Tuesday, January 28, 2025

KHI SỰ THẬT ĐƯỢC PHƠI BÀY -KẺ ĂN CẮP LỊCH SỬ

KHI SỰ THẬT BƯỚC RA KHỎI CÁI GIẾNG DỐI TRÁ

Người ta bắt đầu nói “Sự thật trần truồng” sau khi bức tranh nổi tiếng của hoạ sĩ Jean Leon Gerome vẽ năm 1896, mang tên “The Truth Coming Out Of Her Well“ mô tả nàng Sự thật khỏa thân bước ra từ khỏi một cái giếng.

Có một em bé khỏa thân người Việt cũng nổi tiếng nói về sự thật, đó là bức ảnh “Em bé Napalm”, bức ảnh từng làm chấn động thế giới và tác giả của nó được New York Times tặng giải Pulitzer là “Bức ảnh được xếp thứ 41 trong 100 bức ảnh có tầm ảnh hưởng nhất thế kỷ 20 do Đại học Columbia bình chọn”. Người trong tấm ảnh được dùng như một biểu tượng tố cáo sự tàn ác của người Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Cô được ưu tiên gửi đi du học ngành Y ở Cuba, gặp một người cũng là một du học sinh Việt Nam. Năm 1992, hai người kết hôn, đi tuần trăng mật ở Moscow, trên đường về, khi máy bay đang tiếp nhiên liệu tại Gander, Newfoundland, bà và chồng bỏ trốn và xin tị nạn chính trị với chính phủ Canada. Bà sống ẩn dật và trốn tránh báo chí.
Tổng thống Nixon từng coi tấm ảnh này, có lẽ đây cũng là một trong lý do mà ông quyết định rút quân đội Mỹ khỏi Việt Nam.

Phóng viên Nick Út, tác giả bức ảnh có lần trả lời phỏng vấn : "Mặc dù nó là một trong những hình ảnh đáng nhớ nhất của thế kỷ 20, Tổng thống Nixon đã một lần nghi ngờ tính xác thực của tấm ảnh khi ông nhìn thấy nó trên báo chí ra ngày 12 tháng 6 năm 1972... Đối với tôi, và rõ ràng là đối với nhiều người khác nữa, tấm ảnh không thể nào thực hơn. Tấm ảnh cũng xác thực như chính cuộc chiến Việt Nam vậy. Sự khủng khiếp của chiến tranh Việt Nam được tôi ghi lại không cần phải chỉnh sửa. Cô gái bé nhỏ thảm thương ấy vẫn còn sống đến ngày hôm nay và vẫn là lời chứng hùng hồn cho tính xác thực của tấm ảnh. Kim Phúc và tôi sẽ không bao giờ quên khoảnh khắc ấy của 30 năm về trước. Nó đã thay đổi cuộc sống của cả hai chúng tôi."

Hóa ra, Carl Robinson, một cựu biên tập viên ảnh AP ở Sài Gòn cho biết. giám đốc nhiếp ảnh của văn phòng vào thời điểm đó, là ông Horst Faas, đã ra lệnh cho ông thay đổi bản quyền tấm ảnh và "biến nó thành của Nick Ut" trước khi gửi tấm ảnh đến hàng triệu người xem trong vòng vài giờ.

Robinson cho biết ông cảm thấy đó như một tội lỗi và nó ám ảnh ông trong nhiều năm. Ở tuổi 80, ông buộc phải đi tìm tác giả thực sự của bức ảnh "Tôi không muốn chết trước khi câu chuyện này được đưa ra. Tôi muốn tìm anh ấy và nói lời xin lỗi." Ông đã tìm được và câu chuyện về hành trình này được quay thành một bộ phim tài liệu : The Stringer, được công chiếu vào ngày 25/1 mới đây ở Mỹ. Tác giả của bức ảnh là ông Nguyễn Thành Nghệ.

Nick Út ơi là Nick Út ! Thì ra còn có một sự thật nữa, đằng sau sự thật đôi khi có cái giếng sâu chứa đầy dối trá chỉ lộ ra vào thời Khải Huyền.

Liên hoan phim Sundance 2025 giới thiệu :

Một cuộc điều tra kéo dài hai năm đã phát hiện ra một vụ bê bối đằng sau việc tạo ra một trong những bức ảnh được biết đến nhiều nhất của thế kỷ 20. Năm thập kỷ bí mật được hé lộ trong cuộc tìm kiếm công lý cho một người đàn ông chỉ được biết đến với cái tên "kẻ móc túi"
Nhật Đăng

Friday, January 24, 2025

Chuyện Tình John F. Kennedy và Mary Pinchot Meyer

On a brisk autumn day in October 1964, Washington D.C. socialite and painter Mary Pinchot Meyer was out for an afternoon stroll on the Chesapeake and Ohio Canal towpath in Georgetown, a route she often took, when she was shot and killed in broad daylight. A 25-year-old African American man named Ray Crump was arrested, having been found near the crime scene. The lack of evidence, though, eventually lead to his acquittal.

To this day, the murder remains unsolved, but the case is still the subject of fascination to many, inspiring memoirs, novels, a TV series, including the podcast "Murder on the Towpath" by Emmy-winning veteran journalist Soledad O'Brien.
Who Was Mary Pinchot Meyer?

Vào một ngày mùa thu trong lành vào tháng 10 năm 1964, họa sĩ và nhà hoạt động xã hội ở Washington D.C. Mary Pinchot Meyer đã ra ngoài đi dạo buổi chiều trên con đường Chesapeake và Ohio Canal ở Georgetown, con đường mà cô thường đi, khi cô bị bắn chết giữa thanh thiên bạch nhật. Một người đàn ông Mỹ đen 25 tuổi tên là Ray Crump đã bị bắt và được tìm thấy gần hiện trường vụ án. Tuy nhiên, việc thiếu bằng chứng cuối cùng đã dẫn đến việc anh ta được trắng án.

Cho đến ngày nay, vụ giết người vẫn chưa được giải quyết, nhưng vụ án vẫn là chủ đề thu hút nhiều cuốn hồi ký, tiểu thuyết, phim truyền hình dài tập đầy cảm hứng, bao gồm cả podcast "Murder on the Towpath" của nhà báo kỳ cựu từng đoạt giải Emmy Soledad O'Brien.
Mary Pinchot Meyer là ai?

Why the endless fascination? For one, Meyer was a very well-connected socialite with a social pedigree. Her father was a wealthy lawyer, her mother a journalist, and an uncle had served as a two-time governor of Pennsylvania. She was educated at Manhattan's prestigious Brearley School, and then went on to Vassar, and had married a high-ranking CIA official named Cord Meyer, whom she divorced in 1958.

She counted Jackie Kennedy as a friend; the Kennedys had moved in next door to the Meyers in 1954 and the two women took walks together, often on the same path where Meyer was later murdered. Ben Bradlee, who would go on to lead the The Washington Post and become a folk hero after Watergate, was her brother-in-law (he was married to her sister Antoinette).
Mary Pinchot Meyer là ai?

Tại sao niềm đam mê vô tận? Đầu tiên, Meyer là một người có mối quan hệ xã hội rất tốt với phả hệ xã hội. Cha cô là một luật sư giàu có, mẹ cô là một nhà báo và một người chú từng hai lần giữ chức thống đốc tiểu bang Pennsylvania. Cô được học tại trường Brearley danh tiếng của Manhattan, sau đó tiếp tục theo học tại Vassar và kết hôn với một quan chức cấp cao của CIA tên là Cord Meyer, người mà cô đã ly hôn vào năm 1958.

Cô coi Jackie Kennedy như một người bạn; Gia đình Kennedy đã chuyển đến sống cạnh nhà Meyers vào năm 1954 và hai người phụ nữ đi dạo cùng nhau, thường đi trên cùng con đường nơi Meyers sau đó bị sát hại. Ben Bradlee, người sẽ tiếp tục lãnh đạo The Washington Post và trở thành anh hùng dân gian sau vụ Watergate, là anh rể của cô (anh đã kết hôn với chị gái cô là Antoinette).

She was also John F. Kennedy's mistress. The two had known each other since high school, when they met at a school dance at Choate, and struck up a secret romantic relationship after her divorce. She would visit JFK at the White House when Jackie went out of town. In October 1963, a month before he was assassinated, the president wrote a letter to Meyer imploring her to visit him in Boston or on the Cape. "Why don't you just say yes," it read. The letter, which was never sent and remained with JFK's personal secretary Evelyn Lincoln, went up for auction in 2016 and sold for nearly $89,000.

Mary Pinchot Meyer at birthday family dinner on May 29, 1963 for President John F. Kennedy aboard the Sequoia, the 104-foot presidential yacht, which cruised down the Potomac River that evening. Aside from Secret Service agents, guests included family members, actors David Niven and Peter Lawford, Ben and Tony Bradlee, and Meyer. (Robert L. Knudsen/John F. Kennedy Presidential Library)
What Happened to Her?

Cô cũng là tình nhân của John F. Kennedy. Hai người quen nhau từ thời trung học, khi họ gặp nhau tại một buổi khiêu vũ ở trường ở Choate, và nảy sinh mối quan hệ lãng mạn bí mật sau khi cô ly hôn. Cô ấy sẽ đến thăm JFK tại Tòa Bạch Ốc khi Jackie rời khỏi thị trấn. Vào tháng 10 năm 1963, một tháng trước khi bị ám sát, tổng thống Kennedy đã viết một lá thư cho Meyer cầu xin cô đến thăm ông ở Boston hoặc Cape. "Tại sao bạn không nói đồng ý," nó viết. Bức thư chưa bao giờ được gửi đi và vẫn được thư ký riêng của JFK, Evelyn Lincoln, đưa ra bán đấu giá vào năm 2016 và được bán với giá gần 89.000 USD.

Mary Pinchot Meyer trong bữa tối sinh nhật gia đình vào ngày 29 tháng 5 năm 1963 dành cho Tổng thống John F. Kennedy trên tàu Sequoia, du thuyền tổng thống dài 104 feet, đi dọc sông Potomac vào tối hôm đó. Ngoài các nhân viên Mật vụ, khách mời còn có các thành viên trong gia đình, các diễn viên David Niven và Peter Lawford, Ben và Tony Bradlee, và Meyer. (Robert L. Knudsen/Thư viện Tổng thống John F. Kennedy)
Chuyện gì đã xảy ra với cô ấy?

Meyer lived in Georgetown with her two sons, where she had moved after her divorce and became an artist; she spent most of her time painting in her studio. On October 12, 1964, at around noon, she left for her daily walk on the towpath along the Chesapeake and Ohio Canal. There she was shot twice.

In just 45 minutes, the police apprehended a suspect, Crump, who was found nearby, his clothes soaked. He said he had been fishing, dropped his pole, and fell into the canal while trying to retrieve it. Legendary civil rights attorney Dovey
Johnson Roundtree became Crump's defense lawyer and he was acquitted of all charges in July 1965. The murder was never solved.
Meyer's Relationships with JFK and the CIA Have Fueled Several Conspiracy Theories

Meyer sống ở Georgetown với hai con trai, nơi cô chuyển đến sau khi ly hôn và trở thành một nghệ sĩ; cô ấy dành phần lớn thời gian để vẽ tranh trong studio của mình. Vào khoảng giữa trưa ngày 12 tháng 10 năm 1964, cô lên đường đi dạo hàng ngày trên con đường kéo dọc theo Kênh đào Chesapeake và Ohio. Ở đó cô bị bắn hai lần.

Chỉ trong 45 phút, cảnh sát đã bắt giữ nghi phạm Crump, người được tìm thấy gần đó với quần áo ướt sũng. Anh ta cho biết anh ta đang câu cá thì đánh rơi cần câu và rơi xuống kênh khi đang cố gắng vớt nó. Luật sư dân quyền huyền thoại 

Dovey Johnson Roundtree trở thành luật sư bào chữa cho Crump và ông được trắng án về mọi cáo buộc vào tháng 7 năm 1965. Vụ giết người không bao giờ được giải quyết.
Mối quan hệ của Meyer với JFK và CIA đã thúc đẩy một số thuyết âm mưu

Meyer's illustrious social connections—plus the shock that something like this had happened in tony Georgetown—made this crime particularly salacious. And her affair with Kennedy and her connections to the CIA, an organization she openly criticized, inevitably fed the conspiracy-theory machine. Was the CIA behind both Meyer's and JFK's deaths, with their alleged killers the scapegoats? Did the CIA order the hit because she knew too much?

Several things fueled the speculation: The execution-style manner of her killing, a close-range shot to the head and one to the chest. Then, the fact that her death occurred a few weeks after the release of the Warren Commission (which concluded that JFK's assassination was the work of a lone gunman) further fanned the flames, since she allegedly challenged its conclusions.

Những mối quan hệ xã hội nổi tiếng của Meyer - cộng với cú sốc khi chuyện như thế này xảy ra ở Georgetown - đã khiến tội ác này trở nên đặc biệt nghiêm trọng. Và mối tình của cô với Kennedy và mối liên hệ của cô với CIA, một tổ chức mà cô công khai chỉ trích, chắc chắn đã nuôi dưỡng cỗ máy thuyết âm mưu. Có phải CIA đứng sau cái chết của cả Meyer và JFK, và những kẻ bị cáo buộc giết họ là vật tế thần? CIA ra lệnh tấn công vì cô ấy biết quá nhiều?

Một số điều đã làm dấy lên suy đoán: Cách giết cô ấy theo kiểu hành quyết, một phát bắn tầm gần vào đầu và một phát vào ngực. Sau đó, thực tế là cái chết của cô ấy xảy ra vài tuần sau khi Ủy ban Warren công bố (kết luận rằng vụ ám sát JFK là do một tay súng đơn độc thực hiện) càng làm bùng lên ngọn lửa, vì cô ấy được cho là đã thách thức kết luận của ủy ban.

Finally, there was the fact that the CIA was wiretapping her phone and its counterintelligence chief was found trying to break into her studio to find her diary after the murder, likely to prevent details of her affair with JFK from becoming public.
But Meyer Isn't the Only Fascinating Woman at the Center of This Story

In "Murder on the Towpath," O'Brien delves deeper into the unsolved mystery of Meyer's death by shifting focus away from all the conspiracy theories and to the women at the heart of this story. Meyer is one, of course, and the other is Dovey Johnson Roundtree, the trailblazing civil rights attorney who successfully defended Meyer's accused killer and got him acquitted.

Cuối cùng, có sự thật là CIA đã nghe lén điện thoại của cô ấy và người đứng đầu phản gián của họ bị phát hiện đang cố đột nhập vào phòng thu của cô ấy để tìm nhật ký của cô ấy sau vụ giết người, có khả năng ngăn chặn các chi tiết về mối tình của cô ấy với JFK bị công khai.
Nhưng Meyer không phải là người phụ nữ hấp dẫn duy nhất ở trung tâm câu chuyện này

Trong "Murder on the Towpath", O'Brien đào sâu hơn vào bí ẩn chưa được giải quyết về cái chết của Meyer bằng cách chuyển trọng tâm ra khỏi tất cả các thuyết âm mưu và tập trung vào những người phụ nữ ở trung tâm câu chuyện này. Tất nhiên, Meyer là một, và người còn lại là Dovey Johnson Roundtree, luật sư dân quyền tiên phong, người đã bảo vệ thành công kẻ giết người bị buộc tội của Meyer và khiến anh ta được trắng án.

"It's very easy to go to conspiracy theories. Sometimes they're wacky, sometimes they're interesting," says O'Brien, who spent nine months investigating the case, interviewing friends, relatives, historians, and biographers, and consulting memoirs, especially Ben Bradlee's, for the eight-episode series.

"But what was really compelling was this idea of these two women who were both trying to figure out how to live their lives in 1964. I thought the 1960s was an interesting era to think about for women and how they were often thwarted, whether they were rich and white or poor and black.

O'Brien, người đã dành chín tháng để điều tra vụ án, phỏng vấn bạn bè, người thân, nhà sử học, người viết tiểu sử và tư vấn hồi ký, cho biết: "Rất dễ đưa ra các thuyết âm mưu. Đôi khi chúng kỳ quặc, đôi khi chúng thú vị". đặc biệt là của Ben Bradlee, với bộ phim dài tám tập.

"Nhưng điều thực sự hấp dẫn là ý tưởng của hai người phụ nữ này, cả hai đều đang cố gắng tìm ra cách sống cuộc sống của mình vào năm 1964. Tôi nghĩ những năm 1960 là một thời kỳ thú vị để suy nghĩ về phụ nữ và việc họ thường bị cản trở như thế nào, liệu họ có giàu và trắng hoặc nghèo và đen."

Roundtree, who died in 2018 at the age of 104, grew up in the Jim Crow South and worked her way up to become a civil rights champion who broke several racial and gender barriers throughout her life. She was one of the first women to be commissioned an Army officer, she secured the ban on racial segregation on interstate buses, and, in 1964, she took on Crump's defense for just $1—and secured his acquittal.
That Roundtree, an African American woman, was able to get a poor, black man acquitted of murdering a very rich, white woman was a historic achievement, especially in 1960s America, a period of immense civil unrest.
It's how the trajectories of Meyer's and Roundtree's lives aligned, even though the two women never met, that interested O'Brien. She wanted to make these women—not the men around them—the focus, something that hasn't been done for the past 50 years. "Technically they're at the center of the story: one is murdered and the other is a person who argues a case she's expected to lose. Yet historically they've been moved off the center," she says. "It's a metaphor for how women were treated in the 1960s."

Roundtree, qua đời năm 2018 ở tuổi 104, lớn lên ở Jim Crow South và nỗ lực trở thành nhà đấu tranh cho dân quyền, người đã phá bỏ nhiều rào cản về chủng tộc và giới tính trong suốt cuộc đời của mình. Cô là một trong những phụ nữ đầu tiên được bổ nhiệm làm sĩ quan Quân đội, cô đã bảo đảm lệnh cấm phân biệt chủng tộc trên xe buýt liên bang, và vào năm 1964, cô đã bảo vệ Crump chỉ với 1 đô la — và đảm bảo cho anh ta được trắng án.
Việc Roundtree, một phụ nữ người Mỹ gốc Phi, có thể khiến một người đàn ông da đen nghèo khổ được tha bổng vì tội giết một phụ nữ da trắng rất giàu có là một thành tựu lịch sử, đặc biệt là ở nước Mỹ những năm 1960, thời kỳ bất ổn dân sự rộng lớn.
 
O'Brien quan tâm đến cách quỹ đạo cuộc sống của Meyer và Roundtree trùng khớp với nhau, mặc dù hai người phụ nữ chưa bao giờ gặp nhau. Cô ấy muốn lấy những người phụ nữ này - chứ không phải những người đàn ông xung quanh họ - làm trọng tâm, một điều chưa từng được thực hiện trong 50 năm qua. Cô nói: “Về mặt kỹ thuật, họ là trung tâm của câu chuyện: một người bị sát hại và người kia là người tranh luận về một vụ án mà cô ấy được cho là sẽ thua. Tuy nhiên, về mặt lịch sử, họ đã bị đẩy ra khỏi trung tâm”. "Đó là một phép ẩn dụ về cách phụ nữ bị đối xử trong những năm 1960."

There's a telling moment that O'Brien recounts in the first episode: a police officer examining Meyer's dead body at the crime scene proceeds to make a comment about how pretty she is. "It felt like an important element because it speaks to the people of this story constantly being rendered powerless," she notes.
As for those conspiracy theories, O'Brien does address them. "For me as a reporter the key is to have transparency," she says. "You can't ignore them because they exist."
But "Murder on the Towpath" goes far deeper into the layers. It's a true crime story about two compelling, strong, and independent women, plus history, mystery, and a lot of twists and turns. Says O'Brien: "There's so much more to this case than just conspiracy theories and a love affair with JFK."

Có một khoảnh khắc đáng chú ý mà O'Brien kể lại trong tập đầu tiên: một sĩ quan cảnh sát kiểm tra xác chết của Meyer tại hiện trường vụ án và đưa ra nhận xét về vẻ đẹp của cô ấy. Cô lưu ý: “Nó có cảm giác như một yếu tố quan trọng vì nó nói lên những người trong câu chuyện này liên tục bị bất lực”.
Đối với những thuyết âm mưu đó, O'Brien đã giải quyết chúng. Cô nói: “Đối với tôi, với tư cách là một phóng viên, điều quan trọng nhất là phải có sự minh bạch. "Bạn không thể bỏ qua chúng vì chúng tồn tại."
Nhưng "Murder on the Towpath" đi sâu hơn vào các lớp. Đó là một câu chuyện tội phạm có thật về hai người phụ nữ hấp dẫn, mạnh mẽ và độc lập, cùng với lịch sử, bí ẩn và rất nhiều khúc mắc. O'Brien nói: "Vụ án này còn nhiều điều hơn là chỉ có những thuyết âm mưu và mối tình với JFK."

Monday, January 20, 2025

Biden rời nhiệm sở với sự hoài niệm về sự nghiệp kéo dài năm thập kỷ và thất vọng về cách nó kết thúc

  
Tổng thống Joe Biden có bài phát biểu chia tay toàn quốc từ Phòng Bầu dục. 
 
Mandel Ngan/AFP/Hình ảnh Getty
 
Bởi Jeff Zeleny , Kevin Liptak và Arlette Saenz , CNN
 Thứ bảy, ngày 18 tháng 1 năm 2025
Biden tiết lộ về sai lầm ông đã mắc phải khi còn là tổng thống trong cuộc phỏng vấn mới

WashingtonCNN — 

Khi Tổng thống Joe Biden thực hiện chuyến đi vòng quanh thành phố cuối cùng trong tuần này, đọc bài phát biểu chia tay trước đoàn ngoại giao, các nhà lãnh đạo quân đội và toàn thể đất nước, sự xuất hiện của ông đã che giấu một thực tế nghiệt ngã: Đây không phải là cách ông hy vọng sự nghiệp kéo dài nửa thế kỷ của mình ở Washington sẽ kết thúc.

Biden miễn cưỡng rời nhiệm sở vào thứ Hai, với quan điểm vững chắc rằng ông có thể cống hiến nhiều hơn và đạt được nhiều thành tựu hơn, mặc dù không chắc chắn lắm về khả năng duy trì sức khỏe và sức sống của mình.

Ông sẽ mang theo một hồ sơ thành tích nhưng cũng có sự oán giận dai dẳng về cách sự nghiệp chính trị của ông kết thúc. Ông không còn nói chuyện thường xuyên với một số đồng minh cũ đã đẩy ông ra khỏi cuộc đua; nhiều người trong đảng của ông đổ lỗi cho ông vì đã trao Nhà Trắng cho Donald Trump. Và ông sẽ rời đi trong bối cảnh mối quan hệ căng thẳng với người đứng thứ 2 và là người thay thế ông trên lá phiếu, Phó Tổng thống Kamala Harris.

Thủ đô sẽ khuất khỏi tầm nhìn khi ông rời đi trên trực thăng của mình giờ đây là lãnh địa của đối thủ truyền kiếp Trump, người mà việc trở về Washington chính là kết cục mà Biden muốn ngăn chặn nhất. Thay vì được nhớ đến như một chính khách người Mỹ đã đánh bại Trump một lần và mãi mãi, như ông nghĩ sau chiến thắng năm 2020, ông sẽ được coi là một tổng thống lâm thời giữa hai chính quyền do một người mà ông từng gọi là phát xít và là mối đe dọa đối với nền dân chủ lãnh đạo.

“Trong khi nhiệm kỳ của tôi sắp kết thúc, công việc vẫn tiếp tục,” Biden phát biểu trong bài phát biểu trước các thị trưởng vào thứ sáu, một trong những lần xuất hiện trước công chúng cuối cùng của ông với tư cách là tổng thống. “Công việc của các bạn vẫn tiếp tục.”

Nhiệm kỳ duy nhất của Biden là một nhiệm kỳ đầy sự kiện.

Ông đã đưa đất nước thoát khỏi một đại dịch ảnh hưởng đến cả thế hệ, nhưng với tình trạng lạm phát tăng đột biến, một phần do chi tiêu kích thích kinh tế của ông, đã ngăn cản tâm trạng của người dân cả nước cải thiện hoàn toàn.

Ông đã chấm dứt các chính sách nhập cư thời Trump mà ông cho là vô nhân đạo, nhưng làn sóng vượt biên trái phép tại biên giới phía nam Hoa Kỳ đã gây căng thẳng cho nguồn lực của tiểu bang và dẫn đến phản ứng dữ dội, và cuối cùng ông đã khôi phục lại nhiều hạn chế tương tự.

Quyết định chấm dứt cuộc chiến dài nhất của đất nước có nghĩa là ông là tổng thống đầu tiên trong nhiều thập kỷ không giao cuộc xung đột Afghanistan cho người kế nhiệm. Nhưng cuộc rút quân này gây chết người và hỗn loạn, khiến nhiều người Mỹ nghi ngờ năng lực của ông.

Các liên minh của Hoa Kỳ đã được khôi phục thông qua mục tiêu chung khi Nga xâm lược Ukraine. Nhưng cuộc chiến vẫn tiếp diễn, không có hồi kết rõ ràng. Ở Trung Đông, một lệnh ngừng bắn vào phút chót đã được ký kết tại Gaza để đổi lấy con tin, nhưng ông phải miễn cưỡng chia sẻ công lao với Trump vì đã hoàn thành thỏa thuận.

Các khoản đầu tư mới vào cơ sở hạ tầng và sản xuất của Mỹ đã tạo ra hàng nghìn việc làm mới và thúc đẩy các ngành công nghiệp mới. Nhưng ngay cả trong lời kể của chính Biden, những lợi ích từ hồ sơ của ông sẽ không được chứng minh trong nhiều năm tới.

Ông đã khôi phục lại phần nào tính bình thường cho nhiệm kỳ tổng thống sau những năm phá vỡ chuẩn mực của Trump nhưng lại phớt lờ dư luận về tuổi tác cao của mình và phá vỡ lời hứa bằng cách ân xá cho con trai mình, Hunter.

'Hạt giống đã được gieo trồng'

Joseph Robinette Biden Jr., người đến Washington với tư cách là thượng nghị sĩ trẻ nhất của đất nước vào năm 1972 và rời đi với tư cách là tổng thống lớn tuổi nhất của đất nước, hy vọng sách lịch sử sẽ ghi nhớ những điều tích cực và xóa bỏ những điều tiêu cực trong nhiệm kỳ tại Nhà Trắng của ông khi các chính sách của ông có hiệu lực và người Mỹ có thể gặt hái được những lợi ích từ nhiều thành tựu của ông.

“Sẽ mất thời gian để cảm nhận được tác động đầy đủ của tất cả những gì chúng ta đã cùng nhau làm. Nhưng những hạt giống đã được gieo trồng và chúng sẽ nảy mầm và nở hoa trong nhiều thập kỷ tới”, ông phát biểu vào tối thứ Tư trong bài phát biểu chia tay dài 19 phút từ Phòng Bầu dục.

Bài phát biểu khiến nhiều đồng minh của Biden ngạc nhiên vì những gì nó không phải: một danh sách dài những thành tựu để đánh bóng di sản một nhiệm kỳ. Thay vào đó, Biden đã sử dụng phần lớn các phát biểu của mình để cảnh báo về một "tổ hợp công nghiệp công nghệ" đang phát triển mạnh mẽ, do các nhà tài phiệt điều hành và làm xói mòn các thể chế dân chủ. (Những người chỉ trích lưu ý rằng Biden và những người theo đảng Dân chủ của ông từ lâu đã dựa vào sự hỗ trợ tài chính của các tỷ phú, bao gồm cả từ Thung lũng Silicon và Phố Wall.)

Nhưng điều đó không có nghĩa là ông không nghĩ đến vị trí của mình trong số 45 vị tổng thống khác của Hoa Kỳ. Trong những ngày cuối cùng của nhiệm kỳ tổng thống, Biden ngập tràn cảm xúc, lưu tâm đến di sản của mình.

Ông đã thực hiện một loạt các hành động hành pháp để cố gắng củng cố chương trình nghị sự của mình trước khi Trump đến, bao gồm cả về môi trường, nhập cư và ngoại giao. Ông đã ban hành hàng chục lệnh ân xá và hàng nghìn lệnh giảm án và vẫn đang cân nhắc xem có nên ân xá trước cho một số đồng minh chính trị có thể phải đối mặt với việc truy tố trong kỷ nguyên Trump mới hay không.

Các cố vấn cho biết ông thường xuyên đi dạo trên con đường ký ức hơn bình thường, khi ông sốt sắng làm việc để nhắc nhở mọi người về những thành tựu mà ông tin rằng chưa được công nhận đầy đủ. Các cố vấn cho biết tâm trạng của ông bên trong Cánh Tây dao động từ bồn chồn đến hoài niệm.

"Ông ấy luôn thất vọng vì chúng tôi đã không kể một câu chuyện đủ hay về những gì chính quyền đã làm", một quan chức cấp cao của Nhà Trắng nói với CNN. "Sự bất bình của ông ấy là không nhận được sự đền đáp xứng đáng".

Các đồng minh cho rằng lịch sử sẽ nhìn nhận thuận lợi hơn về nhiệm kỳ tổng thống của ông khi các chính sách ông đưa ra đạt được thành quả.

"Tôi nghĩ các nhà sử học sẽ không giải quyết những câu nói sáo rỗng và việc bạn có làm sai lệch một giới từ hay cụm từ hay không", Dân biểu Jim Clyburn (D-South Carolina) nói với CNN. "Họ sẽ giải quyết bản chất, và về bản chất, tôi nghĩ bạn sẽ thấy rằng Joe Biden sẽ được đối xử rất, rất tốt".

Những gì không được đề cập, ít nhất là trực tiếp với Biden, là những thiếu sót của chính ông với tư cách là người truyền đạt và khả năng ông có thể thúc đẩy di sản của mình — và cơ hội chiến thắng của đảng ông — bằng cách từ bỏ nỗ lực tái tranh cử hoặc kết thúc sớm hơn nhiều so với những gì ông đã làm.

Biden và gia đình vẫn còn đau lòng vì rất nhiều người bạn Dân chủ của họ, bao gồm cả cựu Chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi, dường như đã bỏ rơi Biden sau cuộc tranh luận hỏng của ông với Trump vào tháng 6.

"Tôi chỉ muốn nói rằng tôi thất vọng với cách mọi chuyện diễn ra", đệ nhất phu nhân Jill Biden nói với tờ Washington Post tuần này. "Tôi đã học được rất nhiều điều về bản chất con người".

Kể từ cuộc bầu cử tháng 11, Biden đã bí mật gợi ý với một số bạn bè và đồng minh rằng ông tin rằng mình có thể đánh bại Trump nếu một số nhà lãnh đạo đảng không đẩy ông sang một bên. Một nhà lập pháp Dân chủ cho biết tổng thống cũng đã đưa ra bình luận này trong một bữa tiệc nghỉ lễ tại Nhà Trắng trong một khoảnh khắc "khó xử và rõ ràng là sai lầm", nhà lập pháp này cho biết.

Năm nay, Biden cũng bắt đầu chia sẻ những suy nghĩ đó một cách công khai khi trả lời phỏng vấn với tờ USA Today: “Thật là tự phụ khi nói như vậy, nhưng tôi nghĩ là có, dựa trên các cuộc thăm dò ý kiến”.

Tất nhiên, cuộc thăm dò không cho thấy điều đó.

Căng thẳng với Harris

Mỗi lần Biden nói rằng ông có thể đánh bại Trump thì đó lại là lời nhắc nhở mới rằng Harris đã không làm được điều đó, điều này làm gia tăng căng thẳng cho mối quan hệ vốn đã phức tạp giữa hai người trong những ngày tháng cuối cùng của mối quan hệ đối tác tại Nhà Trắng.

"Đó là dấu hiệu của sự thiếu tôn trọng dù ông ấy có cố ý hay không", một cựu cố vấn của Harris nói với CNN, yêu cầu giấu tên để nói chuyện công khai về mối quan hệ căng thẳng giữa hai người và nhiều người trung thành lâu năm của họ.

Phó Tổng thống Kamala Harris ôm Tổng thống Joe Biden trước khi phát biểu tại Tiệc chiêu đãi mừng lễ của Ủy ban Quốc gia Dân chủ tại Washington vào ngày 15 tháng 12 năm 2024.
Phó Tổng thống Kamala Harris ôm Tổng thống Joe Biden trước khi phát biểu tại Tiệc chiêu đãi mừng lễ của Ủy ban Quốc gia Dân chủ tại Washington vào ngày 15 tháng 12 năm 2024. 
Saul Loeb/AFP qua Getty Images

Các trợ lý cho biết Biden không có ý định để những bình luận của mình được xem theo cách đó và không công khai chỉ trích Harris hay chiến dịch mà bà điều hành. Tuy nhiên, những bình luận của ông, được đưa ra nhiều lần, vẫn khiến nhiều đảng viên Dân chủ khó chịu.

Sau khi cuộc phỏng vấn của USA Today được công bố vào tuần trước, Biden và Harris đã có cuộc trò chuyện về những bình luận của ông về cuộc bầu cử, hai người quen thuộc với vấn đề này cho biết. Hai ngày sau, Biden đã điều chỉnh ngôn ngữ của mình một chút khi được các phóng viên hỏi về việc liệu ông có thực sự tin rằng mình có thể đánh bại Trump hay không.

"Tôi nghĩ tôi đã có thể đánh bại Trump, có thể đánh bại Trump", Biden nói. "Tôi nghĩ Kamala có thể đánh bại Trump, có thể đánh bại Trump".

Đó là câu trả lời vẫn khiến một số cố vấn và người hâm mộ Harris tức giận, người đã nỗ lực hết sức để chứng minh lòng trung thành của mình với Biden bằng cách không chỉ trích hoặc xa lánh ông trong suốt chiến dịch tranh cử tổng thống kéo dài 107 ngày của bà.

"Bà ấy đã trung thành đến mức tự chuốc lấy bất lợi", một cựu cố vấn khác của Harris cho biết, cũng nói với điều kiện giấu tên vì phó tổng thống đã thúc giục các cộng sự của mình đối xử tử tế với Biden khi ông rời nhiệm sở.

Nhưng những lời nói của ông đã lan truyền khắp các nhóm tin nhắn và cuộc trò chuyện, đặc biệt là cách ông sử dụng khi được hỏi liệu Harris có nên tái tranh cử vào năm 2028 để giành được đề cử của đảng Dân chủ hay không.

"Tôi nghĩ bà ấy có đủ năng lực để tái tranh cử sau bốn năm nữa", Biden nói với các phóng viên vào cuối tuần trước. "Đó sẽ là quyết định mà bà ấy phải đưa ra".

Về phần mình, Harris đã sát cánh cùng tổng thống - tại Cross Hall, khi Biden công bố thỏa thuận ngừng bắn ở Trung Đông, và ngồi tại Phòng Bầu dục, chỉ cách Bàn Resolute vài bước chân, khi ông có bài phát biểu chia tay toàn quốc vào giờ vàng.

Một cố vấn cấp cao của đảng Dân chủ thân cận với Biden và Harris cho biết mối quan hệ của họ "rất tốt", nhưng tự nhiên trở nên phức tạp khi bà trở lại Nhà Trắng sau khi trở thành ứng cử viên. Cố vấn này so sánh động lực với Al Gore và Bill Clinton trong những ngày cuối cùng của thời gian họ ở bên nhau.

"Việc quay trở lại vị trí số 2 luôn khó khăn", cố vấn đảng Dân chủ cho biết. "Trump khiến điều đó thậm chí còn khó khăn hơn".

Một số nhà lãnh đạo đảng Dân chủ, bao gồm các thành viên của Quốc hội, cho biết họ mong muốn đảng và đất nước vượt qua những thất bại đau đớn trong cuộc bầu cử năm 2024.

“Giờ thì mọi chuyện đã kết thúc rồi, nên thực sự không còn quan trọng nữa, đúng không?” Dân biểu đảng Dân chủ Sydney Kamlager-Dove của California cho biết. “Đây là thực tế của chúng ta và chúng ta phải tiến về phía trước. Tôi thậm chí không nghĩ đến bất kỳ điều gì trong số đó nữa.”

Dân biểu Summer Lee, đảng viên Dân chủ của Pennsylvania, cho biết sẽ không có nhiều lợi ích khi tập trung vào những bình luận của tổng thống hoặc cuộc trao đổi ứng cử viên lịch sử giữa Biden và Harris vào mùa hè năm ngoái.

"Tôi thấy rằng việc Biden nghĩ rằng ông ấy có thể làm hay không thể làm không thực sự quan trọng. Hoặc bất kỳ ai khác", Lee nói với CNN. "Mục đích của việc tập trung vào điều đó là gì? Giá như, có thể, nên như vậy. Chúng ta đã thua cuộc bầu cử".

Theo một số cách, cách Harris và Biden dành những ngày cuối cùng ở Nhà Trắng phản ánh những con đường khác nhau mà họ sẽ theo đuổi khi không còn làm việc cùng nhau nữa.

Biden, sau khi phục vụ trong các chức vụ công trong phần lớn nửa thế kỷ qua, sẽ bước vào cuộc sống riêng tư sau khi gần đây đã trở thành ông cố. Trọng tâm của ông sẽ chuyển sang, một phần, để gây quỹ hàng triệu đô la cần thiết để xây dựng một thư viện tổng thống. Ông có khả năng sẽ viết một cuốn sách mới.

“Tôi sẽ không biến mất khỏi tầm mắt hay tâm trí,” Biden nói với các phóng viên tuần trước, mặc dù không rõ ông dự định sẽ lên tiếng như thế nào trong những tháng và năm sau khi rời nhiệm sở.

Harris, kém Biden 22 tuổi, phải đối mặt với một loạt quyết định khác. Ít ai tin rằng sự nghiệp chính trị của bà đã kết thúc; sau một thời gian đánh giá, bà có khả năng sẽ ra tranh cử thống đốc California vào năm 2026 — hoặc thậm chí là tranh cử tổng thống vào năm 2028.

“Tôi không phải là người có bản tính lặng lẽ đi vào đêm tối,” bà nói với các nhân viên hôm thứ Năm khi bà ký vào bàn làm việc của mình tại Nhà Trắng, một truyền thống đã kéo dài hàng thập kỷ. “Vì vậy, đừng lo lắng về điều đó.”

Sunday, January 19, 2025

NICK ÚT KHÔNG PHẢI TÁC GIẢ BỨC ẢNH ‘EM BÉ NAPALM’? BBC Tiếng Việt

 
Bức ảnh “Em bé Napalm” chụp bé gái 9 tuổi Kim Phúc trần truồng chạy ra từ một ngôi làng vừa bị máy bay Mỹ ném bom napalm tại Tràng Bảng, tỉnh Tây Ninh năm 1972, đã trở thành một trong những bức ảnh biểu tượng cho chiến tranh Việt Nam.

Bức ảnh đã góp phần thay đổi cách nhìn của thế giới về cuộc chiến Việt Nam, cũng nhưng mang về giải Pulitzer danh giá cho nhiếp ảnh gia Nick Út, người từng là phóng viên chiến trường cho hãng AP tại Việt Nam vào những năm 1960.

Ông Nick Út đã về hưu năm 2017 và hiện đang sống ở California, Mỹ.

Nhưng mới đây một bộ phim với nhan đề “The Stringer”, dự kiến sẽ ra mắt vào tuần tới tại Liên hoan phim Sundance, đã đặt câu hỏi về danh tính của người chụp bức ảnh này.

Các nhà làm phim nói bộ phim của họ phơi bày “một scandal đằng sau việc tạo ra một trong những bức ảnh được nổi tiếng nhất của thế kỷ 20”.

Theo nhà sản xuất phim, tác giả của bức ảnh nổi tiếng này là một người là tài xế cho NBC News vào thời điểm đó và hiện cũng đang sống ở California. Người này được cho là đã giao phim của mình cho văn phòng AP với tư cách là “cộng tác viên”.

Cả nhiếp ảnh gia Nick Út và hãng AP đều kịch liệt phản đối bộ phim này, và luật sư của ông Út đang tìm cách ngăn chặn buổi ra mắt phim, đe dọa sẽ kiện về tội phỉ báng.

Hãng AP cho biết đã tiến hành cuộc điều tra riêng trong sáu tháng và kết luận rằng họ “không có lý do gì để tin có bất kỳ ai khác ngoài ông Út đã chụp bức ảnh này”.

📷 Getty Images: Nhiếp ảnh gia Nick Út gặp lại "em bé Napalm" Kim Phúc năm 2023

#BBCNewsTiengViet #NickUt

Friday, January 17, 2025

Sương xuân và hoa đào - Vũ Thư Hiên

 Tôi bao giờ cũng hình dung Tết gắn liền với đất Bắc, nơi đi trước mùa Xuân phải có một mùa Ðông.

Mùa Ðông ở nơi này mỗi năm mỗi khác, nó có thể lạnh nhiều hay lạnh ít, độ ẩm có thể cao hay thấp, nhưng nhất thiết không thể không có gió bấc và mưa phùn. Không khí se lạnh làm cho con người phải co ro một chút, rùng mình một chút, chính là sự chuẩn bị không thể thiếu để cho ta bước vào cái mốc thời gian mới đối với mỗi người mỗi nhà.

Thành thử ở Sài Gòn trùng vào những dịp Xuân sang tôi vẫn không thấy lòng mình rung động cảm giác về cái Tết ruột rà, cái Tết đích thực. Xin các bạn Sài Gòn tha lỗi cho tôi nếu trong những lời của tôi có gì làm các bạn phật ý, nhưng mãi tới nay, sau nhiều Tết Sài Gòn, tôi vẫn chưa quen được với một ngày đầu năm phải phơi đầu dưới cái nắng chói chang và trầm mình trong cái nóng hầm hập, làm cho con người phải tìm đến với trái dưa hấu mọng nước trước khi ngồi vào mâm cỗ Tết có đủ thịt mỡ và dưa hành, bánh chưng và giò thủ. Ở mỗi nhà vẫn nghi ngút trầm hương thật đấy, ngoài đường xác pháo toàn hồng vẫn tràn ngập lối đi thật đấy, nhưng cái Tết dường như vẫn còn lạc bước nẻo nào, nó chưa hẳn là Tết, chưa đủ là Tết.

Ðành phải viện hai câu thơ mà nhiều người vốn không yêu thơ cũng thuộc, để giải thích nỗi nhớ về đất Bắc, để biện hộ cho cái cảm xúc không phải đạo của mình trước đất Sài Gòn cũng đã trở thành không kém thân thương:

Tự thuở mang gươm đi mở cõi,

Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long.

(Huỳnh Văn Nghệ)

Thực ra, chuyện chẳng có gì lạ. Người Việt phương Nam nào mà chẳng có một cái quê còn nhớ hay đã quên, có biết hay không biết, nằm ở phía ngoài kia.

Người xông nhà chúng tôi rất sớm, khi còn tối đất, sáng Mồng Một năm Ðinh Tỵ (1977), là nhà văn Nguyễn Tuân.

Người xông nhà, theo sự mê tín từ xưa, là một nhân vật đặc biệt quan trọng đối với vận mệnh gia chủ. Tùy theo người xông nhà là ai, năm đó ngôi nhà sẽ có nhiều may mắn hoặc xui xẻo. Những người cẩn thận thường phải tính chuyện mời ai đến xông nhà mình từ lâu trước khi Tết đến. Người xông nhà nhất thiết phải là người đang làm ăn phát đạt, con cháu đầy đàn mà hòa thuận, hoặc một bậc lão niên tài cao đức trọng – chuyện này còn tùy thuộc ở kỳ vọng của gia chủ mong muốn điều gì.

Bác Nguyễn, chọn nhà tôi để đến xông đất đầu năm vì biết chắc chúng tôi không kiêng kỵ, nếu năm đó có chuyện gì không hay xảy đến cho chúng tôi thì ông cũng không bị trách. Kể ra được (hay bị) một nhà văn đến xông nhà thì, theo lệ thường, chẳng hay ho gì. Xét về truyền thống hiếu học và trọng kẻ sĩ của đất Bắc, nhà văn hẳn là bậc đáng trọng rồi. Nhưng xét về tài lộc thì bất kỳ nhà văn nào cũng nằm ở hạng bét trong thứ bậc giàu nghèo. Tất nhiên, không kể những quan chức bổng nhiều lộc lắm, lại rảnh việc, cũng rửng mỡ xông vào làng văn mà viết sách in thơ.

Cha tôi rất quý Nguyễn Tuân. Ông coi Nguyễn Tuân hơn là một người bạn thời thanh niên. Trong cái nhìn của ông, Nguyễn Tuân là một trong những đại diện cuối cùng cho lớp văn sĩ Bắc hà mỗi ngày một hiếm, những người cho tới lúc ấy còn biết coi tiền bạc như của phù vân, không cúi đầu vâng dạ trước quyền lực. Riêng đặc điểm sau Nguyễn Tuân phủ nhận. Ông luôn phô rằng mình biết sợ, hơn thế, chẳng những ông sợ vừa mà còn sợ lắm lắm. Cái sự phô ấy làm cho người ta lầm tưởng rằng ông không sợ.

Ông đến xông nhà chúng tôi trong chiếc áo choàng màu cứt ngựa. Bỏ nó ra, bên trong vẫn là bộ áo cánh đen thường nhật. Trời rét ngọt, ông mặc thêm áo len và quàng khăn, đội mũ bê-rê. Bộ áo cánh đen là cách diện của ông, của Nguyễn Tuân. Ông bao giờ cũng thích mình phải khác người, cho dù chỉ một chút. Tôi mở cửa đón ông, hơi ngỡ ngàng. 

Tôi không chờ đợi một người ngoài gia tộc đến xông nhà. Những năm ấy người ngoài ít dám tới nhà chúng tôi lắm. Lại càng không chờ đợi Nguyễn Tuân với sự sợ hãi được khoe khoang của ông. Nhưng không ai đi hỏi người đến xông nhà rằng tại sao ông đến. Với bất cứ người xông nhà nào ta chỉ có thể vồn vã chào đón và đem bánh pháo đầu tiên của ngày mồng Một ra đốt. Nguyễn Tuân đoán ra câu hỏi câm lặng của tôi. Ông ý nhị nói:

– Nói thực, mình đến đây sớm vì chẳng biết đi đâu. Mà lại rất thèm đi dạo một lúc trước khi bình minh ló rạng trong cái ngày đầu năm này. Lang thang mãi rồi mình thấy mình đến đây. Không sao chứ?

Cha tôi nghe léo xéo bước ra, tươi cười ôm lấy bạn dìu vào nhà. Ông sai tôi rót rượu, châm hỏa lò than để nướng mấy con mực. Cha tôi biết Nguyễn Tuân không ưa đồ ngọt, khay mứt trên bàn chắc chắn sẽ không được ông đụng đến. Ông ngồi xuống chiếu, xếp bằng tròn, giơ đôi tay cóng sưởi trên hỏa lò. Lửa than làm vầng trán hói của ông bóng lên trong căn phòng nhỏ. Cha tôi thường tiếp bạn thân trong căn phòng riêng của ông chứ không phải ngoài phòng khách. Hai người bạn già thân tình nhìn vào mắt nhau, chạm ly trong im lặng. Cả Nguyễn Tuân, cả cha tôi, đều không thích những lời ồn ào.

– Ngon tuyệt. Nguyễn Tuân nhắp vài nhắp rượu trong vắt với vẻ thích thú rồi ngửa cổ cạn ly.

– Làng Vân chính hiệu đấy! Cha tôi nói, nét hài lòng hiện lên mặt. Ông thích được chiều bạn và khi bạn vui, ông còn sướng hơn chính ông được vui.

– Tuyệt!

– Mình phải đặt loại đặc biệt cho cái Tết đoàn viên này.

Ðúng vậy, đây là cái Tết đầu tiên gia đình tôi đủ mặt. Không thiếu ai. Những Tết trước gia đình tôi tan tác. Tôi ở trong tù. Cha tôi bị lưu đày ở Nam Ðịnh.

– Hơn hẳn anh Trương Xá. Vào đến cổ họng là biết ngay! Nguyễn Tuân xác nhận.

Phận con cháu, tôi được phép ngồi bên cạnh các cụ làm chân điếu đóm. Tôi thích nghe bác Nguyễn nói chuyện. Trong câu chuyện của ông bao giờ cũng có một cái gì mới, một cái gì ngồ ngộ, độc đáo mà không phải ai cũng có thể có. Về đời sống cũng như trong văn chương, ông là người uyên bác.

Tính về họ hàng theo đàng mẹ, tôi phải gọi ông bằng bác. Nhưng ông rỉ tai tôi, một lần ở chỗ đông người: “Họ xa rồi, cùng cánh văn chương với nhau, gọi thế nó mất đi cái sự bình đẳng, gia trưởng lắm.” Tuy miệng vâng dạ, tôi vẫn kính cẩn gọi bác xưng cháu với ông. Mẹ tôi là người nghiêm khắc trong chuyện xưng hô lắm.

Chuyện vãn một lát, lại chuyện làng văn làng họa, ai mới viết cái gì hay, bức họa cuối cùng của ai độc đáo, là đề tài yêu thích của ông, Nguyễn Tuân hỉ hả ra về. Ông nói ông còn phải đến chơi với Văn Cao (“Bà Băng bà ấy kiêng. Mình phải đến muộn muộn một tí!”), đến Nguyễn Sáng (“Tết nhất mà nó có một mình, buồn chết đi được!”).

Ra khỏi cổng, Nguyễn Tuân dừng lại hồi lâu trên hè, nhìn phố Hai Bà Trưng thưa thớt người đi lại vào sáng sớm tinh sương, ông nghiêng đầu nói khẽ với tôi:

– Anh có thấy Hà Nội buổi sáng Mồng Một này thiếu cái gì không?

Tôi không cần động não để tìm câu trả lời. Câu hỏi được đặt ra chỉ là cái cớ cho câu trả lời đã có sẵn, chắc chắn là sẽ rất Nguyễn Tuân. Tôi im lặng, chờ câu ông sẽ nói.

– Thiếu sương! Nguyễn Tuân, mắt vẫn nhìn chung quanh, thở dài.

– Anh không nhận ra cái sự thiếu ấy, tôi biết, nhưng tôi không trách. Anh còn quá trẻ. Ngày trước, sáng mồng Một bao giờ cũng có sương nhè nhẹ, không nhiều, một chút gọi là có, nhưng đích thực là sương. Nó bay là là, thoang thoảng, như có mà như không. Rét ngọt. Chỉ có trên các lá cây mới có sương hiển hiện, lâu lâu đọng thành giọt, rơi xuống mặt mình, có khi lọt cả vào cổ áo mình, rất là Tết. Ðã mấy năm nay, vào ngày Tết mình cứ thấy thiếu thiếu cái gì đó mà không biết là cái gì. Bây giờ mới hiểu ra: đúng là thiếu nó, thiếu sương.

Tôi bàng hoàng trước nhận xét của ông. Tôi nhớ đến những năm rất xa, khi tôi còn nhỏ. Ðúng là Hà Nội những ngày đầu năm ấy sương la đà trên mặt đường, lẩn khuất trong những bãi cỏ, bụi cây.

– Thưa bác, có lẽ tại Hà Nội đông dân thêm, nhiều nhà máy nhiều xe cộ, thành thử cái tiểu khí hậu địa phương thay đổi, nhiệt độ do đó mà cao hơn trước!

– Ðốt anh đi! Các anh bây giờ, đụng đến cái gì cũng vội vã chỉ ra nguyên nhân rồi dài dòng giải thích, cứ như chung quanh mình toàn một lũ thất học vậy. Các anh làm văn kia mà.

Không nhìn tôi, ông nhăn mặt cằn nhằn:

– Tôi là tôi đang nói cái có, tôi nói cái hiện hữu, nói cái cảm xúc mà cái hiện hữu ấy gây ra. Còn cái chuyện đi tìm cội nguồn của hiện tượng là việc của người khác. Cái bệnh dịch tuyên giáo thật đáng sợ.

– Thế là mất đứt cái anh sương xuân bảng lảng. Tiếc quá đi mất!

Nguyễn Tuân lại thở dài. Ông buồn thật sự.

– Thiếu nó, Tết Việt Nam nghèo đi, mà không chỉ nghèo đi một chút đâu nhá, anh hiểu không? Ðành vậy, sang năm phải tìm cách đón giao thừa ở ngoại thành, may chăng còn có thể gặp lại nó.

Rồi đột ngột ông quay sang chuyện khác:

– Này, năm nay giáp Tết mưa thuận gió hòa, hoa đẹp lắm. Sao mấy hôm rồi không thấy anh đi chợ hoa?

Ðã thành cái lệ, năm nào cha tôi và Nguyễn Tuân cũng rủ nhau đi thưởng hoa ở Cống Chéo Hàng Lược. Có những buổi hai ông la đà từ trưa tới tối mịt mới về đến nhà.

– Thưa bác, mấy hôm rồi cháu lại mắc bận.

Tôi nói dối. Thực ra tôi không đi vì tôi không thích chợ hoa. Cái mẩu phố hẹp có tên là Cống Chéo Hàng Lược ngày thường đầy rác rưởi trong những ngày giáp Tết bỗng trở nên nhộn nhịp khác thường. Trên là trời, dưới là hoa.

Và người người chen chúc nhau đi xem hoa, mua hoa. Những cây quất trĩu quả vàng chen lẫn với các cành đào cầm trên tay, các sọt đan đựng đủ mọi loại cúc, loại hồng, lay-ơn, thược dược… Ở đây ồn ào quá, nhiều trai thanh gái lịch quá, nhiều quần áo mới quá, nhiều gương mặt hãnh tiến quá. Tôi còn sợ nhìn cái cảnh chợ chiều ba mươi Tết, khi những người bán hoa co ro trong manh áo mỏng, cành đào trong tay, mặt ngơ ngác, lo âu chờ khách. Trong cái bầu không khí vui vẻ quá nhân tạo ấy, bông hoa nào, cành hoa nào, chậu hoa nào cũng có vẻ tội nghiệp bởi cái thân phận hàng hóa của chúng.

– Ðào năm nay được mùa. Chợ nhan nhản những đào là đào, giá lại hạ, nhà nghèo nhất năm nay cũng có đào Tết. Thế mà đố có tìm ở Cống Chéo Hàng Lược được một cành nào như cành đào của bố anh. Tuyệt! Không chê vào đâu được. Năm nào cành đào của ông ấy cũng làm tôi mê man, cũng làm tôi sửng sốt: “Thằng cha giỏi thật, sao mà nó khéo chọn đào đến thế!”. Thôi, tôi về. Còn phải đến mấy nhà nữa, mà mình thì thích cuốc bộ. Hôm nay tôi đến là để chúc mừng gia đình anh đoàn tụ. Mai có khi tôi còn đến đây nữa. Ðể ngắm cành đào của bố anh.

Ngày hôm sau ông lại đến thật. Và đúng là chỉ để ngắm có một cành đào mà thôi.

Cha tôi không phải nghệ sĩ. Ông, nói của đáng tội, từng là nhà báo. Mặc dầu cũng động tới chữ nghĩa, nhưng nhà báo vẫn có cái gì nó khác với nhà văn (tất nhiên không kể những người có hai nghề nhập một). Nhà báo không có tính lập dị thường gặp ở các nhà văn và các văn nghệ sĩ, hay là tính cách kỳ quặc nào đó ở họ mà người đời quy cho là lập dị. Có điều, mặc dầu có Tây học, ông thích cuộc sống thanh đạm của người xưa và rất yêu hoa. Trong nhà tôi, kể cả những lúc khó khăn nhất, bao giờ cũng có hoa. Trước khi ông đi tù ở nhà tôi là một vườn phong lan đủ loại, nổi tiếng trong những vườn phong lan ở Hà Nội.

Tết nào ông cũng cầu kỳ chơi hai thứ hoa: thủy tiên và đào.

Thủy tiên là thứ hoa không bình dân. Nó không thèm nở nếu chẳng may rơi vào tay người không biết thưởng thức.

Ðể cho thủy tiên nở, phải biết nghệ thuật trổ thủy tiên. Con dao dùng để trổ thủy tiên không phải là con dao bài bất kỳ, mà là một con dao dùng riêng cho nó. Cha tôi mua củ thủy tiên về, giá rất đắt, hình như là phải nhập khẩu chứ nước ta thời ấy chưa có cơ sở gây trồng. Thủy tiên có bề ngoài giống một củ hành tây lớn, rất tầm thường, chẳng hứa hẹn một hương sắc nào. Chuẩn bị cho việc gọt thủy tiên, cha tôi hì hục mài dao cho tới khi nó bén đến mức đặt sợi tóc lên lưỡi dao mà thổi phù một cái thì sợi tóc lập tức bị đứt đôi, và đầu nhọn của nó thì chỉ vô ý chạm ngón tay vào là máu ứa ra liền. Rồi ông còn phải ngắm nghía hồi lâu cái củ hành nọ, cho tới khi quyết định đặt nhát cắt đầu tiên lên mình nó. Những nhát cắt, nhát trổ chính xác được ông cân nhắc từng tý, cho tới khi hài lòng đặt nó vào cái bát thủy tinh, cũng lại thứ dành riêng cho nó.

Mẹ tôi chăm chú theo dõi bàn tay khéo léo của cha tôi xoay quanh củ thủy tiên. Bà cũng là người khéo tay, nhưng khéo tay ở những việc khác, chứ trổ thủy tiên thì bà chịu, không biết cách gọt như cha tôi. Những Tết cha tôi vắng nhà, trên bàn thờ ông bà ông vải chỉ có hoa huệ, thủy tiên thì hoàn toàn vắng bóng. Hoa thủy tiên bắt đầu trổ những cánh xanh mập mạp cũng chẳng khác lá hành là mấy, nhưng chúng nhỏ nhắn, ngắn và không vươn quá thành bát đựng. Người gọt khéo có thể chỉ định đúng ngày hoa nở, khéo hơn nữa có thể đúng đến cả giờ. Thủy tiên do cha tôi gọt bao giờ cũng nở hết số hoa nó chứa trong mình vào đúng giao thừa, chính xác vào cái giờ khắc thiêng liêng nhất của sự giao hòa giữa người thuộc cõi âm và người thuộc cõi dương, giữa tổ tiên và con cháu.

Cha tôi đứng lặng trước ban thờ ông bà, đầu hơi cúi. Mẹ tôi đứng sau ông thì thầm khấn vái. Hương trầm ngát trong nhà. Rồi pháo của một nhà nào đó nổ vang, kéo theo sau nó cả một đợt sóng triều tiếng pháo râm ran. Tôi không bao giờ thấy được hương thủy tiên vào lúc thủy tiên nở hết hoa của nó trong hương trầm và khói pháo. Sáng sớm mồng Một, rất sớm, khi trời đất đã lặng đi mọi tiếng động của sự đón Xuân, lúc ấy mới thấy được hương thủy tiên thoang thoảng. Ðó là một hương thầm ẩn náu, thoang thoảng mà kiêu sa. 

Nó không để lại trong tôi một ấn tượng rõ rệt nào. Tôi cũng không cảm nhận được cái đẹp của hoa thủy tiên. Mà cũng có thể đó là do ảnh hưởng câu chuyện chàng Narcissus trong thần thoại Hy Lạp mải mê ngắm sắc đẹp của chính mình trong nước suối, mải mê đến nỗi ngã xuống mà chết đuối, trở thành loài hoa nọ. Tôi không thích những người say mê chính mình.

Sau khi cha tôi qua đời, chẳng bao giờ trong nhà tôi còn có hoa thủy tiên nữa. Nhưng hoa đào thì không bao giờ vắng bóng trong những ngày Tết gia đình, với cách thưởng thức truyền thống mà những thế hệ đi trước để lại.

Trước Tết một tháng, cha tôi, thường có tôi đi theo, đạp xe lên vùng Quảng Bá, Nhật Tân, Nghi Tàm, nơi có những nhà trồng hoa cha truyền con nối. Cùng với một chủ vườn nào đó đã trở thành người quen, cha tôi đi thăm vườn và xem xét kỹ từng gốc đào để rồi cuối cùng chọn lấy một cành thấp, ưng ý nhất. Tiền đặt mua cành đào được trao ngay cho chủ vườn. Giá thường rất rẻ, lúc ấy chưa có ai mua đào. Ông chủ vườn rút con dao nhíp trong túi ra, đánh dấu cành đào dành cho cha tôi. Chắc chắn nó sẽ không bị bán vào tay ai khác. Bố con tôi hài lòng ra về. Tôi biết, trong óc cha tôi đã hiện lên cành đào trong tương lai sẽ được đặt ở đâu, trong cái bình nào ở nhà mình trong ngày Tết.

Khoảng hai bảy, hai tám Tháng Chạp, cha tôi mới lên vườn nhận cành đào về. Ông chủ vườn trao cành đào cho cha tôi với vẻ tiếc rẻ, không ngớt lời khen cha tôi có con mắt tinh đời. Nhưng đó là cách đánh giá của hai người biết chơi hoa với nhau. Người thường sẽ không mua cành đào này. Nó xù xì ở phần gốc, có mấy cành đua dài và gân guốc, trên đó chỉ thấp thoáng một số nụ.

Sau đó là phần sửa soạn cho cái đẹp của cành đào. Cha tôi còn ngắm nó chán chê rồi mới lấy dao cắt bỏ một số cành con, đem thui phần gốc, rồi trịnh trọng đặt cành đào vào trong lọ độc bình. Ðó là một cái lọ lớn, thường là lọ sành, nhưng phải thấp, miệng rộng, rất bình dị, đến nỗi khi cành đào đã ngự trong đó thì không còn nhìn thấy cái lọ đâu nữa. Cành đào được đặt trong góc nhà. Những cành đua của nó hướng về phía cửa, khách vào có thể nhìn thấy những cánh tay của nó vươn ra chào đón.

Cũng như thủy tiên, cành đào sẽ nở rộ vào đêm trừ tịch.

– Chơi hoa là cách con người tìm niềm vui, tìm tâm trạng thư thái trong mối giao hòa với thiên nhiên – cha tôi tâm sự trước cành đào – Người ta chỉ có thể đón thiên nhiên vào nhà mình, chứ không thể mua sắm thiên nhiên, hoặc tệ hơn, áp giải nó về nhà mình. Vì vậy mà cái bình phải khiêm tốn để tôn vẻ đẹp của cành đào, của mùa xuân. Cành đào đẹp trước hết là ở cái dáng, cái thế của nó: phần gốc xù xì cho ta cảm giác về sự vững bền của nền tảng, những cành đua không nên nhiều quá để tạo ra cảm xúc thanh thoáng, khoáng đạt.

Cha tôi không thích đào rực rỡ quá, khoe khoang quá, hợm hĩnh quá.

– Ðào như thế này đẹp hơn nhiều, cánh của nó chỉ phơn phớt một màu hồng nhạt, vừa có duyên, vừa thầm kín – cha tôi dạy – Người Nhật thích màu hồng của hoa sakura – anh đào, có dễ cũng vì lẽ đó. Tín đồ của Thần Ðạo không chịu nổi những hương sắc quá thế tục. Thêm nữa: trên cành đào Tết không nên có quá nhiều hoa. Lá xanh bên cạnh hoa làm tăng vẻ đẹp của hoa lên. Tất nhiên, mỗi người một ý, nhưng ông nội con và bố đều không ưa những cành đào đầy ắp hoa, cành nào cành ấy đều đặn, trông xa như một cái nơm. Ðã thế có người lại còn cắm cái nơm đào ấy vào cái lọ độc bình cổ cao, bằng sứ, với đủ mọi hình vẽ cầu kỳ sặc sỡ, rồi đặt nó ngất nghểu trên bàn thờ ông vải nữa chứ. Không, chỗ của đào không phải ở đó. Bố thích đặt nó ở đây dưới đất, ngang tầm với mình.

Tôi kể cho Nguyễn Tuân nghe cách cha tôi nhìn vẻ đẹp của cành đào. Ông tủm tỉm cười:

– Về đại thể, bố anh đúng. Nhưng ông ấy cũng có mắc một chút bệnh giải thích. Cái đẹp, theo tôi, là cái không giải thích được. Chỉ có thể cảm nhận nó mà thôi. Bố anh cũng chẳng giải thích nổi tại sao ông đã cắt đi một cành con này mà không phải một cành con khác, tại sao ông giữ cành đua này mà lại bỏ cành đua kia, cái cành được để lại ấy gợi nên trong lòng ông cảm xúc gì. Còn về phần màu xanh của lá trên cành đào thì ông ấy đúng hoàn toàn. Hay gì một cành đào chi chít hoa? Nó làm ta phát ngán. Mùa xuân thì phải có màu xanh của lá, của sự đâm chồi nảy lộc, mới là xuân!

Bây giờ, cả bác Nguyễn Tuân, cả cha tôi, đều đã khuất núi.

Chỉ còn lại cái đẹp của hoa xuân mà hai ông tâm đắc ở trong tôi.

Và nỗi bùi ngùi mỗi lần Xuân đến.

Vũ Thư Hiên 

Vũ Thư Hiên (18 tháng 10 năm 1933) là nhà văn Việt Nam, còn có bút danh là Kim Ân, từng đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1988 với tác phẩm Miền thơ ấu. Ông là con trai của Vũ Đình Huỳnh (1905 – 1990), người làm thư ký cho Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian dài,[1] sau làm Vụ trưởng Vụ Lễ tân Bộ Ngoại giao, Vụ trưởng trong Ban Kiểm tra Trung ương Đảng.

Vũ Thư Hiên
Sinh18 tháng 10, 1933 (91 tuổi)
Hà Nội
Tên khácKim Ân (bút danh)
Dân tộcKinh
Nghề nghiệpNhà văn
Nổi tiếng vì
Tác phẩm nổi bật
Cha mẹVũ Đình Huỳnh
Phạm Thị Tề
Giải thưởngGiải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1988 với tác phẩm Miền thơ ấu

Ông là một trong những nhân vật của Vụ án Xét lại Chống Đảng. Sau đó, ông trở thành một nhân vật bất đồng chính kiến với Nhà nước Việt Nam và sau đó bỏ trốn ra nước ngoài. Năm 1997, hồi ký Đêm giữa ban ngày của ông được xuất bản, trong đó ông tự tuyên bố về một số chi tiết của vụ án này, lên án xã hội theo mô hình cộng sản chủ nghĩa.

Tiểu sử

Vũ Thư Hiên sinh ngày 18 tháng 10 năm 1933 tại Hà Nội, cha là Vũ Đình Huỳnh và mẹ là Phạm Thị Tề đều là thành viên của Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Ông thuở nhỏ đi học, hay vào Phủ Chủ tịch chơi, được Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu mến, hay nhờ những việc lặt vặt.

Năm 1946, đi ca hát, đóng kịch trong một đội Tuyên truyền xung phong.

Năm 1949, đi bộ đội.

Năm 1953, công tác trong lĩnh vực điện ảnh.

Từ 1955 đến 1958, đi học viết kịch bản điện ảnh tại Liên Xô.

Năm 1959, làm việc cho Xưởng phim Việt Nam tại Hà Nội.

Năm 1960, làm biên tập viên và phóng viên Báo Ảnh Việt Nam.

Từ năm 1967 đến 1976, trong Vụ án Xét lại Chống Đảng, ông bị chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bí mật bắt và giam giữ sau khi đã bắt cha ông (Vũ Đình Huỳnh) 2 tháng trước đó. Công an chìm bắt giữ ông lên ôtô và đưa về nhà tù Hỏa Lò ngay trong lúc ông đang đạp xe trên phố Hà Nội. Mãi về sau gia đình ông mới hay tin. Ông bị giam 9 năm, trong đó bị giam trong xà lim cá nhân bốn năm rưỡi, qua các nhà tù Hỏa Lò, Bất Bạt (Sơn Tây) và Tân Lập (Phú Thọ), Phong Quang (Hoàng Liên Sơn). Chính quyền thả ông không án cũng như không xét xử.

Ra tù năm 1976, nhưng còn bị quản thúc bằng lệnh miệng của chính quyền mãi cho tới mùa thu năm 1980 mới được phép vào Nam.

Năm 1977, làm công nhân cao su.

Năm 1979, làm kỹ thuật hóa.

Năm 1989, là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.

Năm 1991, làm kinh doanh.

Năm 1993, ông qua Nga với tư cách phiên dịch cho công ty xuất nhập khẩu Vũng Tàu-Côn Đảo VIECO (hợp tác với tổ hợp Minh Phụng) rồi ở lại làm đại diện cho công ty ở Moskva. Tại đây ông bắt đầu viết cuốn hồi ký Đêm giữa ban ngày về chín năm bị giam cầm, trong đó ông muốn chia sẻ với người đọc những điều suy ngẫm về mô hình nhà nước chuyên chính vô sản.

Cuối năm 1995, sau một vụ tấn công mà ông cho là của mật vụ Việt Nam, ông thấy không thể ở Moskva lâu hơn nữa, nên tìm cách qua Ba Lan. Sau đó ông quyết định tỵ nạn tại Pháp. Tại đây, ông đã hoàn thành tập hồi ký Đêm giữa ban ngày. Tháng 4 năm 1997, xuất bản hồi ký Đêm giữa ban ngày tại Hoa Kỳ.

Ông ở Strassbourg (Pháp) 1 năm, Bern (Thuỵ Sĩ) 1 năm, Đức 2 năm (2000-2001) sau khi đến Pháp theo lời mời của International Parliament of Writers, German PEN Club và Uỷ ban Nhân quyền thành phố Nuremberg. Ngót ba mươi năm lưu lạc xứ người, cuối năm 2022 ông trở về quê hương.[2]

Chú thích

Tác phẩm

Những tác phẩm của ông đã xuất bản khi còn ở Việt Nam:

  1. Lối thoát (kịch, 1954)
  2. Bông hồng vàng (dịch của tác giả Paustovsky, 1960)
  3. Truyện ngắn Paustovsky (dịch, 1962)
  4. Luật rừng (truyện, in chung, 1985)
  5. Khúc quân hành lặng lẽ (truyện nhiều tập, 1985-1989)
  6. Luật rừng (kịch bản, 1988)
  7. Miền thơ ấu (tiểu thuyết, Nhà xuất bản Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh 1988); và một số kịch bản điện ảnh.

Nhà văn đã được nhận giải A văn học thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1988 với tác phẩm Miền thơ ấu.

Sau khi định cư tại nước ngoài, ông viết thêm một số tác phẩm, trong đó có Đêm giữa ban ngày, Kẻ Vô Ơn (truyện ngắn).





Liên kết ngoài

Nhà văn Vũ Thư Hiên vừa từ nước Pháp đi một vòng nước Mỹ để thăm các bạn văn và các độc giả đã từng yêu mến ông qua nhiều tác phẩm, đặc biệt là tập hồi ký “Đêm Giữa Ban Ngày”. Khi ghé Washington tuần này, ông đã dành do đài TNHK một buổi trao đổi thân tình liên quan đến vấn đề văn chương. Mời quý vị theo dõi.

VOA: Thính giả bên trong Việt Nam muốn biết cuộc sống hiện nay của những nhà văn như ông. Xin cho biết qua một vài điều về sinh hoat hằng ngày của ông bây giờ và các nhà văn Việt Nam ở Pháp, Mỹ hay ở hải ngoại nói chung.

VTH: Tôi nghĩ rằng lớp nhà văn già, có bao nhiêu người tôi không tính được, nhưng những người lớp tuổi trên 60, 65 thì chắc là giống tôi, vì bên này An Sinh Xã Hội có cấp tiền cho người già. Còn anh em nhà văn trẻ hơn vẫn có công ăn việc làm. Có lẽ cũng là cái tốt cho họ vì môi trường hoạt động của họ sẽ rộng hơn, họ có dịp đi nước này nước khác nhiều hơn, gặp gỡ các nhà văn nước này nước khác nhiều hơn. Tôi nghĩ anh em trẻ có khác, nhưng đồng thời chúng ta cũng thấy gần đây có một số nhà văn hoàn toàn viết bằng tiếng nước ngoài.

VOA: Tuy sống tại Pháp nhưng chắc chắn là ông vẫn có dịp theo dõi tình hình văn học bên trong Việt Nam. Vậy thì ông có những nhận xét gì về tình hình văn học bên trong Việt Nam hiện nay, điển hình là “Nhật ký Đặng Thùy Trâm”, các bài thơ của Nhóm “Mở Miệng”, tập thơ “Dự báo phi thời tiết” của Nhóm 5 Con Ngựa Trời v.v…

VTH: Tôi cũng chăm chú theo dõi tình hình văn học trong nước, tôi thấy nó tiến chậm chạp so với các nước khác. Văn học ở các nước khác không có những điều cấm kỵ, người đọc đủ trưởng thành để tự chọn món ăn tinh thần cho mình, không cần sự khuyên nhủ của một nhà nước nào hay một cơ quan nào. Những hiện tượng có tiếng ồn trong văn học, thì tôi nghĩ “Nhật Ký Đặng Thùy Trâm” không thể coi là một tác phẩm văn học được. Đó là một tư liệu về tinh thần dấn thân của một thanh niên đi theo một lý tưởng, nhưng nếu nói đó là một tác phẩm văn học thì chắc là không thể nói được.

Còn nhóm Mở Miệng thì tôi cũng đọc thỉnh thoảng, bắt gặp những nét của những anh em trẻ. Tôi nghĩ rằng nhóm Mở Miệng còn tồn tại được vì họ nói những điều không đụng chạm lắm.

5 Con Ngựa Trời cũng thế, nó cũng chỉ phi ở những con đường không có rào cản, nếu có rào cản chắc là không phi được. Dù sao mặc lòng, mình thấy tình hình hình văn học cũng thoáng hơn.

VOA: Ông vừa nói đến “thoáng”, như vậy là các nhà văn bên trong Việt Nam hiện nay không còn “biết sợ” giống như nhà văn Nguyễn Tuân đã từng nói trước đây.

VTH: Tôi nghĩ là cái sợ nó cũng bớt đi rồi. Nó bớt cũng là do tình thế, tức là Việt Nam bây giờ cũng phải hội nhập vào thế giới. Ngày xưa cái cấm kỵ nó nhiều hơn, cái sợ nó nhiều hơn. Bây giờ cấm kỵ giảm đi thì cái sợ cũng bớt đi. Nhưng vẫn có những cái phải sợ, bởi vì nếu mà không cẩn thận sẽ gặp phiền phức, mặc dù Việt Nam đã có những cố gắng để hội nhập với thế giới, tức là chịu khó từ bỏ hành động toàn trị mà trước kia vốn thuộc bản chất của chế độ xã hội ấy. Thí dụ trước kia chỉ cần nói hơi một tí cũng đủ để bỏ người ta vào tù, cho người ta một lệnh tập trung 3 năm, sau đó 3 năm nữa, rồi 3 năm nữa, không biết bao giờ mới ra. Bây giờ người ta cố gắng làm nó khác đi, cho gần với nhân loại bình thường hơn. Và có lẽ theo quán thính thì sự sợ hãi vẫn còn, nó vẫn còn sống dai dẳng. Vì vậy cho nên con đường dân tộc Việt Nam đi đến chỗ khá hơn, tức là bứt phá khỏi vòng vây của những tư tưởng cổ hủ và sai trái để phóng lên con đường cùng với nhân loại, xem ra cũng còn nhiều gian nan lắm.

VOA: Nếu ông nói rằng vẫn còn sợ thì chúng ta đã thấy các phát biểu của Trần Mạnh Hảo; các hồi ký của Trần Vàng Sao hoặc Tiêu Dao Bảo Cự, thì họ đâu có sợ gì đâu.

VTH: Cái đó nó cũng nằm trong cái chung thôi. Ví dụ như trước đây không người nào dám nói như anh Trần Mạnh Hảo, anh Tiêu Dao Bảo Cự ; thì bây giờ không phải một người mà có nhiều người nói. Số đông bao giờ cũng cho người ta cái cảm giác bớt sợ hãi, tất nhiên những người đi tiên phong thì phải gánh chịu những cái khó khăn hơn.
Đặc biệt là gần đây có những người từng giữ những chức vụ khá trong cơ quan đảng hoặc nhà nước, ví dụ như ông Nguyễn Trung, từng là Đại Sứ, ông ta viết tôi thấy cũng nặng nề lắm. Ông viết: đảng cộng sản cứ nắm chặt con tàu Việt Nam , còn đảng viên đảng cộng sản Việt Nam thì cứ giữ chặt những cái ghế trên con tàu ấy, mà con tàu này thì đi theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, mà đảng cộng sản Việt Nam chưa nói rõ Xã Hội Chủ Nghĩa nó là cái gì.

VOA: Một số người nói rằng, so với thời phải ăn bo bo trước đây thì bây giờ đã khá hơn nhiều rồi. Là một nhà văn, ông nghĩ sao về luận điểm này.

VTH: Tôi cho là đúng. Khá nhiều chứ, nó xảy ra với bất kỳ một nước nào, chứ không riêng Việt Nam, như là một hiện tượng thần kỳ, không có đâu. Còn nếu nói rằng bây giờ khác trước, thì chỉ có những cán bộ tuyên huấn mới nói đấy là thành tích do đảng cộng sản tạo ra, chứ còn người dân bình thường người ta thấy hết chiến tranh thì người ta phải làm, phải sống, và sống khá hơn trước. Nhưng bây giờ, đáng chú ý là nếu như có cái gì đó, do đảng cộng sản tạo ra thì đó là sự phân biệt giàu nghèo, sự chênh lệch kinh khủng hiện nay. Ta thử tính xem, một thằng cha nó cá độ đến 1 triệu 8 đôla, báo trong nước đăng rồi, thì thử hỏi một nông dân cần cù phải nhịn ăn bao nhiêu năm và bao nhiêu thế hệ nữa mới chơi được một lần cá cược như anh kia.

VOA: Có những tác phẩm văn học mà sau khi đọc xong, chúng ta có thể gọi là tiếng kêu của loài chim báo bão. Việt Nam đã có một tác phẩm nào báo bão hay chưa, thưa ông?

VTH: Chưa có tác phẩm nào có tính chất báo bão cả. Việt Nam chúng ta có cái đặc biệt là chẳng bao giờ ở cái mắt bão trên đất nước chúng ta cả. Chúng ta toàn chịu những cơn bão rớt thôi. Bão ở vùng biển Đông và nó rớt vào vùng này vùng kia ở nước ta. Những chấn động thế giới sẽ ảnh hưởng đến Việt Nam rất nhiều, và nếu người Việt Nam không mau mắn để chọn con đường đi của mình, cứ chờ đợi một chấn động từ bên ngoài, thì đất nước mình sẽ chậm chạp lắm. Nếu có một con chim báo bão nào thì nó phải báo to điều đó.