
Quốc Gia Hành Chánh
Đầu
năm 1974, khi 21 tuổi và đang là chuẩn úy phục vụ tại tiểu đoàn 253
Pháo Binh, thuộc Sư đoàn 25 Bộ Binh, tôi ghi danh học hàm thụ năm thứ
nhất Luật khoa, viện đại học Sài Gòn. Tháng 7 năm ấy, tôi thi đậu chứng
chỉ năm thứ nhất với số điểm cao thứ hai trong tất cả thí sinh. Thừa
thắng xông lên, hai tháng sau tôi thi đậu vào ban Đốc Sự khóa 22 của Học
Viện QGHC với học trình 4 năm.
Theo
quy định của chính phủ lúc bấy giờ, các quân nhân thi đậu được trở lại
đời sống sinh viên, một hình thức xem như biệt phái vĩnh viễn từ quân
đội sang hành chánh. Tháng 12 năm 1974, khi đã được thăng chức Thiếu úy
trong lúc tình hình chiến sự trở nên sôi động, tôi nhận được sự vụ lệnh
từ Bộ Quốc Phòng để trình diện trường QGHC. Được bảo trợ bởi Đại học
Michigan State University, trường QGHC tổ chức chương trình học gồm hai
khóa mùa Xuân và mùa Thu với những kỳ thi cuối khóa như những đại học ở
Hoa Kỳ.
Chúng
tôi nhập học ngay sau Tết Dương Lịch năm 1975. Đến ngày 12 tháng Ba,
tin tức thị xã Ban Mê Thuột thất thủ trước sự tấn công của Cộng quân
khiến quân dân miền Nam rúng động. Gia đình tôi có nhiều kỷ niệm với
thành phố Cao Nguyên này. Năm 1968, bố tôi, khi còn là Thiếu Tá Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), giữ chức vụ Quận Trưởng quận Ban Mê Thuột
trong gần hai năm cho đến khi ông được thăng chức Trung Tá và đổi về Sài
Gòn. Gia đình tôi đã chuyển lên sống tại thị xã này trong thời gian ấy.
Hai
ngày sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh
triệt thoái khỏi Kontum và Pleiku. Cao Nguyên Trung Phần ở Vùng II
Chiến thuật bị thất thủ. Thêm vài ngày nữa, Quảng Trị, Quảng Ngãi rồi
Huế ở Vùng I mất vào tay địch. Cuối tháng Ba, Đà Nẵng, Phú Yên, và Bình
Định cùng chung số phận. Sang đầu tháng Tư, đến lượt Khánh Hòa, Bình
Thuận, Phan Rang. Chỉ trong vòng chưa đầy ba tuần, miền Nam đã mất nửa
lãnh thổ. Quân đội hoang mang, lắm nơi địch chưa đến mà người lính đã bỏ
thành. Làn sóng đồng bào từ vùng I và vùng II ồ ạt theo chân người lính
VNCH, trốn chạy Cộng sản bằng đường bộ và đường thủy.
Những
tội ác của Cộng sản Việt Nam như chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất ở miến
Bắc trong giai đoạn 1954-1957 và cuộc thảm sát tại Huế vào Tết Mậu Thân
năm 1968 còn gieo rắc kinh hoàng trong ký ức họ. Cũng vì hồi ức về những
tội ác của Cộng sản mà hàng triệu người miền Nam đã cuống cuồng tháo
chạy khỏi những vùng bị địch chiếm đóng trong những ngày tang thương
thuở ấy. Biết bao chuyện thương tâm đã xẩy ra trên những con đường di
tản đầy máu và nước mắt, bi thảm nhất là dọc Liên Tỉnh Lộ 7B từ Pleiku
đến Phú Bổn, nơi hàng ngàn thường dân đã bị tàn sát vì đạn pháo của Việt
Cộng liên tục rót vào đoàn người đang lũ lượt gánh gồng xuôi Nam vào hạ
tuần tháng Ba.

Di Tản Tỉnh Lộ 7 - 23/3/1975
Bước
sang tháng Tư, Hoa Kỳ đã bắt đầu cho di tản người Mỹ còn ở Việt Nam
cùng các nhân viên người Việt đang làm cho sở Mỹ, và gia đình các quân
nhân, công chức VNCH mà họ nghĩ sẽ bị Cộng sản trả thù sau khi chiếm
được miền Nam. Lúc ấy, chúng tôi, những sinh viên QGHC, sau giờ học,
thường vào câu lạc bộ của trường, gọi một tách cà phê hay ly nước ngọt,
đăm chiêu ngồi bàn chuyện thời sự. Thật đau lòng khi trông thấy tấm bản
đồ miền Nam với những tỉnh lỵ, thành phố được tô đỏ dần trên các tuần
báo Time và Newsweek.
Theo
chỉ thị của Ban Giám Đốc học viện, sáng ngày 8 tháng Tư, lớp chúng tôi
tề tựu tại sân trường, chuẩn bị lên ba chiếc GMC đến trại Chí Linh,
trung tâm huấn luyện cán bộ Xây Dựng Nông Thôn, tại Vũng Tầu để giúp
người tỵ nạn từ miền Trung theo tầu, thuyền đến thành phố này. Khi xe
lăn bánh, chúng tôi nghe hai tiếng nổ lớn, vang đến từ hướng trung tâm
thủ đô. Nhìn về hướng tiếng nổ phát ra, mọi người trông thấy một phản
lực cơ F5 của Không lực VNCH đang lượn trên vùng nơi dinh Độc Lập tọa
lạc nên đoán là quân đội, hay một phần của quân đội đang thực hiện cuộc
đảo chánh tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Mãi khi đến trại Chí Linh, chúng
tôi mới nghe kể một phi công của Không lực VNCH oanh tạc dinh Độc Lập
rồi bay ra vùng Việt Cộng đã chiếm.
Theo
chương trình đã hoạch định, lớp chúng tôi ở Vũng Tàu một tuần. Tuy
nhiên, đến sáng ngày thứ ba của chuyến đi, tức ngày 10 tháng Tư, trường
QGHC cho xe đón chúng tôi trở về vì e ngại an ninh trên lộ trình Vũng
Tàu - Sài Gòn sẽ không còn được bảo đảm trong vài ngày sắp đến. Hôm
trước, bốn sư đoàn Cộng quân đã tấn công Xuân Lộc, nơi được ví von là
cánh cửa thép để bảo vệ Sài Gòn từ hướng Đông của thành phố. Trên đường
về, qua từng chặng, chúng tôi lại thấy những đơn vị lính kẻ đứng người
ngồi dọc hai bên lề. Không hiểu họ được lệnh canh gác huyết lộ dẫn đến
thủ đô hay triệt thoái về đấy để tránh sức ép của địch. Đó đây, có những
đoàn người tay xách, nách mang đi bộ về hướng về Sài Gòn. Có lẽ họ là
những người dân chạy loạn.
Tin
tức những người được Mỹ chấp thuận cho di tản đã lên máy bay từ phi
trường Tân Sơn Nhất rời khỏi Sài Gòn được loan truyền rộng rãi. Khoảng
trung tuần tháng Tư, bố tôi liên lạc với một Đại Tá quân đội Mỹ đang
phục vụ tại Tòa Đại sứ Hoa Kỳ mà ông quen biết đã nhiều năm để nhờ ông
này giúp gia đình tôi rời khỏi Việt Nam bằng đường hàng không. Ông Đại
Tá hứa sẽ giúp và bảo bố tôi rằng khi nhận được điện thoại của ông, cả
gia đình phải ra ngay phi trường Tân Sơn Nhất. Mẹ tôi may cho chúng tôi,
mỗi người một túi vải nhỏ để đựng hai bộ quần áo. Bà dặn tôi và các em,
sau giờ học, phải về nhà ngay, đừng để sự vắng mặt của mình ảnh hưởng
đến cả gia đình.
Bố Tôi

Thẻ căn cước quân nhân Trung Tá Nguyễn Ngọc Diễm, thân phụ Nguyễn Ngọc Bảo
Bố
tôi tình nguyện nhập ngũ vào Quân Đội Quốc Gia, tiền thân của Quân lực
VNCH, năm 1951. Ông tốt nghiệp thủ khoa trường Võ bị Phà Đen ở Hà Nội
với cấp bậc chuẩn úy và rồi phục vụ trong một liên đoàn lưu động từng
tham gia các trận đánh khốc liệt với Việt Minh, về sau gọi là Việt Cộng,
tại Bắc phần. Di cư vào Nam, đơn vị ông đóng ở Phú Yên rồi Bình Định.
Năm 1956, ông tham dự lớp Chỉ Huy Tham Mưu và tốt nghiệp thủ khoa nên
được thuyên chuyển về Phòng Ba Bộ Tổng Tham Mưu.
Đôi
ba năm sau, ông được thăng cấp đại úy và giữ trách nhiệm Trưởng Khối Kế
Hoạch. Năm 1968, ông theo học khoá Quân Chánh, khoá học bắt buộc dành
cho các sĩ quan sẽ được bổ nhiệm làm tỉnh hay quận trưởng. Sau khi mãn
khóa, được chọn quận đầu tiên vì tốt nghiệp thủ khoa, ông đã chọn Ban Mê
Thuột, quận lỵ lớn nhất ở cao nguyên Trung phần thuộc tỉnh Dak Lak.
Tháng Ba năm 1970, ông được biệt phái sang hành chánh và trở về Sài Gòn.
Năm 1974, ông giữ trách nhiệm chánh sở kế hoạch thuộc Bộ Nội Vụ.
Bố tôi nhập ngũ một phần vì mối căm thù với Việt Cộng, sau khi họ giết ông nội tôi một cách dã man.
Ông
tôi vốn là nhà giáo trong một làng thuộc huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh,
cách Hà Nội khoảng chục cây số. Khi Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội
vào năm 1945, làng bố tôi trở thành vùng xôi đậu, ban ngày Quốc Gia kiểm
soát, ban đêm Việt Minh mò về. Những người bên kia ép buộc ông tội nghỉ
dậy không được nên trong một đêm năm 1947, họ xông vào nhà tuyên án tử,
rồi bắn ông tôi 5 phát súng lục trước sự chứng kiến của người thân. Lúc
đó bố tôi đang là thông ngôn, làm việc ở nơi khác.
Bắn
xong, họ khênh ông tôi đi rồi bỏ lại đầu ngõ vì nghĩ ông đã chết. Bác
gái tôi, tức chị kế bố tôi năm ấy mới 20 tuổi, thấy ông còn thoi thóp
nên cùng hai người trong họ thay nhau khênh cáng đưa ông đến một đồn
lính Tây cách nhà khoảng 3 cây số nhờ họ chữa trị tạm thời. Mãi ba hôm
sau, những người lính trong đồn mới có xe đưa ông tôi lên nhà thương Phủ
Doãn ở Hà Nội. Ông dần dần bình phục và tạm trú ở Hà Nội. Đầu năm 1951,
làng bố tôi trở thành làng Tề, tức đã được quân Pháp và quân đội Quốc
Gia kiểm soát. Những người trong làng ra Hà Nội thỉnh cầu ông tôi trở về
dậy học lại. Bùi tai, ông quay về làng. Ít lâu sau, vào một buổi tối,
khi dân trong làng, trong đó có ông tôi, đang xem hội hàng năm của làng
thì cán bộ Việt Minh đột kích vào bắn ông tôi. Khi ông tôi ngã xuống, họ
cẩn thận đâm thêm dăm bẩy nhát dao găm cho chết hẳn rồi mới rút lui.
Bố
tôi có người em út, kém ông 15 tuổi, là Đại úy Trưởng Phòng Tiếp Liệu
Quân Y Viện Ban Mê Thuột. Khi thành phố thất thủ, ông theo đoàn người
chạy giặc ra vùng ngoại ô và được một chiếc trực thăng bốc về Sài Gòn
ngày hôm sau, trong khi vợ và con gái nhỏ vẫn đang kẹt lại thành phố.
Khi về đến Sài Gòn, ông tá túc tại nhà chúng tôi nhưng không tìm đường
ra nước ngoài với hy vọng được đoàn tụ vợ con. Hậu quả là ông phải trả
giá với hơn 5 năm tù.
Khi
cùng vợ con sang định cư tại Houston năm 1990 theo diện tù cải tạo, ông
kể rằng trong những năm tháng bị cầm tù, ông và các bạn đồng cảnh phải
học tập cái gọi là “tội ác Mỹ Ngụy,” dĩ nhiên theo sự tuyên truyền dối
trá của Cộng Sản. Trong những “tội ác” này có chiến dịch truy lùng cán
binh Cộng Sản nằm vùng tại Phú Yên sau hiệp định Geneva mà bố tôi là
người trong cuộc. Lúc ấy, tiểu đoàn 10 khinh chiến của Quân Đội Quốc Gia
do đại úy Vũ Duy Đê là tiểu đoàn trưởng và bố tôi là Trung úy đại đội
trưởng Đại Đội Chỉ Huy đã lùng soát và tiêu diệt thành phần chủ chốt của
Việt Cộng tại làng Ngân Sơn, thị trấn Chí Thạnh thuộc tỉnh Phú Yên.
Hiện
nay vẫn còn rất nhiều báo mạng của Cộng Sản Việt Nam ghi lại chuyện này
nhưng với những lời thêu dệt, như những dòng sau đây trên trang mạng
báo Phú Yên Online: “Ngày 5/9/1954, tiểu đoàn lính ngụy mang tên Lê Hữu
Từ (một linh mục phản động khét tiếng ở Bùi Chu - Phát Diệm di cư vào
Nam) do Vũ Duy Đê chỉ huy đã gây ra vụ thảm sát Ngân Sơn - Chí Thạnh làm
chết 64 người, bị thương 76 người. Đây là một trong ba vụ thảm sát man
rợ ở miền Nam gây chấn động cả nước và quốc tế.”
Nói
tóm tắt, bố tôi là người không bao giờ có thể sống chung với Việt Cộng.
Miền Nam mất mà ông còn ở lại trong nước thì cách này hay cách khác,
ông cũng mất. Gia đình tôi biết rõ như vậy.

Thân phụ tác giả Nguyễn Ngọc Bảo và các con
trong buổi tiệc mừng thọ 80 tuổi của ông vào năm 2009
Ba Tổng Thống trong 10 Ngày Cuối của Miền Nam Tự Do
Tối
21 tháng Tư, đài truyền hình Sài Gòn chiếu trực tiếp cảnh tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lãnh đạo đất nước cho tân Tổng
Thống Trần Văn Hương, trong lúc tình hình chiến sự thêm bi thảm cho quân
đội VNCH.
Trong
khung cảnh dầu sôi lửa bỏng ấy, trong tâm trạng buồn rầu, hoang mang,
lo lắng ấy, chúng tôi tự đánh lừa mình với một giải pháp chính trị chấm
dứt cuộc chiến sẽ xuất hiện trong những ngày sắp tới. Tin tưởng như thế
để còn có thể gạo bài chuẩn bị cho kỳ thi cuối khoá.
Gần
8 giờ sáng thứ Hai ngày 28, chúng tôi ngồi trong lớp chờ giáo sư Đoàn
Triệu Yến, vị thày môn Kinh Tế đến phát đề tài bài thi đầu tiên trong kỳ
thi cuối học kỳ. Giáo sư đến đúng giờ với y phục chỉnh tề như thường
lệ; vừa bước vào lớp, ông tuyên bố môn thi được hoãn lại cho đến ngày sẽ
được thông báo sau.
Ngay
sau đó, ông ra về. Sau này, tôi nghe một bạn cùng lớp kể lúc đến
trường, ông đưa gia đình theo trên chiếc xe hơi. Sau khi ông rời trường,
họ đến phi trường Tân Sơn Nhất, lên một vận tải cơ của Hoa Kỳ đưa những
người tỵ nạn thoát khỏi Sài Gòn. Nếu chuyện thật sự xẩy ra như vậy, ông
là một người đáng ngưỡng mộ. Ít ra thì ông cũng đến trường để cho sinh
viên biết họ được hoãn thi và chào giã biệt chúng tôi. Tư cách ông hơn
hẳn biết bao cấp chỉ huy quân sự đã lén lút trốn thuộc cấp để đào tẩu
trong những ngày tháng gian nan ấy.
Được
hoãn thi, tôi và một số bạn trong lớp lại vào câu lạc bộ của trường
chia sẻ cho nhau những tin tức cùng tin đồn về tình hình chiến sự và
chính trị. Lúc bấy giờ có rất nhiều tin đồn đang được loan truyền. Đến
quá trưa, mọi người từ giã, hẹn mai gặp nhau cho môn thi khác.
Khoảng
5 giờ chiều cùng ngày, khi tôi đứng ở cổng nhà trong cư xá Bắc Hải tiễn
người bạn cùng khóa Đốc sự vừa đến thăm, chợt có tiếng bom nổ rung
chuyển nhà cửa vang đến từ hướng phi trường Tân Sơn Nhất. Về sau, tôi
được biết Nguyễn Thành Trung, một phi công của Không lực VNCH nhưng là
gián điệp cho Cộng Sản Việt Nam đã hướng dẫn các phi công miền Bắc lái 4
chiếc oanh tạc cơ A-37 do Không quân bỏ lại ở phi trường Phan Rang để
dội bom Tân Sơn Nhất. Trung cũng là người lái chiếc F5 oanh tạc dinh Độc
Lập sáng ngày 8 tháng Tư như đã kể.
Chừng
một tiếng sau, đài truyền hình Sài Gòn trực tiếp buổi bàn giao chức vụ
tổng thống giữa cụ Trần Văn Hương và đại tướng Dương Văn Minh tại phòng
khánh tiết dinh Độc Lập. Ngày hôm trước, Quốc Hội lưỡng viện sửa đổi
hiến pháp để ông Minh thay cụ Hương trong niềm hy vọng ông đủ uy tín đàm
phán với Việt Cộng để đạt được một giải pháp hòa bình có thể chấp nhận
được.
Ngay
sau khi nhận trách nhiệm tổng thống, tối 28, ông Dương Văn Minh tuyên
bố Sài Gòn được đặt trong tình trạng thiết quân luật, người dân bị cấm
ra khỏi nhà.
Cư Xá Sĩ Quan Chí Hoà
Cư
xá nơi gia đình tôi cư ngụ trước kia có tên là Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa,
thuộc Quận 10 trước tháng Tư năm 1975. Cư xá do người Pháp khởi công xây
từ đầu thập niên 50 của thế kỷ trước, dành cho những sĩ quan trong quân
đội Pháp. Tuy nhiên, khi cư xá vừa xây xong thì người Pháp phải về nước
theo quy định của Hiệp Định Geneva chia đôi nước Việt. Năm 1957, chính
quyền VNCH cấp các hộ trong cư xá cho gia đình những sĩ quan trung cấp
và cao cấp của Quân Lực VNCH đang phục vụ ở Sài Gòn và họ có thể cư trú
tại đây trong thời gian tại ngũ. Gia đình tôi là một trong những gia
đình đầu tiên dọn đến cư xá vào mùa hè 1957 và ở đây suốt 18 năm trời.
Thoạt
đầu, cư xá chỉ có 16 dẫy nhà, mỗi dẫy gồm 4 hộ ở tầng dưới và 4 hộ ở
tầng trên, tức tổng cộng 128 hộ. Cổng chính cư xá ăn thông với đường Bắc
Hải dẫn ra đường Lê Văn Duyệt. Cổng sau hướng ra cuối đường Nguyễn Tri
Phương, nơi cắt ngang đường Tô Hiến Thành. Khoảng năm 1965, chính quyền
cho xây thêm nhiều dẫy ở các khoảnh đất rộng gần cổng sau, nâng số hộ
trong cư xá lên đến hơn 300. Đến cuối năm 1968, chính quyền cho những sĩ
quan đứng tên chủ gia đình ở đây mua các căn hộ họ đang cư ngụ và cũng
cho phép thường dân sở hữu các căn này. Vì không còn được dành riêng cho
các sĩ quan như trước, nên cư xá được đổi tên thành Cư Xá Bắc Hải.
Kể
từ những ngày đầu tiên, cư xá luôn có vị sĩ quan được chính quyền chỉ
định là người có thể đưa ra những quyết định liên quan đến sự quản trị
cư xá mà cư dân quen gọi là “trưởng trại.” Vị trưởng trại sau cùng là
trung tướng Đổng Văn Khuyên. Tuy nhiên, không hiểu vì lý do gì, trong
thời gian dầu sôi lửa bỏng vào tháng Tư năm 1975, trung tướng Khuyên
giao quyền điều hành cư xá cho đại tá Lê Kim Ngô thuộc binh chủng Công
Binh.
Ông
đại tá này có lẽ ác cảm với những người đang tìm cơ hội thoát khỏi Việt
Nam nên ra lệnh cho trung đội lính và đám Nhân Dân Tự Vệ canh gác chặt
chẽ tại hai cổng cư xá, nội bất xuất ngoại bất nhập từ chiều ngày 28 đến
sáng 30. Trong thời gian này, tuy có lệnh thiết quân luật nhưng dân
chúng vẫn tiếp tục tất tả ngược xuôi trên các nẻo đường thành phố, chỉ
riêng cư xá chúng tôi bị ông quyền trại trưởng phong tỏa. Tôi được biết
nhiều gia đình đã không thể di tản khỏi Sài Gòn trong ngày 29 vì không
ra được cổng cư xá.
Rốt
cục, ông quyền trại trưởng ở lại khi cuộc chiến kết thúc và cũng phải
đi “lao động cải tạo” nhiều năm trời như những sĩ quan QLVNCH khác. Nghe
nói ông và gia đình đã sang Hoa Kỳ tỵ nạn theo diện cựu tù nhân cải tạo
tức Humanitarian Operation vào đầu thập niên 1990.
Hỗn Quan, Hỗn Quân
Sáng
thứ Ba ngày 29, tôi lấy xe định đến nhà một người bạn. Tuy nhiên, cổng
ra vào cư xá đã đóng với những người lính cơ hữu của cư xá cùng vài anh
Nhân Dân Tự Vệ lăm lăm tay súng đang đứng gác. Những người này giải
thích với tôi rằng đại tá Lê Kim Ngô, quyền trường trại, đã ra lệnh nội
bất xuất còn ngoại bất nhập, tức là tất cả cư dân trong cư xá không được
ra ngoài, ngoại trừ những quân nhân có sự vụ lệnh di chuyển. Người từ
ngoài cũng không được vào nếu không xuất trình giấy tờ chứng minh mình
đang ở cư xá. Những người lính gác cổng nói năng khá nhã nhặn nhưng các
ông Nhân Dân Tự Vệ luôn biểu diễn nét mặt khó đăm đăm.
Tôi
trở về nhà, pha tách cà phê mang ra ngồi ở bậc thềm, vừa uống vừa nghe
tin tức đài phát thanh Sài Gòn từ chiếc radio nhỏ. Có tiếng bấm chuông,
tôi ra mở cổng, trông thấy anh Tiềng, một trong số hơn 10 công nhân của
nhà in do một Hoa kiều và mẹ tôi làm chủ. Đây là một trong năm hay sáu
nhà in các bộ bài tại miền Nam thời bấy giờ; bài Tây có, bài chắn, tứ
sắc, tam cúc, bất, tổ tôm cũng có. Gọi là nhà in chứ thật ra chỉ là một
cơ sở in đặt trong hai căn phòng khá lớn mà mẹ tôi cho xây thêm ở vườn
sau nhà. Các công nhân làm việc, ăn ở tại đây.
Anh
Tiềng trạc tuổi tôi nhưng không phải đi lính. Có người thợ in đồng
nghiệp nói anh được hoãn dịch gia cảnh. Lại có người bảo anh trốn quân
dịch. Anh quý tôi nên thỉnh thoảng mời tôi đi uống cà phê sáng tại một
tiệm khá gần cổng sau cư xá. Hôm ấy, khi lên nhà trên nhưng không gặp
tôi nên anh đi bộ một mình đến quán. Anh kể là khi trở về, đi ngang sân
cỏ rộng mà các thanh, thiếu niên trong cư xá dùng làm sân bóng đá, anh
trông thấy một chiếc trực thăng, có lẽ loại UH-1 khá thông dụng trong
chiến tranh Việt Nam, đang bay là là chực đáp xuống.
Gần
đó là một gia đình gồm hai vợ chồng và bốn hay năm con, đứa lớn, đứa
nhỏ với hành lý lỉnh kỉnh đứng chờ bên cạnh một chiếc xe hơi. Bỗng dưng
một chiếc gắn máy phóng rất nhanh đến. Hai thanh niên đeo băng tay Nhân
Dân Tự Vệ xuống xe, giơ súng carbine nhắm bắn vào trực thăng, có lẽ là
bắn dọa. Trực thăng vội bốc cao lên, đảo một vòng tròn có vẻ ngập ngừng
như chưa biết nên bay xa hay liều đáp xuống. Hai anh nhắm bắn thêm vài
phát. Chiếc trực thăng vút cao hơn rồi bay thẳng.
Nhân
Dân Tự Vệ là lực lượng dân quân bán thời gian được thành lập sau biến
cố Tết Mậu Thân 1968 với mục đích bảo vệ an ninh tại làng, xã, thôn xóm.
Hầu hết nhân sự trong lực lượng là thanh, thiếu niên chưa đến hạn tuổi
quân dịch và không được huấn luyện đầy đủ, nhiều người còn chưa được học
sử dụng súng, đạn. Báo chí thời bấy giờ gần như đăng tin mỗi ngày trong
mục tin vặt “Từ Thành Đến Tỉnh“ về chuyện Nhân Dân Tự Vệ bắn lầm, bắn
lẫn nhau khi tức giận, phá phách xóm làng, hay nghịch ngợm súng đạn đến
nỗi gây thương vong cho người khác và cho chính mình.
Những
tin tức này nhiều đến nỗi lắm tờ báo bắt chước báo Sóng Thần đặt tít
cho bản tin thường ngày về chuyện này là “Truyện Dài Nhân Dân Tự Vệ.”
Trong hai tháng cuối của cuộc chiến, tình trạng hỗn quan hỗn quân khiến
các anh Nhân Dân Tự Vệ cảm thấy mình uy quyền hơn, quan trọng hơn lên để
thế thiên hành đạo mà đoàn Nhân Dân Tự Vệ trong cư xá chúng tôi là một
trường hợp điển hình.
Anh
Tiềng kể tiếp rằng những người đứng cạnh xe hơi đứng ngẩn ra nhìn theo
bóng dáng chiếc trực thăng nhỏ dần, nhỏ dần, rồi mất hút. Họ lục tục
mang hành lý trở vào xe. Xe nổ máy rồi rời sân bóng.
Hai anh Nhân Dân Tự Vệ đứng chờ vài phút để chắc chắn trực thăng không quay lại. Sau đó họ lên xe gắn máy, nổ máy và lao đi.
Tôi
tự hỏi chiếc trực thăng ấy định đưa gia đình những người đứng chờ cạnh
chiếc xe hơi đến đâu; một tầu chiến Mỹ đang đợi sẵn ngoài khơi Vũng Tầu
hay một nơi nào họ nghĩ còn an toàn ở vùng IV? Tôi cầu xin ơn trên cho
gia đình họ rồi sẽ thoát khỏi cánh cửa địa ngục đang mở dần để nuốt trọn
khối người dân miền Nam tự do.
Trong
chiều hôm ấy, hai em trai tôi, đứa lớn chín tuổi và đứa nhỏ bẩy tuổi,
đã chứng kiến một tình trạng tương tự, nhưng với kết thúc có hậu cho
người di tản.
Đang
chơi đùa trước cửa, hai cậu em trông thấy một trực thăng, có lẽ cũng là
loại UH-1, đảo vòng tròn trên sân bóng tròn, cùng lúc các thanh niên
Nhân Dân Tự Vệ ngồi trên vài xe gắn máy phóng nhanh ngang nhà. Trẻ con
thì lúc nào chẳng hiếu kỳ và hiếu động, các cậu bé chạy đến sân bóng xem
chuyện gì. Khi các cậu đến nơi, đám Nhân Dân Tự Vệ đến trước đã dựng xe
máy, giơ súng bắn chỉ thiên về chiếc trực thăng nhưng trực thăng vẫn
đáp xuống bãi cỏ.
Các
cậu đang hăm hở xông đến thì bỗng có một tràng đạn chát chúa vọng ra từ
trực thăng. Tất cả khựng lại thì thấy ngoài viên phi công, trên máy bay
có người xạ thủ chĩa nòng súng đại liên đang bốc khói về hướng mình.
Một tràng đạn nữa nổi lên từ khẩu đại liên, chắc người xạ thủ chỉ bắn
dọa. Thế là cả đám hoảng hốt chạy lui. Ba bốn người đang đứng đợi gần đó
phóng nhanh đến trực thăng, rồi được người xạ thủ kéo lên. Chiếc trực
thăng từ từ bốc cao trong khi nòng đại liên vẫn hướng về đám Nhân Dân
Tự Vệ.
Về
sau, tôi nghe kể có thêm vài trực thăng khác định đáp xuống cư xá chúng
tôi trong ngày hôm ấy nhưng cũng bị đám Nhân Dân Tự Vệ bắn đuổi. Cư xá
lúc bấy giờ là nơi cư ngụ của nhiều vị sĩ quan cao cấp trong đó có cả
mươi ông tướng nên các trực thăng đến đón gia đình họ trong hai ngày
cuối của cuộc chiến là điều bình thường.
Tôi
nghĩ không hẳn các anh Nhân Dân Tự Vệ của cư xá trong những ngày tháng
ấy là những kẻ xấu, thích hành hạ người khác. Không hiểu lúc ấy họ suy
nghĩ gì. Họ hành động theo lệnh cấp trên hay họ muốn thể hiện uy quyền?
Khi được giao quyền lực với khẩu súng trong tay, họ có sức mạnh của tập
thể và muốn thể hiện quyền uy với người khác, với đồng bọn, và với chính
mình.
Hay
phải chăng vì gia đình họ quyết định không di tản hoặc không có phương
tiện để ra đi nên họ ngăn cản những người khác? Tao không đi được thì
mày cũng không được đi, thế thôi!
Đêm Cuối Ở Sài Gòn
Trưa
ngày 29, sau bữa cơm trưa với gia đình, bố tôi mặc quân phục, đeo lon
trung tá, lái xe ra đi. Tôi ngồi trong nhà dán tai vào chiếc radio để
theo dõi tin tức. Khoảng 3 giờ, đài phát thanh Sài Gòn phổ biến lời thủ
tướng Vũ Văn Mẫu yêu cầu người Mỹ rời khỏi Việt Nam ngay lập tức. Cuộc
chiến đến hồi kết thúc. Coi như xong! Thật khủng khiếp khi biết trước
thứ tương lai tồi tệ đang đưa cao bàn tay gớm chiếc vẫy gọi mình và mình
đang bị kéo đến gần theo từng nhịp vẫy của nó.
Đến
6 giờ chiều, bố tôi trở về gọi tôi, mẹ tôi, ông chú lớn, và ông chú út
vào một căn phòng để kể những chuyện vừa xẩy ra cho ông. Người chú lớn,
em kế bố tôi, là một thiếu tá đang phục vụ tại Phòng 2, tức phòng có
trách nhiệm tình báo, của Bộ Tổng Tham Mưu. Gia đình ông sống ở căn hộ
số 3 dẫy L trong cư xá, đấu lưng với căn hộ của chúng tôi, số 3 dẫy K.
Vì vậy hai gia đình có chung khoảng sân sau khá rộng. Như gia đình những
sĩ quan phục vụ tại Phòng 2, vợ con ông đã được người Mỹ cho di tản
bằng máy bay từ hai tuần trước.
Bố
tôi kể, bố tôi vừa vào được tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, nơi có hàng hàng lớp lớp
người vây quanh cố gắng vượt qua cánh cổng sắt để có chỗ ngồi trên
những chuyến trực thăng bay ra Hạm Đội số 7 đang đợi ở hải phận quốc tế
gần Vũng Tầu. Bố tôi gặp ông đại tá quân đội Hoa Kỳ đã hứa giúp gia đình
chúng tôi di tản từ nhiều ngày trước.
Ông
này xin lỗi chưa giúp được và khuyên bố tôi nên ở lại tòa đại sứ để di
tản bằng trực thăng ra hạm đội cùng ông. Bố tôi bảo ông rằng bố không
thể đi một mình khi gia đình kẹt lại. Thuyết phục bố tôi không được, ông
viết một tờ thư, ghi rõ tên và cấp bậc ông để yêu cầu những quân nhân
Mỹ tại phi trường Tân Sơn Nhất có trách nhiệm giúp người Việt rời Sài
Gòn chấp thuận cho gia đình tôi lên một chuyến bay vào sáng sớm ngày 30.
Sau đó, ông cùng một người lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đưa bố tôi ra
cửa sau của tòa đại sứ để ra ngoài. “Mình sẽ ra phi trường trước 7 giờ
sáng mai,” bố tôi bảo chúng tôi. “Sống thì sống hết! Chết thì chết
hết!”, ông nói thêm, một cách dứt khoát.

Toà Đại Sứ Hoa Kỳ - 30/Tháng Tư/1975
Vấn
đề đặt ra là Sài Gòn đang trong tình trạng thiết quân luật và cư xá
đang bị phong tỏa. Với chiếc lon Trung Tá trên cổ áo, bố tôi có thể ra
khỏi cổng cư xá dễ dàng nhưng vợ con sẽ bị chận lại. May mắn thay,
khoảng nửa tiếng sau, đài phát thanh Sài Gòn phát ra bản tin tổng thống
Dương Văn Minh ra lệnh các quân nhân, công chức phải trình diện nhiệm sở
vào 8 giờ sáng hôm sau. Chúng tôi bàn nhau sẽ khởi hành sáng sớm với xe
hơi bố tôi lái, trên xe có các em tôi, cô em kế tôi chở ông chú thiếu
tá trên chiếc PC, ông chú đại úy chở mẹ tôi trên chiếc Vespa của ông, và
tôi chở một cô em trên chiếc Lambretta. Chúng tôi sẽ bảo lính canh và
các Nhân Dân Tự Vệ là đi trình diện nhiệm sở và không yên tâm khi để phụ
nữ và trẻ em ở nhà trong tình trạng bất an. Bàn bạc xong xuôi, mọi
người uể oải ăn cơm tối rồi đi nghỉ, lấy sức cho một ngày đầy cam go sắp
đến.
Tôi
vào giường, nằm thao thức trong mớ hỗn độn của những âm thanh xa gần
vọng đến. Tiếng động cơ máy bay vần vũ trên trời, tiếng đại bác nổ vang
xen kẽ với tiếng súng lớn, súng nhỏ từng phát, từng tràng liên tục, và
tiếng kinh cầu của mẹ tôi vọng đến từ bàn thờ. Mãi đến hơn một giờ sáng,
tôi vẫn trằn trọc trong khi các em ở những giường bên đã yên giấc. Tôi
bước xuống giường, soi đèn pin vào tủ sách rút đại ra một quyển, vặn
ngọn đèn nhỏ đầu giường nằm đọc để quên đi thực tại. Đó là quyển Vợ
Chồng Son, truyện phóng tác của Hoàng Hải Thủy mà tôi đã đọc từ năm, bẩy
năm trước.
Đến
hôm nay nghĩ lại, tôi không thể tưởng tượng được trong lúc cả thành phố
đang rung chuyển dưới cơn lửa đạn, bao nhiêu người đang thấp thỏm trước
một tương lai tăm tối đầy tai ương mà tôi có thể nằm suốt đêm để ngốn
xong một quyển tiểu thuyết với nội dung hài hước. Tôi vẫn biết ngày
trước, ông Đỗ Mục chê các cô gái nước Thương qua hai câu thơ “Thương nữ
bất tri vong quốc hận, Cách giang do xướng Hậu đình hoa” (cô gái nước
Thương không biết đến nỗi hận mất nước, ở bên kia sông còn hát khúc Hậu
Đình Hoa là khúc hát tình tứ, du dương). Thôi thì xem như mình không thể
làm gì để thay đổi vận mệnh nước thì sách vở là sự khuây khoả tốt nhất
dành cho người đang tuyệt vọng.
Tìm Đường Di Tản
Khoảng
6 giờ sáng hôm sau, tức sáng sớm ngày 30 tháng Tư, khi mẹ tôi đánh thức
cả nhà thì tôi vừa đọc xong quyển truyện. Nửa tiếng sau, mọi người lên
đường. Trước khi rời nhà, tôi định mang bốn quyển album đầy hình ảnh gia
đình trong hơn 20 năm kể từ những ngày bố mẹ tôi sống ở Hà Nội trước
khi di cư vào Nam. Tuy nhiên, lúc bấy giở, tôi thật sự nghĩ gia đình
không đi thoát và sẽ trở về trong ngày nên thôi. Quyết định này khiến
tôi ân hận cả đời.
Chiều
hôm ấy, khi những người lính Cộng sản đầu tiên tiến vào cư xá, hai
người cô tôi, tức em ruột của bố tôi, đến nhà tôi mang tất cả quân phục
của bố tôi, bốn quyển album, các giấy tờ chúng tôi để lại mang ra sân
sau đốt sạch. Đúng mười lăm năm sau, khi mẹ tôi về Việt Nam lần đầu để
thăm thân nhân, bà xin được vài tấm ảnh đã tặng cho họ ngày trước, trong
đó có tấm tôi vừa đúng ba tháng tuổi đang nằm lẫy trong hiệu ảnh Tân
Việt ở Hà Nội.
Sáng
hôm ấy, khi bước ra sân trước, chúng tôi trông thấy cô em gái thứ hai
tôi đã lập gia đình cùng chồng, đứa con trai một tuổi và cả bà mẹ chồng.
Hôm trước, bố tôi dặn con gái và con rể đến đúng 6 giờ rưỡi sáng để
cùng đi. Sự hiện diện của mẹ chồng cô với chiếc va ly khá to trong khi
gia đình tôi, mỗi người chỉ một túi xách nhỏ bằng vải với hai bộ quần áo
là điều không định trước. Tuy nhiên, đã như thế thì cứ như thế. Bà có
mang theo con mèo của bà chắc chúng tôi cũng đành chịu. Chúng tôi chia
nhau lên các xe như đã bàn với nhau. Cậu em rể và bà mẹ ngồi trên xe hơi
với các em tôi.
Khi
chúng tôi chuẩn bị rời nhà, một người bạn bố tôi gọi điện thoại cho
biết Việt Cộng đã về đến Ngã Ba Ông Tạ, nơi nằm trên quãng đường ngắn
nhất từ nhà tôi đến phi trường, lộ trình chúng tôi chọn từ tối hôm
trước. Vì vậy, bố tôi quyết định sẽ đi qua cổng sau cư xá thay vì cổng
trước, rẽ trái đường Tô Hiến Thành, gửi xe gắn máy tại nhà một người bạn
của bố tôi ở ngã ba Tô Hiến Thành và Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách
Mạng Tháng Tám), rồi tất cả lên xe hơi, đi dọc theo đường Lê Văn Duyệt
về hướng trung tâm thủ đô, rẽ trái đường Yên Đổ (nay là Lý Chính Thắng),
rẽ trái đường Trương Minh Giảng (sau 1975 thành Trần Quốc Thảo), vài
cây số nữa Trương Minh Giảng đổi thành Trương Minh Ký (tức Lê Văn Sĩ bây
giờ) dẫn đến phi trường.
Ra
đến xe, bố tôi đưa cho tôi khẩu súng lục Colt 45 còn ông giữ khẩu Smith
Wesson 38 mà chúng ta vẫn gọi là “súng sáu” để phòng thân. Ông biết tôi
bắn Colt 45 rất khá.
Đến
cổng sau cư xá, nghe chúng tôi nói phải đi trình diện nhiệm sở theo
lệnh của tổng thống, những người lính gác và Nhân Dân Tự Vệ mở cổng cho
chúng tôi ra.
Sau
khi chúng tôi gửi các xe gắn máy ở nhà người bạn bố tôi, mọi người cùng
lên xe hơi. Riêng chú út chúng tôi quay về để đợi đoàn tụ với vợ và con
còn ở Ban Mê Thuột. Chiếc xe Opel nhỏ của bố tôi phải chở 15 người kể
cả hành lý gồm bố mẹ tôi, ông chú thiếu tá ngành tình báo, 9 anh chị em
chúng tôi, chồng và đứa con một tuổi của em tôi, cùng bà mẹ chồng cô.
Người này ngồi trên đùi người kia sát chặt vào nhau như những khoanh cá
trong một hộp cá mòi.
Khi
xe chạy trên đường Lê Văn Duyệt, tôi chứng kiến một khung cảnh vừa hỗn
loạn, vừa thê thảm. Đường phố đầy người ngược xuôi như đàn kiến nhớn
nhác túa ra khi tổ bị một đứa trẻ cầm que chọc vào. Dọc hai bên lề
đường, ngổn ngang những bộ quân phục, giầy bốt, mũ sắt, và cả súng đạn
của những người lính tan hàng vứt lại. Đâu đó có những xác người được
phủ một chiếc chăn hay chiếu trên vỉa hè. Thỉnh thoảng, chúng tôi chứng
kiến cảnh những người khuân bao gạo, bàn, ghế, tủ, và cả nồi niêu nửa đi
nửa chạy trên đường. Có lẽ họ vừa đột nhập vào những căn nhà không còn
người ở để hôi của.
Khi
xe đi qua Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô trên đường Lê Văn Duyệt, tôi trông
thấy một xe tăng M-48, loại tăng lớn nhất và tối tân nhất mà Hoa Kỳ
viện trợ cho quân lực VNCH trong cuộc chiến, nằm giữa lòng đường với
nòng đại bác chúc thẳng lên trời. Người lính trưởng xa chiếc xe tăng này
quả là người có cái tâm tốt lành. Trước khi rời xe, anh cẩn thận ngước
nòng súng lên cao để địch quân từ xa nhận biết chiếc tăng đã bỏ cuộc
chơi nên không nã đạn vào, gây thương vong cho dân chúng gần đó.
Đến
cầu Trương Minh Giảng gần Đại Học Vạn Hạnh, xe chúng tôi bị chận lại
bởi một toán Biệt Cách Dù đang bố trí dọc cầu. Người trung uý, có vẻ là
trưởng toán, tiến đến xe. Trông thấy bố tôi đang trong bộ quân phục với
lon trung tá, anh đưa tay lên chào. Đó là lần cuối bố tôi nhận được kiểu
chào đúng quân kỷ của một người dưới cấp trong 24 năm quân ngũ của ông.
Sau khi nghe bố tôi nói rõ mục đích, anh cho biết phi trường đã bị Cộng
quân chiếm từ rạng sáng và khuyên bố tôi đưa gia đình về nhà cho an
toàn vì Việt Cộng đã trà trộn với dân trong thành phố. Anh cũng để nghị
bố tôi thay bộ quân phục bằng thường phục dù đang ngồi trong xe.
Thất
vọng, bố tôi quay xe lại, rồi ngừng xe bên đường để cởi chiếc áo quân
nhân ra thay bằng áo polo tôi mang theo. Ông bảo “thua keo này, ta bầy
keo khác,” và lái xe đến bộ tư lệnh Hải quân gần đường Cường Để (nay là
đường Tôn Đức Thắng) hy vọng gặp vài sĩ quan cao cấp ông quen biết để
nhờ giúp gia đình lên một chiến hạm di tản. Đến nơi, chúng tôi thấy
đường dẫn vào bộ tư lệnh đã bị chắn ngang bởi những hàng rào sắt với kẽm
gai. Toán lính gác cho bố tôi biết tất cả những tầu Hải quân còn sử
dụng được đã ra đi trong đêm. Nhớ lại mà tôi cảm thấy ngưỡng mộ các anh,
dù biết rõ cấp chỉ huy đã ra đi, họ vẫn ở lại thi hành trách nhiệm cho
đến giây phút cuối cùng của chế độ họ đang phục vụ.
Nước
đã tràn vào thuyền, chẳng lẽ buông xuôi để chìm trong biển đỏ, thôi thì
“còn nước, còn tát,” bố tôi quay đầu xe hướng đến bến Bạch Đằng với hy
vọng mong manh gặp một chiếc tầu đang đậu ở đó. Khi bố tôi lái xe dọc
theo bến, chúng tôi trông thấy xa xa có một tầu buôn lớn lố nhố đầu
người trên boong. Ông đậu xe dưới một tàng cây ven bến, cách tầu khoảng
200 mét, tức gần gấp đôi chiều dài sân bóng, và bảo tôi lên tầu hỏi
những người trên đó xem tầu có rời bến không. Tất cả mọi người ngồi đợi
trong xe, tôi chạy nhanh đến tầu. Đây là một chiếc tầu chở hàng vượt đại
dương, trên mạn có sơn tên Đông Hải, và đang cập sát một chiếc tầu lớn
khác có vẻ như đang hỏng vì sàn tầu đầy rác rưởi và không có ai ngồi
trên boong. Tôi trèo thang lên chiếc tầu hỏng, bước đến thành tầu đối
diện sát thành tầu Đông Hải để trèo qua con tầu đầy người này.
- Tầu này có đi không? Tôi hỏi người đàn ông gần tôi đang ngồi bệt trên sàn tầu cùng những người có lẽ trong gia đình ông.
- Tôi cũng không biết! Ông ta trả lời.
- Không biết sao ngồi đây?
- Thì thấy người ta ngồi nên mình cũng ngồi.
Hỏi vài ba ngồi gần đó, cũng không ai biết tầu có đi hay không.
Tôi
trở lại xe, trình bầy những điều tai nghe mắt thấy cho mọi người. Sau
ít phút bàn thảo, tất cả rời xe đi đến tầu, ngoại trừ tôi. Trong vài
ngày qua, tại bến Bạch Đằng, có một đoàn quân hôi của, lùng sục khắp nơi
để lấy những xe gắn máy, xe hơi do những người đi tản để lại trên bến.
Với những xe hơi họ không nổ máy được hoặc không biết lái thì họ tháo
bánh xe, gỡ bình điện, và lấy đi những phụ tùng khác có thể bán được.
Với khẩu súng giắt trong lưng quần, tôi phải ở lại giữ xe để có phương
tiện trở về nếu không tìm được tầu di tản.

Bến Bạch Đằng SàiGòn - 30/Tháng Tư/1975
Bước ra khỏi xe, tôi bật que diêm đốt điếu thuốc đầu ngày. Bỗng có gã thanh niên gầy gò, áo quần luộm thuộm bước đến.
-
Lương xe hả? Cho em ké cái bánh nhé! Gã nhăn nhở cười hì hì nói
(“lương” là tiếng lóng của giới giang hồ lúc bấy giờ, có nghĩa là lấy
trộm).
- Lương mẹ gì? Xe tui đó cha!
Mặt tiu nghỉu, gã biến đi thật nhanh.
Hút
xong điếu thuốc, tôi vào xe ngồi ở ghế tài xế để những tên đang lùng
sục các xe bỏ lại trên bến biết xe có chủ nên không đến làm phiền. Tôi
nhớ đến những bài báo thuật cảnh hàng ngàn người chen chúc nhau trên
những chuyến tầu xuôi Nam sau khi miền Trung thất thủ trong tháng trước.
Trên những chuyến tầu đó, biết bao trẻ em đã chết vì đói khát, và bị
hải táng vào lòng biển. Gia đình tôi, vì tưởng có thể đi tản bằng phi cơ
nên không mang theo chút thực phẩm và nước uống nào. Các đứa em nhỏ của
tôi, đứa lên 9, đứa lên 7, đứa lên 5, đứa 21 tháng và đứa cháu đang
chập chững tập đi chắc khó thế vượt qua cuộc hải trình cam go này mà
không có cái để ăn, để uống.
Hơn
nửa tiếng sau, có lẽ khoảng 9 giờ, mặt trời lên cao, nắng gắt chan hòa,
trời trở nên nóng nực, tôi quyết định lên tầu gọi cả nhà ra về. Tuy
nhiên, tôi e khi mình bước đi, chỉ trong dăm bẩy phút, sẽ có kẻ bất
lương đến tháo bánh xe, lấy bình điện, hoặc tệ hơn, câu giây điện để nổ
máy rồi lái xe đi. Đang ngập ngừng tiến thoái lưỡng nan, chợt có một
trung đội Nhẩy Dù kéo đến bố trí cạnh gốc cây nơi xe chúng tôi đang đậu.
Tôi bước đến hỏi han anh chuẩn uý trung đội trưởng, một sĩ quan Thủ Đức
sau tôi vài khoá. Anh cho biết trung đội của anh vừa trải qua một đêm
quần thảo với Cộng quân ở Hàng Xanh, gần xa lộ Biên Hoà để ngăn địch
tiến vào Sài Gòn. Và rồi, vì thiếu đạn dược nên phải rút về đây.
Anh
cho trung đội đóng tạm nơi này để chờ lệnh. Chỉ tay về chiếc tầu Đông
Hải, tôi bảo anh rằng gia đình tôi đang ở trên tầu. Tôi cần lên đó để
gọi mọi người về và nhờ anh trông hộ chiếc xe cho tôi, không để kẻ bất
lương lấy trộm. Tôi sẽ trở lại trong khoảng 10 phút. Anh gật đầu đồng ý
và nói dứt khoát: “Anh yên tâm! Tôi giữ xe cho anh!”
Trở
lại lên tầu Đông Hải, tôi nhanh chóng tìm được gia đình trong đám đông
hỗn tạp. Tôi trình bầy với mọi người nỗi lo âu của tôi. Tất cả đồng ý
trở về. Chúng tôi lần lượt, người lớn bế trẻ em, trèo qua thành tầu Đông
Hải, bước vào con tầu hỏng bên cạnh để xuống bến.
Khi
mọi người qua hết con tầu hỏng, nhìn sang tầu Đông Hải không thấy chú
tôi. Chúng tôi biết ông chắc chắn không về theo vì vợ con ông đã được
người Mỹ cho di tản bằng đường hàng không như đã kể. Ông phải tìm mọi
cách để đi. Tôi bước dọc theo thành con tầu hỏng tìm ông đứng lẫn lộn
trong đám đông trên tầu Đông Hải, vừa đi vừa lớn tiếng gọi tên ông để
báo ông biết chúng tôi quyết định trở về. Đúng lúc ấy có tiếng đạn pháo
kích nối tiếp nhau nổ long trời lở đất. Bụi bốc lên mờ mịt ngay chỗ
trung đội Nhẩy Dù đang bố trí dưới gốc cây bên cạnh xe hơi của chúng
tôi. Rõ ràng là tiền sát viên Việt Cộng trà trộn trong dân đã chỉ điểm
cho một đơn vị pháo binh của họ đội pháo vào vị trí toán quân Nhẩy Dù.
Chợt có tiếng kêu to từ tầu Đông Hải: “Việt Cộng pháo kích! Nổ máy! Chặt
neo!”
Tiếng
máy tầu rung lên rồi tôi trông thấy một người cầm chiếc rìu lớn chặt
dây neo. Giây đứt, con tầu tự động chậm rãi tách ra khỏi chiếc tầu hỏng.
Mọi người trong gia đình hối hả trèo lại sang tầu Đông Hải. Bố tôi sang
trước, tôi đủn những người khác qua thành tầu, bố cầm tay đỡ xuống.
Những đứa trẻ thì tôi bế lên chuyền cho bố tôi. Đến khi tôi ném những
túi quần áo cho bố tôi thì tầu Đông Hải đã tách ra hơn một thước nên tôi
phải lấy sức nhẩy sang. Có lẽ tôi là người cuối cùng từ con tầu hỏng
sang được tầu Đông Hài.
Khi
tầu tách xa khoảng ba hay bốn thước, tôi trông thấy một đứa bé trai
khoảng năm tuổi đứng trên boong con tầu hỏng, hai tay khoắng loạn lên
trời vừa nhẩy tưng tưng vừa khóc gào “Ba ơi! Ba ơi!” Trên tầu Đông Hải,
có cặp vợ chồng đứng sát thành tầu nức nở thét to “Con ơi! Con ơi!”
Những tiếng gào tiếng thét chìm vào tiếng đạn pháo nổ dập dồn trên bến.
Tầu dời xa dần bến.

30 Tháng 4 - Tầu Đông Hải neo trong vịnh Tân Gia Ba vào tháng 5 năm 1975,
sau khi hơn nửa số người di tản trên tầu đã được chuyển sang các tầu khác
Tầu
Đông Hải neo trong vịnh Tân Gia Ba vào tháng 5 năm 1975, sau khi hơn
nửa số người di tản trên tầu đã được chuyển sang các tầu khác. Ảnh: Tác
giả cung cấp.
Hỏi
chuyện những người đứng gần, tôi được biết cặp vợ chồng đang vật vã
khóc đã đưa được hai con lên tầu Đông Hải, đứa lớn là gái, khoảng 7, 8
tuổi, đứa bé là trai, lên 5 hay 6. Ngồi trên tầu khá lâu mà không thấy
động tĩnh nên cũng như gia đình tôi, họ quyết định về. Khi sang con tầu
hỏng thì đạn pháo rơi trên bến và tầu Đông Hải mở máy chạy, họ vội vã
trở sang tầu Đông Hải mà quên mang theo đứa con trai. Tôi chạnh lòng
thương đứa trẻ, đời sẽ dẫn nó đến đâu?
Tôi
chạnh lòng thương cặp vợ chồng lạc con, ắt họ sẽ mãi mãi phải sống với
nỗi buồn xé nát tâm can và cảm giác tội lỗi trong những ngày còn sống.
Người xưa có câu thành ngữ “can trường thốn đoạn” có nghĩa ruột gan đứt
ra từng đoạn để chỉ người cha, người mẹ mất con. Đứa con chết đi, bậc
cha mẹ đau đớn có thể ngước lên trông Trời mà trách móc “lá vàng còn ở
trên cây, lá xanh rụng xuống Trời hay không Trời” nhưng rồi sẽ nguôi
ngoai theo thời gian. Đằng này, đứa con nhỏ bị dứt ra khỏi đời mình vì
một sơ suất của chính mình. Mỗi lần nhớ đến đứa con, chắc chắn họ lại
đau đớn tự hỏi thằng bé giờ ra sao, sống chết thế nào, đói hay no, khổ
nhiều hay khổ ít. Cầu xin Thượng Đế giữ gìn, che chở họ cho đến ngày
cha, mẹ, chị, em, được đoàn tụ.
Đường Ra Vũng Tàu
Tầu
đi được khoảng gần hai tiếng, khi đến chỗ sông Sài Gòn đổi tên thành
sông Lòng Tảo, trời bỗng đổ cơn mưa rào, tuy không kéo dài nhưng cũng
khiến mọi người ướt sũng. Có lẽ vì cả đêm trước không ngủ, đang bần
thần, bải hoải nên tôi rét run cả người. Đứng gần tôi là một cô bé trạc
16, 17. Trông thấy tôi đang co ro, run lên từng chập nên cô mở va ly
mang theo, lấy chiếc áo len cho tôi mượn. Dáng cô nhỏ hơn tôi khá nhiều
nhưng áo đan bằng sợi len có thể dãn ra nên tôi cài nút được. Tôi đã mặc
chiếc áo này cho đến lúc cơn mưa dứt và đợi cho áo khô mới trả lại cô.
Lúc
tàu khởi hành, tôi trông thấy cô ngồi dựa vào thành tầu, tay ôm hai đứa
trẻ, gái độ 10 tuổi, trai chắc lên 5, và sùi sụt khóc. Hỏi thăm cô, tôi
được biết ba chị em được mẹ dẫn lên tầu. Ngồi trên tầu một chốc, cậu em
kêu đói nên bà mẹ xuống bến tìm mua bánh mì cho con và cho cả gia đình
để dành ăn trong những ngày sắp tới. Bà vừa xuống bến độ dăm phút thì
tầu chạy. Chuyện gia đình cô và chuyện đứa trẻ bị lạc cha mẹ ở bến tầu
chỉ là hai trong hàng vạn câu chuyện “đau lòng kẻ ở người đi; lệ rơi
thấm đá, tơ chia rũ tằm?” (Truyện Kiều) trên quê hương ta trong những
ngày cuối cùng của cuộc chiến.
Khoảng
hai giờ chiều, có lẽ tầu Đông Hải đã đi được quá nửa đoạn sông Sài Gòn -
Vũng Tầu, qua chiếc máy phát thanh nhỏ của người đứng gần, chúng tôi
nghe tiếng ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Có những tiếng bật khóc
nức nở chung quanh tôi. Thế là hết!
Tin
tức ông Dương Văn Minh ra lệnh quân đội buông súng đầu hàng vô điều
kiện khiến những người trên tầu vừa bàng hoàng vừa lo lắng cho sự an
toàn của con tầu. Khoảng một tiếng sau, đài Sài Gòn phát lời nhạc sĩ
Trịnh Công Sơn đang ngồi trong phòng vi âm của đài ca ngợi thành quả
thống nhất đất nước của Cộng sản và lên án những người bỏ nước tìm tự do
là những kẻ phản bội. Sau đó, ông hát vang ca khúc Nối Vòng Tay Lớn với
tiếng vỗ tay theo nhịp của những người trong cái gọi là “Uỷ Ban Cách
Mạng Lâm Thời” đang hiện diện tại đài phát thanh.
Tôi
không hiểu ông Trịnh Công Sơn có bao giờ nhận thức được chính mảnh đất
miền Nam tự do đã nuôi dưỡng, cưu mang ông và cung cấp cho ông môi
trường thuận lợi để ông sáng tác? Thử tưởng tượng nếu sống ở miền Bắc,
dù có thể tự học nhạc, chắc chắn ông chỉ được phép viết lên những ca
khúc tầm thường xưng tụng bác và đảng, như bao văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ
nô bộc của chế độ. Xét ở khía cạnh này thì chính ông mới là kẻ phản bội
miền Nam tự do, phản bội những người thiết tha yêu mến nhạc của ông, đã
xúm lại công kênh ông lên đỉnh cao ngất ngưởng của âm nhạc Việt.
Về
sau, tôi được biết kể từ khi miền Nam đổi chủ, ông Trịnh Công Sơn đã
viết cả trăm ca khúc thuộc loại nhạc “giác ngộ cách mạng,” nhưng những
sáng tác này của ông nhanh chóng bị rơi vào quên lãng.
Tầu
tiếp tục chạy, khi đến cửa Cần Giờ, cách Vũng Tầu chỉ khoảng 20 cây số
đường sông, bỗng có những tiếng nổ vang và những cột nước bắn lên tung
toé gần tầu. “Nằm xuống! Việt Công bắn!” Tiếng người hét lên và mọi
người nằm rạp xuống sàn tầu.” Sau này tôi biết nơi đây chính là khúc
sông Việt Cộng từ bờ bắn vào tầu Việt Nam Thương Tín, con tầu khởi hành
tuy sau nhưng khi đến sông Lòng Tảo đã vượt qua tầu Đông Hải, khiến nhà
văn Chu Tử bị thiệt mạng. Có lẽ họ vừa bắn bằng súng cối vừa bằng B40 vì
khúc sông khá hẹp.
Khi
tầu vượt qua tầm súng Việt Cộng, mọi người lồm cồm trổi dậy. Đứng bên
thành tầu, vài phút sau, chúng tôi trông thấy ba, bốn chiếc thuyền máy
trông giống như giang tốc đỉnh của Hải quân đuổi theo. Vài người trên
thuyền cầm súng trường hướng lên trời bắn chỉ thiên như ra lệnh tầu
ngừng lại. Lại có tiếng la to “Việt Cộng đuổi! Chạy nhanh lên! Nhanh
lên!” Chẳng hiểu tiếng la hét dục tầu đi nhanh có vọng đến phòng lái hay
không nhưng tôi có cảm tưởng như tầu đang dần tăng tốc độ. Tuy nhiên,
khoảng cách giữa những chiếc thuyền máy và tầu dần dần thu hẹp theo từng
phát đạn vang đến từ thuyền. Mọi người trên tầu hoảng loạn, kẻ nằm sóng
soài trên boong, người đứng sát mạn tầu nhô đầu lên lo âu nhìn về hướng
những chiếc thuyền đang xả hết tốc lực đuổi theo.
Trong
thoáng chốc, tôi tưởng tượng ra cảnh đám lính Việt Cộng chặn tầu lại,
bắt tầu tấp vào gần bờ, lùa dân trên tầu lội nước vào khu rừng bên cạnh.
Họ chia người di tản ra làm hai, đàn ông trong tuổi lính đứng một bên,
người già, phụ nữ, và trẻ con một bên, rồi nổ súng từng loạt vào những
người đàn ông. Đúng thế, họ sẽ làm như đã làm đối với những đoàn người
di tản mà họ chận lại trên Liên Tỉnh Lộ 7B và những nạn nhân của họ
trong dịp Tết Mậu Thân ở Huế như tôi được biết qua các bài báo.
Ồ
không đúng, ở Huế thì họ không mất công chia ra làm hai mà lính tráng
hay thường dân, đàn ông hay đàn bà, người già hay con trẻ cùng chung số
phận như nhau, tức cùng bị giết. Các hố chôn tập thể được khai quật cho
thấy rõ ràng sự công bằng, không phân biệt nam phụ lão ấu đối với các
nạn nhân của họ. Tôi chuẩn bị cách đối phó, lòng tự nhủ “chết là cùng!”
Tuy
nhiên, bố tôi bảo tôi đưa ông khẩu Colt 45. Ông lấy khẩu súng sáu ông
đang giữ thả xuống biển rồi nhét khẩu Colt 45 vào bụng. Kế đó, ông nói
tôi đưa ví cho ông. Mở ví tôi ra, ông lấy thẻ căn cước quân nhân và thẻ
sinh viên trường QGHC có in cờ vàng ba sọc đỏ của tôi ném xuống biển như
đã ném súng, rồi trao ví lại cho tôi. Ông bảo nhà còn mẹ, còn em, Việt
Cộng bắt thì đừng chống cự, cứ nói là dân thường. Lúc bấy giờ người trên
tầu nghĩ những người đang ngồi thuyền máy, bắn súng đuổi theo là Việt
Cộng. Bố tôi giữ súng và giữ cả thẻ quân nhân ghi cấp bậc trung tá là
quyết chống cự địch, nhưng buộc tôi không được liều mạng như ông.
Cuộc
rượt đuổi kéo dài cũng cả mươi phút. Tuy nhiên, mọi người thở phào khi
những thuyền máy đến gần. Đó không phải Việt Cộng mà là những người lính
Việt Nam Cộng Hoà muốn được lên tầu Đông Hải vì biết những thuyền nhỏ
của họ không thể ra biển. Tầu Đông Hải đi chậm lại để những người lính
này trèo thang ở mạn tầu lên boong.
Ra Khơi: Những Ngày Đói Khát
Khoảng
5 giờ chiều hôm ấy, tầu Đông Hải vượt qua Vũng Tầu và hướng đến hải
phận quốc tế. Mọi người cùng bùi ngùi nhìn về thành phố Vũng Tầu xa dần,
xa dần trong tầm mắt, “đoái trông muôn dặm tử phần, hồn quê theo ngọn
mây Tần xa xa” (Truyện Kiều). Lúc đó, cũng như tôi, những người trên tầu
nghĩ không bao giờ có thể trở về thăm quê hương, gặp lại người thân
yêu, và tương lai thì đầy bất trắc.
Ra
đến hải phận quốc tế, chúng tôi trông thấy rất nhiều thuyền nhỏ chung
quanh. Mặt trời xuống dần rồi chìm vào lòng biển. Tầu Đông Hải ngưng
chạy và bồng bềnh trên sóng nước suốt đêm. Thủy thủ đoàn đã neo tầu lại
bằng neo khác vì một giây neo đã bị chặt đứt khi tầu khởi hành. Trong
thời gian tầu được neo, nhiều thuyền nhỏ, trong đó có những thuyền đánh
cá, cập vào để xin phép lên tầu và họ đều được chấp thuận.
Đêm
xuống, tôi đứng tựa người vào thành tầu nhìn ra ngoài. Biển đêm thật
đẹp. Ảnh trăng hạ huyền vẽ một đường lấp lánh trên mặt sóng lăn tăn, từ
hướng mặt trăng ở chốn xa xăm chạy dài đến con tầu như chia đôi mặt
biển. Tôi đã mang ơn đất và hôm nay tôi mang ơn biển. Trong một trận
chiến năm xưa, khi đang nằm bẹp dí trên mặt đất thì một quả đạn pháo rơi
cách tôi chỉ dăm thước. Tôi không hề hấn gì vì đất che chở tôi. Hôm nay
biển cưu mang chúng tôi, đưa chúng tôi thoát khỏi địa ngục của trần
thế.
Biển
cả bao la trước mặt tôi, bầu trời sao khuya lấp lánh trên đầu tôi,
không khí chúng ta đang thở, sinh vật dưới biển, chim chóc trên trời,
các động vật trên mặt đất, núi, rừng, ngày, đêm, cỏ, cây, hoa, lá, và
loài người là những tác phẩm tuyệt diệu chỉ có thể hoàn thành bởi bàn
tay Thượng Đế. Tôi tự hỏi tại sao với quyền uy và phép mầu như vậy, sau
khi dựng nên con người, Ngài lại để cho bao cảnh bi thảm, bao mối thương
tâm xẩy ra trong lịch sử nhân loại.
Loạn
lạc, thiên tai, chiến tranh, kế cả những cuộc thánh chiến mà cả hai phe
cùng nhân danh Ngài, thời nào cũng có. Có chiến tranh thì có hằng hà sa
số cảnh người giết hại người, cha mất con, vợ mất chồng, những kiếp
người lầm than, những mảnh đời khốn khổ. Phải chăng vì vậy mà Friedrich
Nietzsche, triết gia nổi tiếng người Đức trong thế kỷ 19, từng tuyên bố
“Thượng Đế đã chết” để ám chỉ (vì một lý do nào đó) Thượng Đế đã quay
mặt không đếm xỉa đến loài người sau khi tạo ra sinh vật có thể gọi là
tác phẩm vĩ đại nhất của Ngài? Có lẽ vì chịu ảnh hưởng của Nietzsche,
nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã mở đầu ca khúc Này Em Có Nhớ của ông với câu
“Chúa đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người, này em xin cứ phụ người.”
Sau
khi đứng ngắm biển đêm một lúc, tôi tìm một chỗ trên sàn tầu lúc nhúc
những người là người để nằm dỗ giấc ngủ. Nằm ngửa mặt nhìn bầu trời
khuya chi chít những vì sao lấp lánh, tôi nhớ đến những khuôn mặt thân
quen, họ hàng có, bạn hữu có, mà lúc ấy mình nghĩ đã vĩnh viễn rời xa.
Nổi bật trong số này là hai đứa bạn gắn bó với tôi từ những ngày thơ ấu
và có với nhau rất nhiều kỷ niệm, cùng một cô bạn khả ái người Huế có
thể gọi là tâm giao nhưng chúng tôi chưa bao giờ vượt quá ranh giới của
tình bạn. Tưởng tượng nét mặt bần thần của họ khi đến nhà tôi hôm nay
hay ngày mai, bấm chuông không ai mở cửa mà thấy xót lòng.
Tôi
vui mừng vì đã thoát được Cộng sản nhưng buồn rầu, đau đớn vì những ly
tan, cùng những mơ ước, những kế hoạch cho đời đã tan thành mây khói.
Bao nỗi vui buồn va vào nhau, xô đẩy nhau trong tôi khiến tôi không ngủ
được mặc dầu vừa trải qua đêm thức trắng. Lúc ấy, tôi chưa biết được
thời gian rồi sẽ là liều thuốc chữa lành vết thương dù để lại trong ta
những đường, ngấn sẹo suốt đời.
Một
gia đình Công Giáo gần chỗ tôi nằm cất tiếng đọc kinh. Vài người chung
quanh phụ họa. Khi hoang mang, lo lắng, trẻ con cậy đến cha mẹ còn cha
mẹ cậy đến Chúa, Phật. Con người, khi đã trưởng thành, thường gần Phật
hay Chúa nhất trong lúc nguy nan, gần đến nỗi có cảm tưởng mình cố vươn
tay cao thêm một chút là có thể chạm đến trái tim từ ái của các ngài. Kể
từ khi con người tin vào Thượng Đế hay Đấng Chí Tôn theo cách riêng của
từng tôn giáo, họ đã cậy đến Ngài trong cơn nguy khốn. Ngài có lắng
nghe những lời cầu xin của đàn con không, tôi không biết.
Tuy
nhiên tôi biết chắc một điều rằng Ngài không bị thiệt thòi. Nếu kẻ cầu
xin rốt cục được tai qua nạn khỏi, họ tin đã được Ngài phù hộ. Trong
trường hợp ngược lại, họ chép miệng thở dài “cái số mình như vậy” và vẫn
một mực yêu mến, thờ kính, tin tưởng nơi Ngài. Thôi thì cứ mơ mộng, cứ
cầu xin, đáp ứng hay không là việc riêng của Ngài. Dù sao, sự tin tưởng
là điều cứu rỗi trong lúc ấy và chẳng thiệt thòi gì khi mình có một niềm
tin. Ít ra nó cũng mang đến cho mình hy vọng.
Nhưng rồi, quá mệt mỏi, cuối cùng tôi cũng chợp mắt được khi giấc mơ về một ngày mai tươi sáng vẫn còn dang dở.
Tờ
mờ sớm hôm sau, tiếng léo nhéo của những người chung quanh đánh thức
tôi. Vừa ngồi dậy, tôi cảm thấy lưng áo mình ướt đẫm. Sờ tay vào sàn
tầu, tôi thấy râm rấp nước. Chẳng lẽ mình ngủ say đến độ mưa xuống mà
không biết. Sinh nghi, tôi đưa tay lên mũi ngửi thì rõ ràng là nước
tiểu. Hàng ngàn người chen chúc trên sàn tầu mà không có một nhà vệ sinh
nào trong tầm mắt thì tiểu tại chỗ, nhất là các em nhỏ, là chuyện
thường. Đành tự an ủi trong cái rủi có cái may, người ta không đại tiện
ra sàn tầu gần chỗ mình nằm là tốt rồi.
Tôi
nhặt chiếc túi đặt dưới sàn tầu đựng hai bộ quần áo mang theo định lấy
một chiếc áo ra thay thì mới hay lớp vải chiếc túi cũng đẫm nước. Thôi
thì cứ như vậy mà lạy trời mưa xuống.
Tầu
Đông Hải nổ máy, chuyển minh rồi lầm lũi trôi đi trên mặt nước biếc
xanh như ngọc. Nếu gạt bỏ được những xao động trong tâm tư, chắc những
người trên tầu sẽ chứng kiến được vẻ đẹp tuyệt vời của biển Đông trong
buổi bình minh sóng lặng như sáng hôm ấy, ngày 1 tháng 5 năm 1975. Chẳng
ai ngờ, chỉ vài năm sau cũng chính biến Đông này đã nổi cơn thịnh nộ
nuốt chìm hàng chục ngàn, có lẽ đúng hơn là hàng trăm ngàn thuyền nhân
phải bỏ nước ra đi như chúng tôi ngày hôm ấy.
Xa
xa, trong màn sương sớm, thấp thoáng một chiếc tầu trông giống chiến
hạm. Tiến đến gần, chúng tôi thấy đó là một chiến hạm Hoa Kỳ với những
người Việt tỵ nạn lố nhố đứng trên boong nhìn về tầu chúng tôi. Thủy thủ
đoàn trên tầu Đông Hải quyết định cập vào chiến hạm Mỹ để xin họ cho
những người trên tầu sang vì Đông Hải không có đủ thực phẩm cho số người
trên tầu. Một trực thăng từ chiến hạm bay lên để quan sát số người đứng
chật kín trên boong tầu.
Loa
phóng thanh trên chiến hạm phát ra những lời bằng Anh ngữ rồi ngay sau
đó một người trên chiến hạm dịch sang Việt ngữ là trên tầu họ đã đầy
người, không còn chỗ để chứa thêm; tầu chúng tôi phải tránh xa để giữ an
toàn. Tuy nhiên, thủy thủ đoàn Đông Hải vẫn lái tầu cập vào chiến hạm.
Ngay lập tức một tràng đạn đại liên từ chiến hạm nổ chát chúa và chúng
tôi nghe tiếng đạn bay cao veo véo trên tầu. Rõ ràng họ không muốn cho
chúng tôi đến gần và bắn chỉ thiên cảnh cáo chúng tôi.
Tôi
không biết ai là trưởng tầu trên tầu Đông Hải, nhưng những người đang
nắm vận mạng con tầu quyết định đưa tầu đi Tân Gia Ba. Với sự trợ giúp
của một số thanh niên, các thủy thủ dựng được hai chòi vệ sinh bằng các
thanh gỗ có bạt che gắn vào mạn trước của tầu, bên trái dành cho nam,
bên phải dành cho nữ. Thế là giải quyết được nhu cầu cho những người di
tản mà đến lúc ấy tôi mới biết có cả 2.000 người. Tôi cũng nghe một
người trong thủy thủ đoàn kể rằng không có gia đình chủ tầu trong số
người tỵ nạn. Sáng hôm trước, khi tầu neo trên bến Bạch Đằng, ông chủ
tầu về nhà để đón vợ con.
Lúc
Việt Cộng pháo kích vào bến, một số quân nhân đã lên sẵn tầu, trong đó
có nhiều người lính Hải Quân, chặt giây neo và lái tầu đi. Cuộc đời có
lắm oái oăm, chủ tầu bị bỏ lại, những người ông không hề quen biết dùng
tầu ông tự do ra đi. Xin tạ ơn ông và mong ơn Trên bù lại cho ông công
lao đã làm chủ một chiếc tầu đưa 2.000 người đến miền đất hứa.
Cũng
đến lúc ấy, tôi mới biết gần giữa tầu có một chiếc thang đứng dẫn xuống
khoang dùng để chứa hàng hoá nơi đang có chắc cũng phải bẩy hay tám
trăm người la liệt đứng, ngồi, nằm. Để tránh nắng, mẹ tôi đưa các em nhỏ
vào khoang. Và rồi, chúng tôi bắt đầu những ngày đói khát. Số bếp trên
tầu chắc được thiết kế để đủ dùng cho một thủy thủ đoàn khoảng 30 người
nên dĩ nhiên quá thiếu để phục vụ cho 2.000 người. Vì vậy, mỗi người chỉ
được chia khoảng 5 thìa cơm trắng và 5 thìa nước hằng ngày. Xin nói cho
rõ là thìa ở đây là cái muỗng cà phê. Điều may mắn là trên tầu có sẵn
vài bao sữa bột nên các em nhỏ còn uống sữa hay bú chai được phát vài
thìa sữa bột và khoảng nửa cốc nước; dĩ nhiên là nước lạnh chứ không
phải nước nóng.
Hai
ngày sau, tầu Đông Hải vào hải phận Tân Gia Ba. Một chiến hạm hải quân
của đảo quốc này hướng dẫn tầu đến bỏ neo trong vùng vịnh, xa xa là
thành phố với những tòa building chọc trời. Mọi người phải chịu đựng cơn
đói khát trong nhiều ngày nữa. Có lần trông thấy một gia đình bên cạnh
lấy gói mì mang theo ra ăn sống vì không có nước và bỏ lại những túi bột
gia vị mặn chát, cô em 12 tuổi của tôi xin họ rồi bóc những túi này ra
chia cho ba em 9, 7, và 5 tuổi liếm cho đỡ thèm. Trên tầu, tôi gặp người
bạn cùng khóa Đốc sự trường QGHC là anh Nguyễn Tử Nha, một sinh viên
gốc quân nhân như tôi.
Anh
vốn là Đại úy phục vụ tại Nha Kỹ Thuật trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu, đơn
vị hoạt động biệt kích thu thập tin tức tình báo để nhận biết hoạt động
của địch. Anh có biệt tài châm cứu và tôi đã nhiều lần chứng kiến anh
châm cứu bệnh nhân ngay trong khuôn viên Học Viện QGHC khi họ đến trường
nhờ anh chữa bệnh. Khi di tản, anh xách theo túi kim và dụng cụ châm
cứu. Anh đề nghị tôi để anh châm cứu cho cảm thấy đỡ đói. Tôi không tin
tưởng lắm ở châm cứu nhưng đói quá hóa liều, đành nằm dài trên sàn tầu
để anh cắm kim vào người. Thế mà sau đó tôi cảm thấy đỡ đói thật.
Mọi
người trên tầu tiếp tục chịu đói thêm vài ngày, cho đến khi chúng tôi
được nhà cầm quyền Tân Gia Ba tiếp tế lương thực bằng cách cho một tầu
nhỏ đến sát tầu Đông Hải, ném những ổ bánh mì lên cho đám đông trên tầu
giành giật. Những ổ bánh này có kích thước tương đương những ổ bán trong
các siêu thị ở Mỹ nhưng không xẻ sẵn ra từng lát mỏng. Tham gia vào
cuộc giành giật này cùng với các trai tráng trên tầu, tôi chụp được hai
ổ. Khi bước về chỗ gia đình đang trú ngụ, trông thấy cô gái cho mượn áo
len, tôi bẻ nửa ổ tặng ba chị em cô.
Hôm
ấy, lúc chia phần bánh mì cho các em, tôi hả hê với cảm tưởng mình như
một anh hùng khi trông thấy ánh mắt mừng vui của chúng. Tuy nhiên về
sau, trưởng thành hơn, tôi thấy hỗ thẹn khi nhớ đến hành vi của mình tả
xung hữu đột, chen lấn trong đám đông, xô nhau, đẩy nhau để chộp bắt
những ổ bánh mì đang rơi xuống. Mình phải nhẩy cao hơn họ, phải vươn tay
cao hơn họ. Trong nỗi hỗ thẹn, tôi lòng trấn an lòng rằng mình hành
động như vậy để mang lợi ích cho thân nhân.
Nhưng
rồi tôi tự hỏi nếu chỉ có mình tôi trên chuyến tầu ấy, sau vài ngày
nhịn đói, tôi có đủ dũng khí để làm kẻ bàng quan trong khi mình đủ sức
tham gia cuộc giành giật ấy không? Rồi tôi buồn rầu vì tự hiểu chắc mình
cũng không làm khác được. Thôi thì phải cậy đến câu nói của nhà hiền
triết Plato để lòng còn thanh thản: “Trong mỗi chúng ta, ngay cả những
người ôn hòa, chừng mực nhất, đều có một thứ ham muốn tồi tệ, hoang dã,
và vô luật pháp.”
Khoảng
10 ngày sau khi tầu đến Tân Gia Ba, hải quân của đảo quốc này mang sà
lan đến để chuyển hơn một nửa số người trên tầu Đông Hải sang những tầu
buôn Việt Nam khác còn trống chỗ cũng đang neo trong vịnh và chỉ đường
đến Subic Bay, một vịnh trên biển Đông thuộc lãnh thổ Phi Luật Tân và là
căn cứ của Hải Quân Hoa Kỳ, nơi đang đón tiếp người tỵ nạn Việt Nam.
Gia đình chúng tôi được chuyển lên tầu Long Hồ với số người trên tầu
khoảng 700. Chính quyền Tân Gia Ba tiếp tế gạo, bánh mì, và thực phẩm
đóng hộp cho chúng tôi đủ dùng trong hành trình. Thế là chấm dứt chuỗi
ngày đói khát.
Từ
lúc gia đình chúng tôi được chuyển sang tầu Long Hồ, tôi không gặp lại
cô gái cho mượn áo len. Cô và hai em còn ở tầu Đông Hải. Về sau, tôi
được biết tầu này đã từ Tân Gia Ba đến thẳng Guam, một hòn đảo thuộc Hoa
Kỳ, ở phía tây của Thái Bình Dương, nơi từng đón tiếp cả trăm ngàn
người Việt tỵ nạn trước khi họ được chuyển đến các trại tạm trú trên lục
địa Hoa Kỳ.
Khi
đến trại tạm cư trên đất Mỹ, một cô em tôi nhắc lại chuyện cô gái cho
tôi mượn áo và bảo tôi đừng tưởng bở mà mộng mơ, có khi chiếc áo cô cho
tôi mượn là của mẹ cô. Cô em khác hỏi đùa tôi sao anh hùng không bắt
chước Từ Hải xưa mà cưu mang giai nhân. Tôi chưa kịp trả lời thì mẹ tôi
đã phang cho câu thành ngữ “Ốc không mang nổi mình ốc, lại còn đòi mang
cọc cho rêu”. Tôi vẫn tiếc đã quên hỏi tên cô hay đã hỏi mà giờ không
nhớ.
Thậm
chí, bây giờ tôi không thể hình dung ra gương mặt cô mà chỉ nhớ cô có
dung nhan phảng phất câu thơ của Trần Dạ Từ: “em mười sáu tuổi, trăng
mười sáu.” Trong nỗi hoang mang, lo âu cho sự sống còn, không những cho
mình mà còn cho cả gia đình, sự quên lãng này là điều đáng được tha thứ.
Cầu mong cho cô và các em hạnh phúc, thành công trên xứ người trong nửa
thế kỷ qua, và đã được đoàn tụ với bà mẹ.
Các Trại Tạm Trú Dành Cho Người Di Tản
Ba
tuần sau khi rời Sài Gòn, chúng tôi đến Subic Bay vào một buổi tối. Hải
quân Hoa Kỳ đưa sà lan ra đón nửa số người trên tầu Long Hồ vào tạm trú
tại căn cứ này, trong đó có gia đình tôi. Đứng trên sà lan, bố tôi thả
khẩu Colt 45 xuống biển. Tôi được biết người Mỹ cung cấp thêm lương thực
cho những người còn lại trên tầu Long Hồ và chỉ đường cho thủy thủ đoàn
lái tầu đến Guam.
Chúng
tôi ở Subic Bay dễ chừng cả tháng, ngày ba buổi xếp hàng ở nhà ăn nhận
phần ăn sáng, trưa, chiều. Gia đình tôi đông người và có nhiều trẻ em
nên được tạm trú tại một phòng của khách sạn hai tầng độc nhất trên đảo,
nơi trước đây dành cho các các quân nhân Hoa Kỳ nghỉ phép ngắn hạn,
trong khi đa số người tỵ nạn ở các lều vải với ghế bố. Chỉ vài ngày sau,
tôi được những người tạm trú trong khách sạn bầu làm trưởng khu vì
người tiền nhiệm lên chuyến bay sang Guam, Nhiệm vụ chính của trưởng khu
là cắt cử những người dọn dẹp vệ sinh tại khách sạn và đặc biệt là cùng
với những nhóm khác, luân phiên làm công tác đổ thùng trong những nhà
vệ sinh dã chiến do các quân nhân Hoa Kỳ dựng tạm cho người tỵ nạn trên
đảo, một công tác khá nặng nhọc chỉ dành cho những thanh niên và trung
niên phái nam. Dĩ nhiên, tôi phải có mặt cùng với những người trong nhóm
mình.
Đến
cuối tháng Năm, tôi lại được chỉ định làm trưởng ban văn nghệ cho buổi
tiệc cảm ơn những quân nhân Hoa Kỳ phục vụ giúp người tỵ nạn. Thật ra,
người giữ trách nhiệm trưởng ban là nghệ sĩ La Thoại Tân. Tuy nhiên,
khoảng hai tuần trước buổi tiệc, ông cùng gia đình có tên trong danh
sách những người sang Guam nên tôi được chỉ định thay thế. Buổi tiệc
được tổ chức tại nhà ăn trong một chiếc lều thật lớn có bàn ghế đủ cho
khoảng 500 người với sự hiện diện của hầu hết những người lính Hải quân
Mỹ trên đảo. Điều lý thú là buổi tiệc dành để cảm ơn họ nhưng âm thanh,
ánh sáng, nhạc cụ, và cả thức ăn đều do họ cung cấp.
Vào
đầu hạ tuần tháng Sáu, chúng tôi được chuyển sang căn cứ không quân
Clark của Hoa Kỳ cách Subic Bay khoảng 80 cây số để lên một vận tải cơ
bay đến Guam. Gia đình tôi chỉ ở Guam gần ba tuần trước khi đáp chuyến
bay của hãng hàng không Pan Am do chính quyền thuê để đến thành phố Fort
Smith thuộc tiểu bang Arkansas. Từ phi trường Fort Smith, chúng tôi lên
chuyến xe bus đến Fort Chaffee, một trong năm căn cứ quân sự của Hoa Kỳ
được dùng làm nơi tạm trú cho người Việt tỵ nạn sau biến cố tháng Tư
năm 1975. Fort Chaffee là một trại huấn luyện khá lớn của Lục Quân Hoa
Kỳ với vài trăm dẫy nhà gỗ (barracks) đã đón tiếp khoảng 50.000 người
Việt tỵ nạn trong năm 1975.
Gia
đình chúng tôi đến Fort Chaffee ngày 12 tháng 7, khi trại đang có rất
đông người tỵ nạn đến trước. Tại đây, ông chú thiếu tá tình báo của
chúng tôi đoàn tụ với vợ con đã được Hoa Kỳ cho di tản khỏi Việt Nam từ
trung tuần tháng Tư như đã kề. Cuối tháng 8, tôi và cô em kế được học
bổng của một trường đại học ở tiểu bang Oklahoma và rời trại đến trường
để học nội trú. Khoảng 3 tuần sau, bố mẹ tôi và 6 người em được
Northwoods Presbyterian Church, thuộc Giáo Hội Trưởng Lão có nguồn gốc
từ Tô Cách Lan, ở Houston bảo lãnh. Cô em đã lập gia đình sang định cư ở
Hoa Thịnh Đốn, tức Washington D.C. Mùa hè năm 1976, sau một năm học ở
Oklahoma, tôi và cô em kế chuyển trường về Houston, tiểu bang Texas để
sống chung với gia đình.

Hình gia đình tác giả, với bố mẹ và 8 người con tại trại Fort Chaffee
trong hồ sơ xin bảo lãnh
Định
cư tại xứ người, chúng tôi có cuộc sống gọi là tốt đẹp trong nửa thế kỷ
qua. Tôi và các em lần lượt tốt nghiệp đại học, rồi đi làm, lập gia
đình, sinh con đẻ cái. Chín anh chị em chúng tôi trên tầu Đông Hải ngày
nào bây giờ trở thành một đại gia đình với hơn 60 người kể cả dâu rể.
Chuyến
di tản của gia đình tôi tuy gọi là cam go nhưng khi ra đến hải phận
quốc tế, dù phải chịu đựng vài ngày đói khát, mọi người vẫn quá may mắn
so với những đồng hương vượt biển tìm tự do vài năm sau đó. Chúng tôi ở
trên một con tầu lớn trong những tuần lễ biển lặng, sóng êm chứ không
phải ngồi chen chúc trên những tầu thuyền nhỏ bé mong manh giữa sóng to
gió lớn, và không phải lo lắng về tệ trạng hải tặc. Chuyến đi của chúng
tôi cam go ở nghĩa mình không làm chủ được vận mạng mình, những tính
toán trước khi ra đi đã không thành sự thật. Thoát đi được là cả một đất
trời may mắn.
Nửa
thế kỷ trước, chúng tôi chỉ mong thoát khỏi Việt Nam mà không thể biết
mình sẽ đến đâu, ở đâu, mưu sinh như thế nào. Những người tỵ nạn Việt
Nam đầu tiên vào Hoa Kỳ được phân phối rải rác đến 50 tiểu bang, sống
gần hoặc sống chung với người bảo trợ. Chúng tôi phải tìm hiểu, tự mầy
mò để bắt đầu cuộc đời mới trên xứ người. Kinh nghiệm để sống còn, để
tiến thân là kinh nghiệm từ chính những thất bại của mình chứ không thể
học hỏi từ người đi trước, vì làm gì có người đi trước.
Quê Hương Ở Đâu?
Tháng
11 năm 2013, sau hơn 38 năm định cư tại Hoa Kỳ, tôi và nhà tôi về Việt
Nam lần đầu để thăm người chị ruột nhà tôi đang bị ốm nặng. Khi máy bay
chuẩn bị đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, lòng tôi vừa bồi hồi, vừa
bùi ngùi, vừa xao xuyến, lại vừa cảm động. Nước mắt tôi ứa ra, quả tim
tôi đập mạnh. Hình như có giai điệu của ca khúc Chiều do Dương Thiệu
Tước phổ từ một bài thơ của Hồ Dzếnh đang réo rắt trong tôi: “trên đường
về nhớ đầy, chiều chậm rơi chân ngày, tiếng buồn vang trong mây…”
Ấy
vậy mà hơn hai tuần thăm viếng vài nơi từ Sài Gòn ra Hà Nội, tôi không
có cái cảm xúc “về với quê hương” như mình hằng tưởng tượng, ngay cả khi
đứng trước căn nhà cũ ở cư xá Bắc Hải, nơi tôi lớn lên với rất nhiều kỷ
niệm, và một chung cư nhếch nhác ở Hà Nội mà trước năm 1954 là nhà bảo
sanh Hồ Thị Mão, nơi tôi được sinh ra đời. Những người chiếm nhà chúng
tôi đã chia nhà thành hai căn và xây thêm phòng ở nơi vốn là vườn trước.
Tôi không thể nhận ra dấu tích quen thuộc nào của căn nhà yêu dấu cũ và
những con đường cư xá năm xưa.
Rốt
cục, trong chuyến đi hơn 11 năm trước, tôi đã đến thăm vài thành phố ở
Việt Nam với con mắt của một khách du lịch. Lúc bấy giờ, tôi ước ao phải
chi mình mang tâm trạng của một kẻ xa quê bao năm trời vừa trở về, như
người về lại nhà sau chuyến du sơn du thủy nhiều nơi trong bài đọc “Chốn
quê hương đẹp hơn cả” của Quốc Văn Giáo Khoa Thư mà tôi đã học từ tấm
bé. Tôi chợt thấy buồn rầu trong ý nghĩ hay là tôi đã mất quê hương?
Ngày
hôm ấy, tôi bần thần suy nghĩ quê hương tôi ở đâu? Ở vùng Bắc Ninh, nơi
mồ mả tổ tiên tôi đang yên nghỉ; ở Hà Nội, nơi tôi cất tiếng khóc chào
đời và là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi; ở Sài Gòn, mảnh đất tôi khôn
lớn, lưu giữ biết bao kỷ niệm cho tôi suốt 20 năm trời; hay là ở thành
phố Houston trên xứ người, nơi bố, mẹ, vợ, và các em tôi sinh sống suốt
nửa thế kỷ qua, nơi chúng tôi đang có bốn con trai và sẽ có những đứa
cháu được sinh ra đời? Vâng, có người quả quyết rằng quê hương đích thực
chính là nơi có sự hiện diện của người thân yêu, nơi ta nhung nhớ mỗi
khi đi xa, và rộn rã niềm vui trên đường trở lại.
Dĩ
nhiên, tổ quốc cùa tôi thì muôn đời vẫn là Việt Nam; nhưng câu hỏi về
“quê hương” khiến tôi không khỏi quặn lòng. Trong lần thăm Việt Nam năm
ấy, ngoài những đổi thay về khung cảnh mà ở bất cứ xã hội nào cũng có
sau chiều dài gần bốn thập niên, tôi nhận rõ rằng ở những nơi mà trước
chuyến đi tôi vẫn nghĩ là quê hương mình đã không còn những phong tục,
tập quán, nếp sống, và cả thứ ngôn ngữ tôi từng quen thuộc. Lúc ấy, tôi
nghĩ tôi đã có cùng tâm trạng với Bà Huyện Thanh Quan thuở trước, khi bà
từ kinh đô nhà Nguyễn trở về thăm lại cố đô của nhà Lê và viết nên bài
thơ bất hủ “Thăng Long Thành Hoài Cổ” với hai câu kết “nghìn năm gương
cũ soi kim cổ, cảnh đấy người đây luống đoạn trường.” Thật buồn thay!
Ngẫu Nhiên Hay Số Mệnh?
Ngày
còn trong lứa tuổi thanh niên “mộng vói tay cao hơn trời,” tôi nghĩ
mình làm chủ vận mệnh của chính mình. Trước khi biến cố 30 tháng Tư ập
đến, tôi đã từng nhiều lần phát ngôn với lòng tự tin của tuổi trẻ rằng
nếu số mệnh cho mình một quả chanh chua, hãy vắt nó thành ly nước chanh
ngon ngọt, cho mình và cho người chung quanh. Câu này dựa trên một giả
thuyết chủ quan lắm khi không tồn tại là mình được số mệnh trao quả
chanh kèm theo gói đường. Lỡ số mệnh cho thêm gói muối chứ không phải
gói đường thì làm gì có nước chanh ngon ngọt mà thưởng thức?
Hôm
nay, chân đã bước qua cột mốc “thất thập nhi tòng tâm sở dục” như lời
cụ Khổng dậy khi cụ khoảng tuổi tôi bây giờ, tôi tin rằng cuộc đời mỗi
người sinh ra đã được dành sẵn một số phận mà mình không cưỡng lại được.
Nhìn lại chuyến vượt thoát khỏi bàn tay Cộng sản vào ngày 30 tháng Tư
năm ấy, với những biến chuyển nối tiếp nhau như đã được một bàn tay vô
hình sắp xếp, tôi tin rằng định mệnh đã an bài sẵn cho chúng tôi thoát
khỏi bàn tay bạo tàn của Cộng sản, trước khi chúng tôi bàn đến chuyện ra
đi.
Nghĩ
lại, tôi thấy nếu thiếu một chữ “nếu” trong những trường hợp dưới đây,
gia đình chúng tôi đã không đi thoát trong ngày lịch sử 30 tháng Tư năm
ấy.
-
Nếu tôi không thi đậu vào Học Viện QGHC thì vào sáng 30 tháng Tư, giả
thử còn sống sót trong trận chiến cuối, có lẽ tôi cũng bị bắt làm tù
binh như những đồng đội ở sư đoàn 25. Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá, vị Tư lệnh
sư đoàn, cũng bị Cộng quân bắt tại Củ Chi hôm ấy. Bố mẹ tôi sẽ không ra
đi nếu thiếu một người con.
-
Mẹ tôi có một xưởng cưa ở Ban Mê Thuột từ năm 1971 và cho một người
thuê để khai thác. Ông này không trả tiền thuê trong suốt 6 tháng liên
tục nên đầu tháng Ba năm 1975, mẹ tôi quyết định đến thành phố này nhờ
thừa phát lại lập vi bằng tại xưởng và đóng xưởng cho đến khi họ thanh
toán số tiền đang thiếu. Bà đã mua vé máy bay từ Sài Gòn đến Ban Mê
Thuột ngày 9 tháng Ba. Tuy nhiên, sau khi bà mua vé, người Tầu đang thuê
phòng nhà tôi để làm nhà in như đã trình bầy ở trên muốn thay thế các
máy đang có bằng những máy tốt hơn, in đẹp hơn và nhanh hơn. Ông đề nghị
mẹ tôi góp vốn để làm chủ một nửa nhà in. Mẹ tôi đồng ý nên hoãn chuyến
đi Ban Mê Thuột một tuần để lo liệu giấy tờ liên quan đến nhà in. Nếu
bà không mua một nửa nhà in thì sẽ đến Ban Mê Thuột ngày 9 và bị kẹt lại
thành phố này vì hôm sau Cộng quân tấn công và rồi chiếm thành phố. Bà
bị kẹt ở Ban Mê Thuột thì gia đình tôi, không ai nghĩ đến chuyện tìm
đường ra khỏi nước.
-
Sáng 30 Tháng Tư, bố tôi đã chọn lộ trình đến phi trường qua Ngã Ba Ông
Tạ. Nếu trước khi rời nhà, ông không nhận được điện thoại từ người bạn
cho biết ngã ba này đã bị Việt Cộng chiếm mà vẫn theo lộ trình đã sắp
xếp thì nếu vẫn an toàn, chúng tôi khó thể thoát ra khỏi khu vực này.
-
Tương tự, nếu không có những người lính Biệt Cách Dù gác cầu Trương
Minh Giảng cho chúng tôi biết phi trường đã rơi vào tay Cộng Quân thì
gia đình không còn cơ hội đến bến Bạch Đằng để lên tầu Đông Hải.
-
Nếu không có trung đội Nhẩy Dù đến bố trí ở chỗ chiếc xe gia đình tôi
đang đậu thì chắc tôi phải tìm người nào đó nhờ trông xe để lên tầu gọi
gia đình về. Việt Cộng không pháo kích vào bến, tầu Đông Hải chưa khởi
hành còn chúng tôi đã lên xe về nhà.
-
Nếu Việt Cộng pháo kích sớm hơn dăm bẩy phút lúc tôi còn trông xe, tầu
Đông Hải sẽ khởi hành với gia đình tôi đang ở trên boong. Một mình tôi
bị bỏ lại trên bến.
-
Nếu họ pháo kích chậm hơn đôi ba phút, hoặc nếu ông chú tôi đứng gần
chúng tôi lúc trên tầu để tôi không phải tốn vài phút tìm ông chào giã
biệt, thì cả gia đình tôi đã rời tầu xuống bến, và tầu khởi hành không
có chúng tôi. Trường hợp tệ hơn là vừa đi bộ đến xe hoặc vừa vào trong
xe thì Việt Cộng pháo kích. Có thể vài người trong gia đình bị thương
hoặc thiệt mạng vì mảnh đạn.
Vâng,
quả thế, nhớ đến cuộc di tản cam go cuối tháng Tư năm ấy, thiếu một
trong những chữ “nếu” nêu trên thì gia đình chúng tôi không đi thoát. Bố
tôi, chú tôi, và tôi đã bị hành hạ trong cái gọi là trại cải tạo suốt
nhiều năm ròng rã. Riêng bố tôi, với bản tính ương ngạnh “uy vũ bất năng
khuất” và lòng căm thù Cộng sản, chắc khó có thể sống sót trong hoàn
cảnh bị tù đầy. Mẹ tôi trở thành nạn nhân trong chiến dịch đánh tư sản.
Gia đình tôi trắng tay sau hai đợt đổi tiền.
Các
em tôi rồi lêu bêu, phải bỏ học vì lý lịch để bươn chải kiếm miếng ăn
tại những chốn rừng thiêng nước độc có tên mỹ miều là Vùng Kinh Tế Mới.
Những cái người khác gọi là “ngẫu nhiên” xẩy ra cho gia đình tôi trong
buổi sáng 30 tháng Tư như sự sắp xếp của bàn tay định mệnh để thành
những mảnh ghép của con đường dẫn gia đình tôi đến bến bờ tự do. Ắt hẳn
mỗi người đã mang sẵn một số mệnh khi vừa được sinh ra đời theo kiểu
“nhất ẩm nhất trác giai do tiền định” (một hớp uống một miếng ăn cũng là
việc được định trước) như lời cụ Mạnh Tử quả quyết?
Thời
mới lớn, tôi được dậy cha đẻ của trách nhiệm là đức hạnh và lòng tự
trọng. Trách nhiệm được ca tụng và được trao phần thưởng trong các sách
giáo khoa và tiểu thuyết nhưng trên thực tế, trong nhiều hoàn cảnh,
người chu toàn trách nhiệm là những người chịu thiệt thòi. Điển hình là
những chiến sĩ VNCH tôi gặp sáng ngày 30 tháng Tư năm ấy: những người
lính Hải Quân đứng gác bộ chỉ huy dù họ biết rõ rằng cấp chỉ huy và
những chiến hạm đã ra đi trong đêm, toán Biệt Cách Dù gác cầu Trương
Minh Giảng để ngăn Cộng quân tiến vào trung tâm thủ đô, và trung đội
Nhẩy Dù ở bến Bạch Đằng đã thức suốt đêm chong mắt quần thảo với địch dù
đang trong hoàn cảnh thiếu thốn đạn dược. Họ và những người lính VNCH
khác đã can trường bảo vệ thành phố trong những ngày cuối của cuộc
chiến. Nhờ vậy mà hàng chục ngàn đồng bào có đủ thời giờ để vượt thoát
được cái nhà tù vĩ đại đang mở rộng cửa để nuốt trọn khối người dân miền
Nam, trong đó có gia đình tôi. Tôi suốt đời mang ơn các anh!
Khi
ở trại tạm trú Fort Chaffee, tôi quen một thiếu tá binh chủng Nhẩy Dù,
chỉ hơn tôi khoảng mươi tuổi. Anh là một người lính tác chiến, đã bao
phen vào sinh ra tử trong chiến trận. Đêm 29 tháng Tư, anh đưa được gia
đình nhỏ bé của anh gồm vợ và ba con nhỏ lên một chiến hạm Hải quân rời
bến Bạch Đằng. Một buổi tối, anh rủ tôi đi uống bia ở Hitching Post,
quán bia vốn dành cho quân nhân Mỹ trong trại nay được trưng dụng làm
nơi tiếp đón người tỵ nạn.
Anh
bảo uống một bữa để mừng ngày sắp được hôn lên bàn chân tuyệt trần của
Nữ thần Tự Do. Đó là lần đầu trong hơn hai tháng tôi lại được thưởng
thức chất men của thứ nước mà lắm người quả quyết là phát minh vĩ đại
nhất của loài người sau lửa. Chất men, dù nhẹ như men bia, làm người ta
cởi mở với nhau hơn. Trong câu chuyện trao đổi, tôi kể anh nghe chuyện
những người lính can trường đã chu toàn trách nhiệm mà tôi gặp trong
những giờ phút cuối của cuộc chiến.
-
Cậu phải hiểu có nhiều thứ trách nhiệm. Anh trầm ngâm một chốc rồi thở
dài nói tiếp. “Trách nhiệm với bản thân, trách nhiệm với gia đình, với
tập thể, với xã hội, và với đất nước. Ngày 29, khi biết tình hình không
thể cứu vãn, tôi phải có trách nhiệm đối với bản thân để không bị bỏ
mạng hay sa vào tay địch. Tôi phải có trách nhiệm đối với gia đình để
đưa vợ con đến bến bờ tự do. Ông cụ của cậu cũng thế thôi. Tôi có ba đứa
nhỏ còn ông cụ cậu có 9 người con. Trách nhiệm của ông còn to lớn hơn
nhiều so với tôi.”
Lời
anh nói khiến tôi suy nghĩ. Quả vậy, khi trưởng thành, mỗi người lắm
phen phải phân vân, phải lưỡng lự cân nhắc khi đứng ở ngã ba hay ngã tư
đối diện với những con đường trách nhiệm. Tuy nhiên, tôi vẫn cho rằng
người dám chọn bước vào con đường đầy chông gai và có thể mất mạng như
chơi mà tuổi tên không ai biết đến là những người cao cả và đáng trọng,
như những người lính tôi đã gặp trên bước đường di tản. Mỗi lần nghĩ đến
họ, tôi lại nhớ đến mấy câu thơ của Đằng Phương, tức giáo sư Nguyễn
Ngọc Huy: “Họ là những anh hùng không tên tuổi, sống âm thầm trong bóng
tối mông mênh, không bao giờ được hưởng ánh quang vinh, nhưng can đảm và
tận tình giúp nước.” Cầu mong họ vẫn lành lặn qua ngày định mệnh năm
ấy. Cầu mong họ có một cuộc sống không gọi là bi thảm suốt nửa thế kỷ
qua.
Vâng,
nửa thế kỷ đã trôi qua, đến hôm nay, cũng như bố tôi, có lẽ hầu hết
những người chủ gia đình đưa được người thân yêu rời khỏi quê hương
trong tháng Tư tang thương ngày ấy đã không còn trong cuộc đời này. Nghĩ
mà thương bố tôi. Khi khởi đầu cuộc đời tỵ nạn, tôi là một thanh niên
độc thân chưa đầy 23 tuổi và với tuổi này, không khó khăn lắm để thích
nghi với xã hội mới và xây dựng tương lai. Ngày ấy, bố tôi đã 45 và từ
lúc trưởng thành, ông là một người lính chuyên nghiệp, chỉ biết đánh
giặc, biết làm tham mưu, dĩ nhiên là tham mưu trong cuộc chiến. Sang
định cư tại xứ người, ông phải học một nghề lao động, quần quật nuôi đàn
con ăn học nên người. Ông đã từ giã chúng tôi về “ngôi nhà lớn” gần ba
năm trước.
Những
người chủ gia đình người Việt tỵ nạn năm 1975, trong đó có bố tôi,
chính là những kẻ đã khai sinh ra cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ và cả
tại những quốc gia Âu Mỹ khác. Cộng đồng ấy lớn mạnh đều đặn theo thời
gian và đã cống hiến cho xã hội nơi họ định cư những đóng góp quan trọng
trong mọi lãnh vực. Xin thắp một nén hương lòng để tưởng nhớ và biết ơn
những chủ gia đình thuở ấy nay đã về thế giới bên kia.
Trong
cuộc đời, có lúc chúng ta phải đương đầu với những thách đố ảnh hưởng
đến vận mạng. Những thách đố chúng ta chịu khuất phục để lại bóng tối
trong hồi tưởng, nhưng những thách đố chúng ta vượt qua trở thành thứ
ánh sáng ấm áp của ký ức, có thể soi rọi vào tâm hồn khiến bản thân thay
đổi theo hướng tích cực. Hồi ức với những ngày tháng Tư năm ấy cho tôi
sức mạnh để vượt qua những chướng ngại trong nửa thế kỷ qua. Nhờ mớ ký
ức của tháng Tư thuở ấy, tôi đã có cái nhìn khoan dung hơn với người,
với đời. Tôi nỗ lực hơn để cuộc sống mình ý nghĩa hơn.
Bài
viết này được mở đầu bằng hai câu trong Truyện Kiều: “Bắt phong trần,
phải phong trần; cho thanh cao mới được phần thanh cao;” Viết đến đây,
tôi nhớ đến hai chữ “túc nhân” của nhà Phật, tức nhân duyên từ kiếp
trước, nên xin mượn bốn câu khác cũng của Truyện Kiều để kết thúc:
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Cỗi nguồn cũng ở lòng người,
Túc nhân âu cũng có Trời ở trong.
Nguyễn Ngọc Bảo
No comments:
Post a Comment