hòa đã tranh đấu dữ dội chống lại những gì Carter ủng hộ. Reagan mở rộng chi tiêu quân sự và ủng hộ kiểu lập trường quân phiệt trên trường quốc tế mà Carter đã chỉ trích – chí ít là cho đến khi Liên Xô xâm lược Afghanistan vào tháng 12/1979. Đảng Cộng hòa đã nhắm mục tiêu vào các chính sách liên bang nhằm thúc đẩy bảo vệ môi trường và giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch; một bộ phận của đảng thậm chí còn đi xa hơn khi đặt câu hỏi về chính khái niệm biến đổi khí hậu.
Từ Reagan đến Donald Trump, Đảng Cộng hòa đã nỗ lực khôi phục lại chế độ tổng thống chuyên quyền mà Carter đã chống lại vào năm 1976, khi ông đảm bảo với người Mỹ rằng họ có thể tin tưởng ông. Những lo ngại của Carter về đạo đức và tham nhũng đã bị gạt sang một bên. Đất nước dần chìm sâu trong kỷ nguyên mà tiền của tư nhân nhấn chìm nền chính trị, và ranh giới giữa chính trị kinh doanh và chính trị chuyên nghiệp đã bị xói mòn. Sự ngờ vực đối với chính phủ, bao gồm cả chức tổng thống, luôn ở mức cao.
Dù các nhà viết tiểu sử đã đạt được thành công lớn trong việc khôi phục lại những thành tựu bị lãng quên của Carter, hậu quả lâu dài của việc để lại một liên minh chính trị vỡ tan cũng không nên bị bỏ qua.
Chắc chắn, không phải tất cả các vấn đề mà Đảng Dân chủ phải đối mặt vào năm 1980 đều đáng bị đổ lên vai Carter. Đảng này đã phải đối mặt với những hạn chế và chia rẽ nội bộ của chính mình từ rất lâu trước khi Carter bước vào Nhà Trắng. (Hãy nhớ đến cuộc bầu cử năm 1972.) Nền kinh tế rơi vào tình trạng hỗn loạn và người Mỹ đang bị bắt làm con tin ở Iran là hai vấn đề có thể hủy diệt bất kỳ đảng nào.
Hơn nữa, kỹ năng chính trị sắc bén của Reagan và sự ủng hộ sâu rộng đối với phong trào bảo thủ cũng là những yếu tố quan trọng dẫn đến chiến thắng của phe bảo thủ vào năm 1980.
Tuy nhiên, các tổng thống, bao gồm cả Carter, không thể thoát khỏi những lời chỉ trích xuất phát từ những vấn đề mà đảng của họ phải đối mặt, đặc biệt là khi chính họ đã tạo ra lỗ hổng cho các thế lực phản đối. Khi các tổng thống gặp khó khăn trong việc xây dựng đảng, thì luật pháp, ý tưởng, và thậm chí là cơ hội tái đắc cử sẽ nhanh chóng bị lu mờ bởi việc chuyển giao quyền lực cho một nhà lãnh đạo mới và một liên minh mới, những người sẽ đấu tranh để phá bỏ hầu hết mọi thứ mà người tiền nhiệm của họ đã nỗ lực xây dựng.
Trong lúc Tổng thống Joe Biden chuẩn bị kết thúc nhiệm kỳ, Đảng Dân chủ một lần nữa nhận ra được tầm quan trọng của việc xây dựng đảng. Biden, người đạt được nhiều thành công về mặt lập pháp hơn Carter, đã không thể cải thiện cục diện cho đảng của mình so với khi ông nhậm chức.
Cuộc bầu cử năm 2024 đã đưa chủ nghĩa bảo thủ MAGA lên đến đỉnh cao sức mạnh. Biden đã không cứu được linh hồn của nước Mỹ, như ông đã hứa khi vận động tranh cử vào năm 2019. Giờ đây, Trump – người mạnh dạn tuyên bố rằng ông sẽ giành lại quyền kiểm soát Kênh đào Panama – sẽ tận hưởng thêm bốn năm quyền lực chính trị, được khuyến khích nhờ việc giành được cả phiếu phổ thông lẫn phiếu ở mọi tiểu bang dao động.
Trong bốn năm tới, và có lẽ là trong bốn thập kỷ tới, Đảng Dân chủ vẫn sẽ chật vật để bảo vệ hồ sơ lập pháp và chương trình nghị sự chính sách mà họ đã dày công xây dựng.
Julian E. Zelizer là giáo sư lịch sử và công vụ tại Đại học Princeton. Ngày 14/01 sắp tới, Columbia Global Reports sẽ xuất bản cuốn sách mới của ông, “In Defense of Partisanship.”
Nguyễn Thị Kim Phụng dịch
Trần Trung Đạo: Tổng thống Jimmy Carter khuyên Đặng Tiểu Bình không nên đánh Việt Nam
Chưa đầy hai tháng nữa là thời điểm đánh dấu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Trung Cộng năm 1979. Trước khi cất quân, Đặng Tiểu Bình thực hiện một chuyến công du từ Á sang Mỹ để tìm đồng minh và thu phục sự đồng tình. Tại Á Châu, ngoại trừ Singapore, các quốc gia Nhật, Thái Lan, Mã Lai, Miến Điện, Nepal đều ủng hộ Đặng. Tổ chức ASEAN cũng lên án Việt Nam xâm lăng Kampuchea.
Nhưng viếng thăm Mỹ là chuyến viếng thăm quan trọng nhất của họ Đặng. Tại Mỹ, Đặng Tiểu Bình gặp Tổng thống Jimmy Carter cả thảy ba lần.
Chiều ngày 29 tháng Giêng, Đặng Tiểu Bình và phái đoàn gồm Ngoại Trưởng Hoàng Hoa, Thứ trưởng Ngoại Giao Zhang Wenjin đến gặp Tổng thống Carter tại Tòa Bạch Ốc. Phía Mỹ, ngoài Tổng thống Carter còn có Phó Tổng Thống Walter Mondale, Ngoại Trưởng Cyrus Vance và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Zbigniew Brzezinski. Trong buổi họp, Đặng Tiểu Bình thông báo cho Tổng thống Mỹ biết Trung Cộng đã quyết định chống lại sự bành trướng của Liên Xô bằng cách tấn công Việt Nam và cần sự ủng hộ của Mỹ.
Trái với mong muốn của Đặng Tiểu Bình, Tổng thống Carter không trả lời ngay. Phía Trung Quốc lầm tưởng việc không trả lời là một cách ủng hộ ngầm. Thật ra Tổng thống Carter muốn trả lời tại buổi họp trọng tâm của chuyến viếng thăm vào sáng hôm sau.
Sáng ngày 30 tháng Giêng 1979, họ Đặng gặp Tổng thống Carter lần nữa. Lần này, ngoài các vấn đề kinh tế chính trị, Tổng thống Jimmy Carter còn đặt vấn đề Hoa Kiều tỵ nạn tại Trung Quốc. Với bản tính nhân hậu, Tổng thống Carter không chỉ lo lắng cho số phận người Việt đang hay sắp tìm cách rời Việt Nam mà còn lo lắng cho cả những người Việt gốc Hoa. Tổng thống Carter muốn họ Đặng tiếp nhận thêm Hoa Kiều.
Tổng thống Carter hỏi họ Đặng: “Liệu có khả năng Trung Quốc tiếp nhận thêm người tỵ nạn Trung Quốc rời khỏi Việt Nam không?”
Đặng Tiểu Bình từ chối. Ông ta viện lý do tại Trung Quốc hiện đang có 200,000 người từ Việt Nam chạy sang và Trung Quốc cũng chưa có việc làm đầy đủ. Họ Đặng nói: “Rất nhiều người tỵ nạn thực sự là những phần tử xấu ở Việt Nam – những người không làm việc hoặc thậm chí là côn đồ – và những người thực sự làm công việc lương thiện đều bị bỏ lại phía sau.”
Tổng thống Carter cho họ Đặng biết vào thời điểm đó Hoa Kỳ đã nhận 180,000 người tỵ nạn.
Trước đó, lúc 9:05 sáng, khi hai phái đoàn vừa gặp nhau, Tổng thống Carter yêu cầu thông dịch viên đọc trực tiếp lá thư của ông gởi với Phó Thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình liên quan đến việc Trung Quốc xâm lăng Việt Nam. Nội dung lá thư viết tay của Tổng thống Carter như sau:
Washington, ngày 30 tháng 1 năm 1979
Gởi Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình
Phó Thủ tướng hỏi ý kiến tôi về một cuộc tấn công trừng phạt có thể xảy ra đối với Việt Nam. Tôi nghĩ đó sẽ là một sai lầm nghiêm trọng vì những lý do sau:
a) Nếu mục đích của cuộc tấn công là nhằm gián đoạn hoạt động xâm lược của Việt Nam hiện nay ở Kampuchea thì mục đích đó sẽ khó thành công. Một hành động mang tính cách biểu hiện như thế sẽ không được xem là một “trừng phạt” đáng kể.
b) Hai hình ảnh, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa hòa bình và một Việt Nam xâm lược tàn bạo sẽ bị hoán đổi. Hiện nay, lần đầu tiên, Việt Nam bị hầu hết các quốc gia trên thế giới lên án. Liên Xô và Cuba được coi như là đồng phạm.
c) Kết quả lâu dài của sự lên án này của Liên hợp quốc và trên toàn thế giới sẽ gây một số tác động bất lợi đáng kể đối với Việt Nam với điều kiện các quốc gia công nghiệp phát triển nỗ lực phối hợp một cách nhịp nhàng để cắt giảm viện trợ kinh tế và các nước “phi liên kết” thực hiện hành động của Liên Hợp Quốc và kêu gọi các biện pháp trừng phạt.
d) Một sự kiện nghiêm trọng có thể leo thang thành xung đột khu vực.
e) Các kế hoạch cho một hành động giới hạn và ngắn hạn có thể phải bị hủy bỏ nếu Trung Quốc bị đưa ra tối hậu thư để rút quân. Điều này sẽ làm cho việc rút quân trở nên rất khó khăn.
f) Xung đột võ trang do Trung Quốc phát động sẽ tạo nên sự lo ngại nghiêm trọng ở Hoa Kỳ liên quan đến tính cách chung của Trung Quốc và giải quyết hòa bình trong tương lai của vấn đề Đài Loan. Tuyên bố chung của chúng ta về hòa bình và ổn định có được từ quá trình bình thường hóa sẽ bị phủ nhận ở một mức độ nào đó.
g) Người Kampuchia dường như đang chiến đấu hiệu quả hơn mong đợi với tư cách là những chiến binh du kích.
h) Những đe dọa về biên giới của Trung Quốc có thể gây ra vấn đề cho Việt Nam ngay cả khi không xâm nhập vào Việt Nam.
i) Hành động của Trung Quốc có thể tạo thêm một cái cớ cho sự hiện diện nhiều hơn của Liên Xô ở Việt Nam.
Vì những lý do này, Hoa Kỳ không thể ủng hộ hành động như vậy và tôi thực sự mong Phó Thủ tướng cũng không theo đuổi nó.
Thưa Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình, trong quan điểm của tôi, một nỗ lực phối hợp thông qua Liên Hợp Quốc hoặc các diễn đàn quốc tế khác có thể gây tổn hại nhiều hơn cho Việt Nam và các đồng minh của họ.
Trân trọng,
Jimmy Carter
(Nguồn: Carter Library, National Security Affairs, Staff Material, Office, Outside the System File, Box 47, China: President’s Meeting with Vice Premier Deng: 1–2/79. Top Secret. According to the President’s Daily Diary, this meeting took place in the Oval Office with Deng and the Chinese interpreter, Ji Chaozhu, from 9:05 to 9:40 a.m. (Carter Library, Presidential Materials))
Đặng Tiểu Bình lắng nghe không ngắt lời người thông dịch.
Sau khi nghe xong, Đặng Tiểu Bình trả lời rằng Trung Cộng vẫn sẽ “trừng phạt Việt Nam giới hạn” để ngăn chặn Liên Xô trong việc sử dụng Cuba, Việt Nam và rồi Afghanistan như những chư hầu. Nhưng để vớt vát, Đặng Tiểu Bình yêu cầu Mỹ viện trợ cho các lực lượng chống CSVN qua trung gian Thái Lan.
Tổng thống Carter hỏi lại liệu Thái Lan có đồng ý không, Đặng Tiểu Bình trả lời Thái đã đồng ý. Đặng Tiểu Bình thất bại trong mục đích được Mỹ công khai ủng hộ nhưng thành công trong các mục đích nhỏ khác như được Mỹ hứa cung cấp tin tức tình báo và đóng góp cụ thể hơn trong việc giúp phe chống CSVN tại Cambodia. Cáo già Cộng sản Đặng Tiểu Bình không đi Mỹ để đánh bạc theo kiểu được ăn cả ngã về không mà được phần nào cũng tốt. (Foreign Relations of the United States, 1977–1980, Volume XIII, China)
Để hiện đại hóa Đặng Tiểu Bình biết Trung Cộng phải dựa vào Mỹ. Sau bình thường hóa với Mỹ, một kỷ nguyên hợp tác Mỹ-Trung Cộng đã phát khởi với các phát triển kinh tế vượt bực mà thế giới coi là “Trung Quốc Kỳ Diệu” ( China Miracle) với mức gia tăng trung bình 9.5% từ 1978 đến 2003.
Lịch sử thời cận đại cho thấy Trung Cộng chưa bao giờ có một đồng minh chiến lược thật sự. Đi với Mỹ để hiện đại hóa và khi được hiện đại hóa Trung Cộng xoay trở lại chống Mỹ. Mỹ nuôi lớn kẻ thù.
Giáo sư Sergey Radchenko, nhà nghiên cứu tại Woodrow Wilson Center for International Scholars nhận xét rằng Carter và nhóm an ninh quốc gia của ông hy vọng một ngày Trung Quốc sẽ trở nên dân chủ và cởi mở hơn.
Không chỉ Tổng thống Jimmy Carter mà cả Tổng thống Ronald Reagan cũng nghĩ thế. Trong diễn văn đọc tại Venice Economic Summit 1987, Tổng thống Ronald Reagan tuyên bố rằng: “Khi thị trường tự do tiếp thêm sinh lực cho châu Á, các cuộc bầu cử tự do lan rộng khắp Trung và Nam Mỹ. Ở châu Phi, nhiều nhà lãnh đạo đã đồng ý rằng tự do là chìa khóa của sự phát triển. Ở Trung Quốc, đổi mới có nghĩa là hương vị tự do mà hơn 1 tỷ người được nếm lần đầu.” (Public Papers of the Presidents of the United States: Ronald Reagan, 1987)
Thật ra lý luận xung đột quyền lợi vật chất và tinh thần giữa các thành phần xã hội dẫn đến cách mạng như trường hợp Cách Mạng Pháp 1789, không sai nhưng thời gian để các mâu thuẫn chín muồi khác rất xa trong mỗi thời kỳ văn minh của loài người. Thời đại ngày nay với nền kinh tế toàn cầu hóa và các quan hệ kinh tế phức tạp, phụ thuộc vào nhau sâu sắc, các mâu thuẫn đối kháng cần rất lâu để triệt tiêu nhau.
Mỹ học một bài học dài trên 45 năm, nhưng học để làm gì, liệu có thay đổi được gì không?
Câu trả lời là có. Thế giới chưa tận diệt và cuộc đấu tranh giữa thiện và ác sẽ còn tiếp tục. Julius Caesar không phải là nhà độc tài đầu tiên và Tập Cận Bình không hẳn là nhà độc tài cuối cùng. Những bài học được học và những chọn lựa mới sẽ được chọn. Mỗi giai đoạn trong lịch sử nhân loại luôn có những thách thức mới của thời đại và luôn có những con người mới để lãnh đạo thời đại của mình. Nước Anh có một Neville Chamberlain yếu mềm nhưng ngay sau đó có một Winston Churchill cứng rắn bước ra thay thế.
Trục xung đột của thế giới đang chuyển về hướng Á Châu nhưng vì các mối quan hệ kinh tế toàn cầu phức tạp còn khá sớm cho những thay đổi lớn.
Sự bành trướng của Trung Cộng đặt Nhật Bản vào thế sớm hay muộn cũng phải tái võ trang để bảo vệ quyền lợi của họ tại Á Châu nhưng với ngân sách quốc phòng tài khóa 2025 sẽ là 55 tỷ dollar, quân đội Nhật vẫn còn là một quân đội nặng về phòng thủ.
Năm 2024 Ấn Độ gia tăng ngân sách quốc phòng lên tới 75 tỷ dollar đứng hàng thứ ba thế giới sau Mỹ và Trung Cộng nhưng chính sách ngoại giao của Ấn Độ từ thời thành lập nền Cộng Hòa 1947 cần phải thay đổi để cứng rắn và dứt khoát hơn khi đáp ứng các thách thức mới từ Trung Cộng.
Biển Đông và Đài Loan sẽ là hai điểm nóng trong Chiến Tranh Lạnh Á Châu.
Khó có thể trả lời bao giờ hay khi nào số phận của 4.7 tỷ người sống trên các lục địa Á Châu sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp từ xung đột võ trang do Trung Cộng gây ra. Nhưng chắc chắn thảm họa sẽ đến.
Những bài học từ hai cuộc thế chiến cho thấy, nếu có chuẩn bị, một quốc gia có thể thoát ra hay ít bị ảnh hưởng hơn các quốc gia khác. Ngược lại, nếu các nhà lãnh đạo chỉ vì tầm nhìn quá hẹp, vì tham vọng quyền lực, vì quyền lợi đảng phái, vì nồi cơm chén gạo của cá nhân, gia đình mà không thực hiện các thay đổi cấp bách, đất nước sẽ rơi vào vực thẳm.
Trần Trung Đạo
Trong bài điếu văn, Tổng thống Dân chủ Joe Biden đã ca ngợi vị tổng thống thứ 39, người đã qua đời vào ngày 29/12 năm ngoái ở tuổi 100.
Ông
Biden nói rằng cuộc đời của ông Carter là ‘câu chuyện về một người đàn
ông không bao giờ để những cơn sóng chính trị đẩy ông khỏi sứ mệnh phục
vụ và định hình thế giới’.
“Một người có nhân cách,” ông Biden
nói. “Ông cho chúng ta thấy nhân cách và niềm tin bắt đầu từ chính chúng
ta và sau đó lan tỏa đến người khác như thế nào.”
Hàng chục ngàn người dân Mỹ trong hai ngày qua đã xếp hàng dài qua Điện mái vòm trong Điện Capitol để tỏ lòng tôn kính với ông Carter.
Nhiều người ca ngợi ông như một tấm gương về sự đứng đắn và khiêm tốn cho các chính trị gia ngày nay vốn hết sức mang tính đảng phái.
Ái nữ của ông Carter, Amy, đã tham gia cùng các thành viên khác trong gia đình trong tang lễ. Thủ tướng Canada Justin Trudeau, Phó Tổng thống đắc cử JD Vance và con trai Tổng thống Biden, Hunter Biden, cũng nằm trong số những người dự lễ tang. Các cựu phó tổng thống Al Gore và Mike Pence ngồi cạnh nhau.
Ông
Jimmy Carter đã giành được Nhà Trắng sau khi đánh bại Tổng thống Cộng
hòa Gerald Ford trong cuộc bầu cử năm 1976. Hai vị tổng thống vốn từng
là đối thủ chính trị một thời tiến tới trở thành bạn vong niên, và ông
Carter đã ca ngợi ông Ford sau khi ông qua đời vào năm 2006.
Con trai của ông Ford, Steven, đã đọc một điếu văn tại tang lễ mà thân phụ ông đã viết sẵn cho ông Carter trước khi ông qua đời.
“Jimmy và tôi tôn trọng nhau khi là đối thủ ngay cả trước khi chúng tôi tôn trọng nhau như những người bạn thân,” Ford đọc lại lời của thân phụ. “Jimmy biết những điểm yếu chính trị của tôi và ông ấy đã chỉ ra được. Bây giờ tôi không thích điều đó, nhưng tôi không hề biết rằng kết quả của cuộc bầu cử tổng thống năm 1976 sẽ đem đến một trong những tình bạn sâu sắc và lâu dài nhất của tôi.”
No comments:
Post a Comment