Thursday, June 12, 2025

Một Chiều Mưa Pleiku Truyện ngắn Trường Sơn Lê Xuân Nhị

Tặng 3 nhà văn mặc áo lính ở Orange County, California: Phan Nhật Nam, Phạm Tín An Ninh, Trạch Gầm
Quí vị là những anh hùng của tôi.  Tôi nói thật, không nịnh bợ, không mua lòng…
 
Vì thương quê hương anh lặng lẽ bước chân đi
Vì yêu non sông tôi gạt nước mắt phân ly
Từng cơn mưa vẫn rơi não nề
Anh nói một năm nữa anh về…
 
Trích Hai Mùa Mưa
 
Trong một cái quán nhỏ không xa phi trường Cù Hanh lắm của thành phố Pleiku, một buổi kia, có một tiệc rượu nhỏ giữa hai ông phi công và mấy ông quan bộ binh của sư đoàn 23 bộ binh…
Bộ binh dưới đất mà ngồi uống bia với phi công trên trời thì khỏi nói, vui phải biết.  Và cũng ồn ào nữa.   Tiếng cụng ly, xen lẫn tiếng chửi thề, xen lẫn những tiếng nhai nhồm nhoàm, xen lẫn với tiếng nhạc từ hai chiếc loa của sàn máy Akai ở bên trong, làm thành một thứ âm thanh rất là vui nhộn, rất là lính…
Tiệc rượu của các quan bắt đầu rất là vô tình…
Trung uý Trung, một tay phi công chẳng hiền lành gì, hôm ấy không phải đi bay, rủ bạn mình, trung uý Sao, trái ngược với Trung, là một tay rất hiền lành, ra phố ăn sáng.  Trung uý Trung chẳng hiền lành vì xuất thân là một anh học trò … học thì ít mà phá thì nhiều, không ai chịu nổi nên mới bỏ nhà đi lính.  Không hiểu phép lạ nào lại cho hắn vào Không Quân, được lái tàu bay.  Trong khi đó, trung uý Sao vốn là một giáo sư Pháp Văn, dạy trường Tây đàng hoàng, nhưng bị động viên, đi Thủ Đức rồi vào Không Quân.  Trung uý Sao ăn nói lịch sự, đi đứng chửng chạc, thích suy tư, ít khi cười, không hút thuốc cũng ít uống rượu.  Sao lại có thú mê sách, thích đọc sách, đi đâu cũng kè kè một cuốn sách theo, lúc thì tiếng Việt, lúc thì tiếng Anh hoặc Pháp.  Khác nhau như thế, nhưng không hiểu tại sao, hai người thường đi bay và đi chơi chung với nhau, lại thân thiết nữa mới là chuyện lạ.
Mới đầu là chỉ tính ăn sáng thôi, nhưng cuộc đời của những người lính, nhất là những người lính bạt mạng như Trung thì cuộc đời luôn luôn có những thay đổi bất ngờ.  Bữa ăn sáng đã biến thành buổi nhậu thịt chó vì Trung thay đổi ý kiến vào phút chót.
Trung phải khó khăn lắm mới mượn được chiếc xe díp của biệt đội Pleiku để ra đây vì ông biệt đội trưởng, đại úy Ba, là một người rất cẩn thận.  Ông biết giao xe díp cho thằng Trung ra phố Pleiku thì không biết lúc nó lái xe về, chiếc xe díp của chính phủ có còn là… chiếc xe díp hay không?  Không phải ông sợ vu vơ, ông đã có kinh nghiệm một lần.
Cách đây không lâu, Trung cũng mượn xe díp đi phố như vậy.  Nhưng ngày hôm sau, đại úy Ba cất cánh sớm, leo lên xe thì nhận ra là cái phần dưới chân ga của chiếc xe díp bị thủng một lỗ lớn cỡ vài bàn tay.  Đại úy Ba giận run người nhưng phải cất cánh liền nên chưa làm gì được.  Đi bay về thì cơn giận đã bớt đi nhiều, đại úy gọi Trung ra, làm mặt nghiêm hỏi:
-Ông Trung, ông muốn tôi què cẳng hay sao mà lại đục thủng một lỗ lớn ngay dưới bàn đạp xe hơi vậy.  May mà chân tôi chưa đạp xuống đất.  Mà làm cách nào ông lại đục được một cái lỗ to và vuông vức như thế?  Xe chính phủ hư tôi không tiếc, nhưng tôi chỉ có một cặp giò…
Dĩ nhiên là Trung đã dấu chuyện mình uống rượu say, lái xe lên lể, vừa nhăn nhó vừa cười cầu tài:
-Em lái xe mãi lo nghĩ chuyện đất nước nên bị lạc tay lái, lủi lên cỏ, nào ngờ cán qua một cái trụ sắt, kẹt luôn.  Tụi em phải xuống xe, phá chỗ bị kẹt, kéo xe ra rồi đem đi sửa.  Nhưng thợ đang làm nửa chừng thì trời sập tối, tụi em phải về, tính mai ra sửa tiếp, đại úy thông cảm…  vân vân.
-Mẹ bố, uống rượu say lái xe để xe thủng một lỗ như thế mà còn đem tổ quốc vào được để biện mình cho mình thì tôi chịu thua ông, tôi không còn biết dùng lời lẽ nào để nói chuyện với ông…
Đại úy dừng nói ở đó vì ông không còn lời gì để nói thật.  Ông chỉ muốn ăn tươi nuốt sống cái thằng phi công du côn đang đứng trước mặt mình, nhưng biết là mình không thể làm thế được.  Mà đem hắn đi nhốt thì lấy ai mà đi bay thế cho hắn đây, lại phải ký giấy ký tờ, thủ tục nhà binh lẩm cẩm này kia, rắc rối bỏ mẹ.  Và chửi hắn thì càng chỉ tốn nước bọt và thì giờ của mình vì hắn có coi ra gì đâu, câu chửi từ tai này liền sang tai kia, miệng lúc nào cũng cười hề hề như chẳng có việc gì xảy ra.  Cuối cùng, ngài đại úy chỉ buông được một câu đau khổ:
-Đù mẹ, sao mà tôi chán ông trung uý này quá…  Số tôi đen đủi mới gặp ông.  Thế thì tôi cấm ông từ này về sau không được lái xe díp nữa, cấm ông không được đi chơi đêm, cấm ông không được … vân vân và vân vân.
Trung uý Trung vung tay chào, chẳng coi những cái cấm của ngài đại úy ra gì cả, miệng còn cười cười rất là tươi tỉnh:
-Xin tuân lệnh đại úy…
Nhìn thấy nụ cười … đểu cáng mất dạy của thằng đàn em, Đại úy Ba điên tiết, hét lên:
-Tuân lệnh cái … con mẹ.  Ông đi khuất mắt tôi đi, đừng có chọc cho tôi nổi giận nữa, tôi gọi quân cảnh tới chở ông đi nhốt liền bây giờ…
Nghe nói đi nhốt, Trung liền quay gót bước đi liền.  Hắn đi rồi, đại úy Ba còn đứng nhìn theo, chửi đổng cho mọi người nghe:
-Mẹ, trời đất loạn rồi nên phi đoàn bây giờ mới có tụi phi công nhí vô kỹ luật.  Đúng là vô kỹ luật chưa từng có trong lịch sử cái phi đoàn này …
Nhưng sáng hôm đó, Trung lại mượn được xe díp của biệt đội lần nữa mới là tài.  Trung mượn được, trước hết, vì đại úy Ba tính tình dễ dãi và có tật hay quên.  Thứ hai, ông thấy phi công trong biệt đội buồn quá, cho họ đi chơi bớt để đỡ nhìn thấy họ đi bay suốt ngày giữa hòn tên mũi đạn rồi về nhà, chỉ nằm chèo queo, nhớ nhà, nhớ vợ, chẳng có gì để giải buồn…  Thêm vào đó, trung uý Trung bay bỗng rất đẹp, ngay cả tướng vùng cũng khen lia lịa.
Nhưng trước khi đi, đại úy Ba vẫn còn ráng vớt vát, ân cần dặn dò, giọng như là năn nỉ:
-Ông đừng có uống nhiều quá nhe, cả biệt đội chỉ có một chiếc xe này để chở anh em đi bay…. Vân vân
Trung nhăn nhó:
-Giữa tháng rồi, tiền đâu mà uống nữa anh Ba.  Trong túi chỉ cỏn tiền cho mỗi đứa hai chai bia lớn và một đĩa rựa mận, một đĩa chả chìa.  Thuốc lá cũng gần hết rồi, không chừng phải nhịn đây…
Nghe than thở đau đớn như thế thì ai mà chẳng động lòng, Đại úy Ba gật đầu ngay.  Thằng nhỏ nói có lý.  Cuối tháng mới lãnh lương thì còn thịt bò xào với lại đồ biển này kia, nhưng giữa tháng thì chỉ còn đủ tiền để đi ăn thịt chó.
Quán thịt chó có tên là “Nai Đồng Quê”, nghe đồn rằng, do một người lính địa phương quân làm chủ.  Quán nhỏ, chỉ kê độ 10 cái bàn đóng bẳng gỗ thùng đạn, cái lớn cái nhỏ, cái cao cái thấp, chẳng sơn chẳng phết.  Có cái lại còn lòi cả đinh ra ngoài. 
Pleiku là một thành phố lính cho nên cái gì cũng nghèo hèn, quê kệch và đơn giản.  Hình như chủ quán, hoặc vì không có tiền, hoặc vì muốn quán có không khí lính cho nên mới bày biện như thế.  Nhưng trong một thành phố chỉ toàn là lính như Pleiku thì người ta rất dễ dãi, chẳng ai màn đến chuyện này.  Nhiều khi, ngồi ghế đóng bằng gỗ thùng đạn coi nó còn bụi đời hơn ghế thường…
Nhưng, dù giàu sang hay hèn mọn, lính hay không lính, có hai quy luật rất quan trọng mà thời đó ai cũng phải tuân theo nếu muốn mở quán cà phê.  Trước hết, quán phải có một cô hàng thật đẹp, hay hơi… đẹp cũng được, làm thu ngân để cho lính ngắm và tán tỉnh nếu cần.  Thứ hai, phải có một dàn máy Akai và cặp loa thật lớn để phát những bản nhạc thời trang lúc đó.
Quán Nai Đồng Quê này có đủ hai điều kiện trên, lại còn có món thịt chó giá phải chăng cho nên luôn luôn có khách.  Mỗi lần đi biệt phái Pleiku, Trung ít nhất phải ghé đây ít nhất là vài ba lần, không phải vì ghiền thịt chó mà nghiền những gì đi chung với thịt chó như rượu đế, tiếng chửi thề, tiếng ồn ào của lính…
Cô bán hàng, con gái của ông thượng sĩ chủ quán, tên là Trang, tuổi xuân thì mới lớn, đang còn đi học.  Nàng không đẹp lắm, chỉ dễ nhìn, nhưng trong một thế giới toàn là lính này, dễ nhìn thì được coi là tuyệt đẹp rồi.  Đặc biệt, cô hàng ngồi trên quầy luôn luôn có một cuốn sách hay truyện để đọc khi rảnh rổi.  Sách của nàng thường là sách do lính viết, như cuốn “Dọc Đường Số Một”, hay “Dấu Binh Lửa” của Phan Nhật Nam, “Đời Pháo Thủ” của Nguyên Vũ, vân vân
Thỉnh thoảng, khi không có lớp hoặc hai ngày cuối tuần, cô ra ngồi quán giúp bố.  Khỏi cần nói, mỗi khi cô hàng xuất hiện thì quán đông hẳn lên.  Quan cũng có mà lính cũng có, ngay cả các cậu học sinh nữa, không hiểu nhờ ai thông báo mà họ tới ngồi đầy quán.  Những giây phút quý báu ấy, bàn rượu của những tay ngỗ ngáo nhất của lính cũng bớt tiếng chửi thề đi.  Người ta ăn nói với nhau nhẹ nhàng hơn và lịch sự hơn.  Nơi mấy bàn cà phê gần quầy tính tiền, nơi bọn học sinh tóc dài đóng đô thì khỏi nói, ai nấy mặt mày tư lự như những chàng thi sĩ đang tìm vần thơ…
Trung thắng xe díp trước cửa tiệm cỡ 11 giờ sáng, khi quán vừa mở cửa không lâu.  Cái giấc 11 giờ sáng là lúc mà người ta ăn sáng cũng được mà ăn trưa hoặc … ăn nhậu cũng được.
Trung tắt máy chiếc xe díp, chưa thèm xuống xe vội, quay nhìn Sao hỏi:
-Mày còn bao nhiêu tiền?
-Cỡ 3 ngàn.
-Thuốc lá?
-Còn nửa gói.
-Vậy thôi à?
-Vậy là may rồi đó.  Biệt phái đã hơn 10 ngày rồi còn gì, dành dụm lắm mới được như thế.
Trung ngồi im trên xe, trầm ngâm, không nói gì, mặt mày bỗng trở nên táo bón.  Trung uý Sao thấy bạn như vậy, liền hỏi:
-Có gì không mày?
Trung lắc đầu:
-Không, chẳng có gì cả.  Tao chỉ còn 5 ngàn, đủ tiền ăn sáng nhưng không hiểu tại sao tới đây bây giờ lại đổi ý, chẳng muốn ăn sáng nữa.
Sao nói liền, mặt tươi hẳn lên:
-Tao cũng không đói lắm.  Vậy thì tụi mình đi, lái xe dạo phố Pleiku một vòng rồi về.
Trung lắc đầu, mặt mày lại càng trở nên táo bón nặng hơn:
-Đù mẹ nói như mày thì thế giới này làm gì có chiến tranh…
Sao ú ớ, không hiểu bạn mình muốn nói gì.  Trung tiếp:
-Tao không muốn ăn sáng mà lại muốn … nhậu thịt chó mới chết mẹ.  Đù mẹ tự nhiên nhìn thấy tấm biển “Nai Đồng Quê” với con chó mực trên bảng thì tao thấy hết thèm ăn sáng mà chỉ thèm một đĩa chả chìa và một xị rượu đế…  Đù mẹ, sống trên đời không ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ biết có mà ăn…
Sao chẳng lạ gì cái thằng phi công trời đánh này, và tính chàng vốn dễ dãi, quý bạn nên nói ngay:
-Thì mình vào nhậu thịt chó, có gì phải nhăn nhó vậy.
-Chỉ sợ không đủ tiền.
Sao nhíu mày tính toán một lúc rồi nói:
-5 ngàn của mày cộng thêm 3 ngàn của tao là 8 ngàn, bia chỉ có một ngàn một chai.  Tao không thích uống bia và cũng chẳng ăn thịt chó, mọi thứ để nhường hết cho mày.  Mày uống cỡ 2 chai bia là 2 ngàn, 5 ngàn thì vừa đủ cho 2 đĩa thịt chó. Vậy là còn dư cỡ một ngàn đồng…
Trung nhìn bạn, lắc đầu:
-Nói như mày thì thế giới càng có chiến tranh nặng.  Cỡ tao mà làm sao uống 2 chai bia được?  Hai chai thì chưa đủ để… mắc đái, nói gì đến say.
Sao tròn mắt:
-Ừ nhỉ, tao quên mất mày là tổ bợm rượu.  Thế thì mày tính uống mấy chai?
Trung lắc đầu buông một câu xanh dờn:
-Mẹ kiếp, đã mượn được xe díp của đại úy Ba ra đây mà không uống cỡ chục chai thì tao nhất định không phải là đại trượng phu, không xứng danh Nam tử.  Đù mẹ, chết sướng hơn…
Sao hốt hoảng như bị ai nhét vào đít một cục than:
-Con lạy ông, không có tiền mà đòi chơi sang, ông muốn đi tù chắc?
Trung tỉnh bơ:
-Thế mới có chuyện mà nói, thế mới có chiến tranh…
Sao chưa kịp nói gì thì Trung đã tiếp:
-Nhưng tao đã có cách rồi.
-Cách gì, mày tính đi ăn quịt hả.  Tao xin lỗi, nếu mày tính như thế thì lái xe chở tao đi về liền, giòng họ nhà tao mấy đời chưa hề ăn cắp hay ăn quịt của ai một đồng.  Tao không muốn bị rắc rối với pháp luật…
 Trung thò tay lột cái đồng hồ Seiko của mình ra đưa cho Sao coi:
-Cái đồng hồ này cũng cẩm được ít nhất từ 3 tới 5 ngàn.
Sao vẫn lắc đầu:
-Cũng không đủ,
Trung cười, chỉ tay vào cái đồng hồ của Sao đang đeo, miệng cười cười:
-Seiko của tao cộng với cái đồng hồ của mày thì đủ tiền cho buổi nhậu.
Sao khựng người lại, ú ớ:
-Ai bảo là tao sẽ cầm đồng hồ của tao cho mày uống rượu?  Mày có điên không?
-Không điên, nhưng tụi mình đâu có cần đồng hồ.  Đồng hồ, đối với phi công là một thứ … xa xí phẩm.  Này nhé, trên tàu bay đã có một cái đồng hồ, trong biệt đội cũng có treo một cái trong phòng hành quân, phi đoàn còn có mấy cái, treo đầy tường…  Không cần có đồng hồ đeo tay mình cũng vẫn biết được giờ giấc mà…
-Lý luận như mày thì tao cũng xin chịu thua.  Nhưng tao không muốn cẩm đồng hồ cho ai cả.  Lỡ vợ tao hỏi thì sao?
Trung cười:
-Mày nói đi biệt phái Pleiku tắm suối, để trên một hòn đá, gặp em Thượng kia đang tắm có cặp vú đẹp quá, để ý theo dõi nên bị nước cuốn trôi mất rồi.  Một tình cảnh rất là có lý, rất là lính, giống như trong … bài hát “Tình Thư Của Lính” vậy.  Mày có thể phịa thêm là tại cái đồng hồ khỉ gió đó, mày nhảy xuống nước tìm nó mà xém tí nữa bị chết đuối toi mạng.  Bảo đảm, vợ mày nghe như thế sẽ khóc và tha thứ cho chồng, có khi còn yêu thương chiều chuộng mày hơn xưa nữa…
-Con lạy ông, ông nghĩ đàn bà ai cũng dễ nghe như thế sao?  Đàn bà Thượng bây giờ văn mình rồi, đâu còn đi tắm suối để vú cho thiên hạ coi nữa.  Hơn nữa, vợ tao đáo để lắm, không dễ nghe như mày nói. 
-Mày là lính, đi biệt phái xa nhà, nói thế nào mà chẳng được?
-Thế hôm nào chuộc lại đồng hồ được thì nói sao đây?
-Nói nhờ một em bé người Thượng nhặt được, đưa lại.  Mày có thể phịa thêm là…
Sao lắc đầu:
-Con lạy ông, xin ông đừng nói nữa.  Nhưng bây giờ ở cái thành phố xa lạ này, ai dám cẩm đồng hồ cho tụi mình?
Trung cười hề hề, móc bóp ra một tấm cạc visit nhỏ, đen đúa và bẩn thỉu:
-Chuyện nhỏ bạn ta ơi.  Mày quên rằng tao là chuyên viên thượng đẳng việc cầm đồ để ăn nhậu.  Đây là tiệm cẩm đồ của anh Bảy, cũng không xa đây lắm, địa chỉ đây.  Tao quen anh Bảy, cựu lính Biệt Động Quân, nói mày là bạn của tao thì chả cẩm liền.  Ráng đòi hai cái cho được chừng 15 xấp thì càng tốt…
Sao cầm lấy tấm cạc visit, không biết phải phản ứng như thế nào, ngắm ngía rồi đút vào túi, lắc đầu ngán ngẩm.  Kể từ giây phút này, con xin giao phó mọi chuyện cho Trời đất…
Khuôn mặt Trung bây giờ đã hết táo bón, mở miệng cười hì hì:
-Lát nữa, khi gần tính tiền, mày lái xe đi cầm đồ, còn bây giờ thì tụi mình có quyền vào ăn nhậu mà chẳng sợ gì cả.  Mẹ kiếp, đời người mấy khi lại được vui như thế này?
Rồi Trung sửa lại áo bay, thắt lại khăn quàng cổ, miệng âm ỉ ca: “Tình yêu bay bướm là tình, tình yêu phi công…”
Từ phía ngoài, chỉ cần một cái liếc mắt là Trung đã nhìn thấy cô hàng ở bên trong và nhận ra luôn rằng hôm nay là ngày thứ Bảy.  Cô Trang chỉ có mặt ban ngày vào những ngày cuối tuần.  Dân Không Quân bay bổng chẳng theo ngày thứ nên đã từ lâu chàng chẳng còn nhận ra sự khác biệt giữa thứ Bảy Chủ Nhật hay ngày thường nữa.
Mới nhìn qua thì Trung nhận ra ngay con bé Trang, nhưng nhìn kỹ hơn thì trong quầy không phải chỉ có mình nó mà còn có thêm một người nữa.  Một cái áo len xanh và một áo trắng ngồi sát nhau sau quầy tính tiền.  Hai mái tóc thề và hai khuôn mặt với nước da trắng phau, nhất định phải là rất đẹp…
Dù tới đây đã nhiều lần, và Trung chẳng bao giờ để ý đến Trang, chỉ coi như một đứa em, nhưng hôm nay, nhìn thấy hai bóng hồng thì lòng chàng bỗng cảm thấy vui lên.  Đĩa rựa mận và chả chìa hôm nay phải nhất định là khoái khẩu.
Như đã nói, quán Nai Đồng Quê tuy không lớn lắm, với chừng chục cái bàn, nhưng chủ nhân biết cách trang hoàng sắp xếp.  Những cái bàn ngoài cùng, xa quầy tính tiền là bàn của dân nhậu thịt chó, thấp lè tè.  Ở đây, những tiếng chửi thề văng tục ít khi vào tới bên trong được.  Càng vào trong, càng gần quầy hàng là bàn của dân uống cà phê, bàn ghế cao hơn.  Thường thường, ở những nơi khác, chẳng ai vào quán thịt chó để uống cà phê bao giờ, nhưng đây là Pleiku, thành phố lính, mọi chuyện lạ đời hay ngược đời đều luôn luôn xảy ra.
Trung bước vào trước, Sao đi sau, tay thủ một cuốn sách như thường lệ…
Quán nhậu đã đông được hơn một nửa.  Đông nhất, tuốt phía trong, là bọn học sinh tóc dài, ngổi kín 4, 5 cái bàn gần cô thu ngân.  Trung biết bọn nhóc này, tuy chưa đến tuổi đi lính nhưng chúng đều là con cháu của lính, hoặc có bà con với lính.  Được cái vì có giây dưa rể má với lính cho nên mọi người dễ cảm thông và quý mến nhau.  Chàng coi chúng như em út và ngược lại, chúng cũng tỏ vẻ quý trọng chàng, một phi công của QLVNCH.  Trung quen thân với vài đứa và thấy chúng rất dễ thương, muốn tìm hiểu về Không Quân, về lính, để chuẩn bị cho những ngày sắp tới, có thể phải mặc đồ lính như mọi người trai trẻ thời đó.
Hai ông phi công ngồi xuống một cái bàn gần phía ngoài.  Trung thẩy gói thuốc lá Capstan lên bàn như thường lệ.  Sao thẩy cuốn truyện “Bố Già” của Ngọc Thứ Lang gần gói thuốc…
Một tà áo trắng xuất hiện, rất là tha thướt, nhẹ nhàng hỏi với một nụ cười:
-Dạ thưa hai trung uý dùng gì ạ?
Hai người đưa mắt lên nhìn người hỏi.  Cô gái có vẻ lớn tuổi hơn Trang, mặt mũi đoan trang, hiền hậu và cặp mắt rất tha thướt.  Sao vẫn tỉnh bơ, lịch sự cúi nhẹ đầu chào cô hàng nhưng Trung thì lại… ú ớ, quên mẹ nó mất cô ta hỏi gì mà lại mở miệng cười liền:
-Cô là gì với Trang mà lại lạc loài tới đây?
Cô hàng nhún vai, cười nhẹ:
-Chẳng là gì mà cũng chẳng lạc loài đâu.  Thưa trung uý, tôi đang thất nghiệp.
-Ôi, tôi xin lỗi, chỉ nói đùa thôi mà, cô đừng giận nhé…
-Dạ tôi chẳng dám, thưa trung uý.
-Cô có thể bỏ giùm cái tiếng trung uý đi coi có được không.  Gọi anh và em nghe nó có vẻ văn minh và tình tứ hơn.
Cô hàng lại cười:
-Dạ, nếu trung uý cho phép.  Nhưng gọi anh và em thì cũng không có văn minh hơn đâu, thưa ông.  Còn chuyện tình tứ thì tôi càng không dám…
Trung cười hề hề, cảm thấy khoái cô hàng:
-Tôi tên Trung, còn bạn tôi đây, tên là Sao, thiên hạ gọi là Sao thầy đồ.  Tối ngày chỉ ham đọc sách…
Sao gật nhẹ đầu chào cô hàng, không nói gì.  Cô hàng nói:
-Hân hạnh được gặp hai ông.  Còn tôi, tôi tên Phượng.
Trung vỗ tay xuống bàn một phát, gật gù cái đầu:
-Biết ngay mà, tôi biết thế nào cô cũng có một cái tên như thế?
Cả Phượng và Sao cùng ngạc nhiên.  Phượng hỏi:
-Thưa ông, sao thế ạ?
Trung kẹp một điếu thuốc lá vào môi, thò tay vào cái túi áo bay tìm hộp quẹt:
-Dễ lắm.  Những người đàn bà đẹp luôn luôn mang tên một loài hoa.  Một loài hoa như là Phượng, Lan, Hồng, vân vân.  Cô đẹp như thế thì mang tên Phượng là phải rồi…
Cả Phượng lẫn Sao đều bật lên cười.  Phượng đỏ mặt:
-Tôi không dám.  Ông đang tán tỉnh tôi đấy phỏng?
Trung trả lời tỉnh bơ:
-Tán tỉnh là danh từ của bọn xi-vin, lính tráng như chúng tôi thì cô phải dùng chữ … dê cô mới đúng là điệu nhà binh.  Quân đội không có chuyện tán tỉnh cô Phượng à, chỉ có dê mà thôi.
Phượng lắc đầu:
-Tôi xin ông.  Ông…  ông bạo quá…
Lúc ấy Sao mới chen vào:
-Thằng này xưa nay luôn luôn là như vậy, nó nói bậy, mong cô đừng chấp.
Trung móc ra cái Zippo, bật lửa mồi thuốc:
-Như thế thiên hạ mới có chiến tranh…
Phượng hỏi:
-Thưa ông, tôi không hiểu.
-Người ta thường sợ nói sự thật, nhưng tôi lại thích nói sự thật.  Vì thế, mới có chiến tranh…
Phượng cười nhẹ rồi hỏi:
-Tôi có thể đồng ý với ông.  Nhưng ông cho tôi hỏi, ông biết tôi là hạng người gì mà dám … dám dê tôi?
Trung cười:
-Nói thế là Phượng không hiểu bọn lính tráng chúng tôi.  Đang cô đơn mà gặp được một người như cô thì ai lại không dám, dám mạnh đi chứ.  Nhưng vấn đề là có dê được hay không mới là chuyện đáng nói.  Phượng nghĩ tôi có thể … dê được Phượng không?
Phượng đỏ mặt, quay đi dấu một nụ cười.  Sao chen vào:
-Thôi, mày nham nhở vừa chứ, đừng làm mất mặt Không Quân.  Có mất dạy mười phương thì vẫn để dành một phương để còn đi hỏi vợ chứ.  Thôi, gọi thức ăn đi, để cho cô Phượng còn đi lo công v iệc.  Tiền không có bao nhiêu mà cứ hành hạ người ta mãi như thế…
-Không sao đâu các anh…
Nhưng Trung nói:
-Phượng cho tôi bắt đầu bằng một đĩa chả chìa và một chai bia lớn.  Đừng quên hành tỏi, mắm tôm.  Sau đó, tôi sẽ gọi thêm.
Sao tiếp:
-Còn tôi, tôi chỉ xin một tô hủ tiếu và một ly cà phê đen không đường.
Phượng có vẻ như tiếc nuối cuộc nói chuyện:
-Vâng, một đĩa chả chìa và một chai bia lớn, một tô hủ tiếu, cộng một ly cà phê đen không đường.
Rồi nàng nhìn cuốn truyện “Bố Già” để trên bàn, mắt sáng lên, hỏi Sao một cách thèm thuồng:
-Truyện này mới xuất bản, nghe nói hay lắm…
Sao trả lời:
-Ngọc Thứ Lang dịch truyện nào cũng hay cả.  Nhưng mà bắn giết nhiều quá, không hợp với tôi.
-Truyện về những gia đình mafia bên Mỹ mà.  Không ngờ xã hội Hoa Kỳ lại ghê gớm như thế…
-Cô thích đọc sách?
-Vâng ạ.  Em là đàn bà nhưng lại mê truyện kiếm hiệp, truyện đàn ông.  Suýt thi trợt mấy lần cũng vì mê truyện…
Sao cầm cuốn sách lên đưa cho Phượng:
-Thế thì cho cô mượn đấy, tôi đọc gần xong rồi, chỉ còn vài trang chót.
Phượng lắc đầu:
-Thưa, tôi đâu dám như thế.
-Không, tôi nói thật.  Tôi còn mấy cuốn ở nhà.  Cầm lấy mà đọc, tháng sau đi biệt phái ở đây nữa, tôi sẽ trở lại lấy sách.
Từ chối không được, Phượng liền cầm lấy sách, kẹp ngay vào nách, có vẻ thích lắm:
-Phượng xin cám ơn anh.  Giờ thì Phượng xin phép vào nhà bếp.  Sẽ nói đầu bếp làm một tô hủ tiếu thật ngon cho anh.
Phượng vừa quay đi thì Sao lại rút trong túi áo bay ở dưới chân ra một cuốn sách khác để lên bàn.  Trung nhận ra cuốn “Dọc Đường Số Một” của nhà văn quân đội nổi tiếng Phan Nhật Nam.
Trung nói:
-Tao đọc cuốn này rồi.  Hay lắm.  Mày chưa đọc?
-Đọc từ lâu rồi, đem theo sơ cua để đọc lại.  Cuốn “Dấu Binh Lửa” cũng hay lắm.  Đúng tâm trạng của một người lính.  Như mày, như tao.
-Tao đọc ông Phan Nhật Nam này ngày tao chưa đi lính.  Văn chương của dân võ bị đi lính nhảy dù có khác.  Cha này làm tao mê đời lính.  Hồi đó, chưa bị VC bắn, chưa biết c… gì, chưa hề thấy quan tài nên không biết nhỏ lệ.  Đù mẹ phải bay đánh giặc, phải nghe đạn phòng không chúng nó bắn vào mặt mình thì mới cảm nhận được những lời văn thống thiết như thế…
Sao châm lửa một điếu thuốc:
-Văn chương của những người dấn thân cho tổ quốc luôn luôn có một cái gì khác hơn văn chương thường…
-Nguyên Vũ viết cũng hay nhưng không đậm đà bằng Phan Nhật Nam.
Bỗng nhiên, có một Nam tử tóc dài từ bên trong xuất hiện, tay cũng cầm một cuốn sách.  Trung quay nhìn, một nụ cười xuất hiện liền trên khuôn mặt chàng phi công:
-Ê, Bảo đấy hả?
-Vâng thưa anh, Bảo đây.
Trung chỉ cái ghế trống:
-Ngồi xuống đây chơi.  Dám uống rượu không?
-Thưa anh, mới có 11 giờ sáng.
Trung nhăn mặt lại:
-Hỏng, như thế thì hỏng.
-Sao thế anh?
-Em nói em muốn làm phi công phải không?
-Thưa anh đúng thế.
-Phi công thì lúc nào cũng phải uống rượu được cả.  Sáng sớm chưa ăn uống gì thì uống bia.  Từ từ, uống rượu sau, rồi còn phải biết nhậu nữa.
Sao can thiệp liền:
-Cho tao xin.  Nó mới lớn chưa biết gì, sao mày dạy dỗ như thế?
Thằng nhóc không biết trả lời sao, kéo ghế ngồi xuống, gật đầu chào Sao.  Sao hỏi:
-Em đọc gì thế?
-Thưa anh, “Mắt Tím” của Lệ Hằng.
Lệ Hằng là một nhà văn đang lên thời đó, chuyên môn viết chuyện tình cảm… trái chiều của mấy ông cha cố bà sơ.  Thế mà đắc khách đáo để, chẳng ai hiểu vì sao.
-Cho anh xem tí nhá.
-Vâng thưa anh.
Sao lật xem trang bìa sau, có đoạn trích như sau: “Làm sao người ta có thể sống được nếu cuộc đời chỉ toàn là những bổn phận, những quy luật và những con số…”  Trích lời của linh mục nói với người tình.  Sao gật gù cái đầu, tư lự suy nghĩ.
Trung giật lấy cuốn sách, xem sơ qua, lắc đầu rồi trả lại:
-Mẹ, toàn những chuyện bố láo.  Sách mướn hả?
-Vâng, chờ cả tháng mới mướn được đấy anh.
-Có hay không?
-Rất là lãng mạng.  Cô học trò lại đi mê ông cha.
-Nhưng mà Cha có mê lại không?
-Dĩ nhiên, tình yêu hai chiều mà.
-Thế thì hai người có … làm tình với nhau không?
Bảo lắc đầu:
-Tác giả không nói, nên em không biết.
-Mẹ kiếp, yêu nhau mà không … chơi nhau thì yêu làm cái đếch gì.  Chỉ cần lột áo dòng ra, 15 phút là lên… thiên đàng ngay…
-Ai mà dám viết bạo như thế, kiểm duyệt đục bỏ ngay.
-Thế thì viết làm cái quái gì.
Sao chen vào:
-Dân bạt mạng như mày, biết gì về văn chương mà dám phê bình.  Cứ như mày nói thì coi báo Playboy hay xem xi nê sướng hơn…
Trung cười hì hì:
-Dĩ nhiên rồi, tao chỉ thích đọc Playboy.  Mày dắt đào hay đĩ về phòng, cả hai cùng trùm mền lại đọc Playboy chung rồi làm tình sướng lắm…
Sao quát lên:
-Mày cho tao can, đây là chỗ quán xá, thiên hạ nghe được thì kỳ lắm, người ta sẽ bảo Không Quân mình là phường dâm tặc thô bỉ.
-Kỳ… cái con mẹ.  Tao lại thích dâm tặc và thô bỉ.  Mà hỏi thật mày, mày coi có thấy thằng Không Quân nào mà mặt mũi không dâm tặc không?  Thằng nào cũng râu ria xồm xoàng, nhìn thấy đàn bà con gái thì mắt sáng lên như mèo thấy mở.  Mẹ kiếp, sống mà không ăn-gioi, mai mốt chết rồi mới thấy tiếc.
Mọi người im bặt khi Phượng mang cà phê và bia ra.  Trung bảo:
-Em cho anh thêm một chai bia nữa.
Bảo nói ngay:
-Thưa, em chỉ xin một cốc nhỏ thôi ạ.
-Đừng lo, em uống không hết để đó cho anh…
Trung nói như thế và cũng mong vậy, bởi vì nếu thằng nhóc uống nhiều quá thì tiền đâu mà trả…
Trung khui bia, rót ra hai cái ly, rồi nâng ly, làm cạn sạch, xong lại khà ra một phát thật to:
-Đù mẹ đã quá.
Bảo cũng nâng ly, nhưng chỉ nhăn mặt làm một hớp nhỏ.  Sao bắt chuyện:
-Em đang còn đi học hả.
-Vâng, em học đệ nhất B Trung Học Tổng Hợp Pleiku.
Máu nhà giáo trong người Sao nổi lên:
-Coi chừng, chương trình đệ nhất nặng lắm đấy nhé.
-Vâng, anh nói đúng.  Chúng em học ngày học đêm mà vẫn không bắt kịp.
-Có tính vào đại học không?
-Không, thưa anh.  Em tính thi vào Võ Bị hoặc vào Không Quân.
Sao tư lự nhìn ra ngoài cửa như nhớ tiếc khung trời cũ của những sân trường, những lớp học, bảng đen, cục phấn.
Từ bên trong, bỗng vẳng lên tiếng nhạc của cái máy Akai.  Hình như, cả nước Việt Nam bây giờ, chắc có lẽ đã quen với tiếng súng tiếng đạn cho nên tai người nào cũng hơi bị điếc, tiếng nhạc mở ra còn to hơn cả tiếng gầm của đại pháo.  Tiếng nhạc lớn quá, đập vào tai mọi người, ai nấy đều giật mình.  Tệ hơn, cái giọng hát lại là của con mẹ Khánh Ly, quát gầm lên: “Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm…”
Trung nhăn mặt lại, nói vào trong:
-Cô Phượng, cô Trang ơi, đổi nhạc đi, và mở nhỏ lại…
Phượng hỏi lớn từ phía bên trong, mọi người đều nghe:
-Thế anh muốn nghe nhạc gì?
Trung cũng trả lời lớn tiếng:
-Nhạc gì cũng được, miễn là khỏi phải nghe thằng phản chiến Trịnh Công Sơn.  Lính và dân chết hàng ngàn người mỗi ngày tại bọn CS xâm lược mà nó cứ oang oang là “Nội Chiến”.   Tôi đang vui không muốn … chửi thề…
Tiếng nhạc tắt liền lập tức.  Nhiều tiếng ồn ào nổi lên ủng hộ những gì Trung vừa nói.  Nhưng Sao lại nói:
-Mày không muốn nghe thì để người khác nghe, làm gì mà phải la lối om xòm quá vậy?
-Nói như mày thì thế giới này làm gì có chiến tranh?  Mẹ kiếp, cái gì ông không thích thì ông chửi, thằng nào thích thì thì thích, không thích thì xin cút xéo.
-Con lạy ông.  Hèn gì mỗi lần mày đi nhậu thì thường có oánh lộn tùm lum.  Tao nói trước, nếu tí nữa thiên hạ xúm vào oánh mày, tao còn xúi cho chúng nó đánh mạnh thêm.
-Mẹ, thằng nào muốn chết thì cứ xông vào đây.  Còn cây 38 đây để làm gì.
-Thôi, thôi, cho tao xin.  Chúng mình tới đây để nhậu, không phải để kiếm chuyện.
-Tao đây chẳng muốn kiếm chuyện với ai cả, nhưng thằng nào muốn chuyện thì tao cho liền.
-Con lạy bố, mày câm đi có được không.  Đừng có làm phiền tao quá, tao bỏ về bây giờ đây.
Nghe như thế thì Trung đổi giọng ngay:
-Ok, Ok, con cũng lạy bố, bố đừng có phá đám…
Nhạc lại nổi lên.  Ngạc nhiên thay, lại là tiếng gầm rú của chiếc A1 Skyraider rồi tiếng dạo đàn mà ai cũng biết là bắt đầu cho bản “Truyết Trắng”.
Bản này chính tay Phượng thay băng, quay đến bản nhạc rồi mở lên để làm vui lòng hai ông phi công.  Từ ngoài nhìn vào, Trung nhận ra Phượng cũng đang nhìn mình.  Trung cười, đưa một ngón tay lên trời.  Phượng cũng cười đáp lễ.  Một lúc sau, nàng bước ra, tới gần bạn nhậu.
Trung nói ngay:
-Cám ơn cô Phượng đã cho chúng tôi nghe bản Tuyết trắng.
-Không có chi anh.  Phượng rất thích nghe bản này, nên mở cho các anh nghe luôn.  Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh thật là tuyệt…
Sao tiếp lời bạn, khoe:
-Bản này ông ta làm trên một chuyến bay từ Pleiku về Nha Trang trên một chiếc Cessna của phi đoàn tôi, 114.  Hôm ấy đường bay bị mây phủ mờ.  Bay trên một tiếng đồng hồ trên mây trắng, ông lấy giấy bút ra ghi ghi chép chép rồi đáp xuống phi trường, vào câu lạc bộ, hát cho anh em phi công nghe ngay…
Phượng tròn mắt:
-Phượng không ngờ, thật là tuyệt diệu, nếu anh không nói thì Phượng đâu biết…
Bỗng có một chiếc xe díp nhà binh dừng lại trước quán, đậu sát chiếc xe của Không Quân.  Bước xuống xe đầu tiên là một người lính, sau đó là hai ông quan của sư đoàn 23 bộ binh, mang lon đại úy đen thùi trên cổ áo và dây ba chạc cùng súng ống đầy người.  Các quan bộ binh cỡi “phụ tùng” quẳng lên xe, dặn dò gì đó với người lính rồi lửng thửng bước vào.
Mọi người trong quán nhìn ra.  Coi họ thấy oai hùng quá, đúng là dân bộ binh tác chiến, dầy dạn gió sương và lửa đạn.
Bỗng Trung quay sang Sao, reo nhỏ lên:
-Đù mẹ, khỏe rổi, tụi mình khỏi cần phải cầm đồng hồ…
Sao chưa kịp nói gì thì Trung tiếp:
-Cha đại úy trên xe mới bước xuống là bạn học tao, tên là An.  Cách đây 3 tháng, tao bay cho nó ở trận giải tỏa Chu Pao, đánh cho nó mấy phi tuần, tụi nó chiếm được Chu-Pao, hẹn gặp nhau dưới đất mà chưa bao giờ gặp.  Bây giờ tao phải đòi nợ.  Tụi bộ binh luôn luôn khá hơn bọn mình…
Bộ mặt trung uý Sao liền sáng lên.  Không sáng sao được khi không phải mất cái đồng hồ Omega quý giá không biết bao giờ mới lấy lại được.
Từ phía bên ngoài, đại úy An cũng nhận ra Trung.  Thế là sau màn bắt tay bắt chân vớ vẩn, bàn rượu bắt đầu thay đổi.  Thằng Bảo xin phép rút lui.  Rượu, bia và thịt chó từ từ cũng được sắp đầy bàn, âm thanh cũng từ từ ồn hơn, tiếng chửi thề cũng nhiều hơn, lớn hơn.  Chuyện này dễ hiểu.
Chừng tiếng đồng hồ sau thì ngoại trừ Sao, còn ai nấy, dù lính bộ binh hay lính Không Quân thì cũng như đang bay trên mây cả.  Chuyện xưa trường cũ nổ lên như pháo rang.  Đến một lúc, Trung hỏi:
-Mày lang thang đâu mà về đây?
-Tao nắm tiểu đoàn trưởng đã mấy tháng, giờ mới về đây điều chỉnh vài thủ tục giấy tờ.
Trung quát lên:
-Đù mẹ, cỡ như mày mà người ta cũng cho làm tiểu đoàn trưởng?  Quân đội chắc hết người rồi.
An cười nhẹ, nhún vai khề khà:
-Thì cũng như mày mà người ta cho lái tàu bay thôi.
Mọi người cùng cười…
Những người lính trên trời và dưới đất gặp nhau trong một đất nước ngập tràn binh lửa, ai cũng tưởng họ sẽ khui chuyện đánh đấm, chuyện bom rơi máu đổ mà họ đang sống từng ngày, từng giờ ra để bàn luận.  Nhưng không.  Chẳng ai đề cập đến những chuyện này.  Họ chỉ nói chuyện ngày xưa còn đi học, chuyện những ngôi trường cũ và những kỹ niệm buồn vui tuổi học trò, như chuyện ông giáo sư này khó tính, con nhỏ kia kênh kiệu vân vân.  Tuyệt nhiên, không hề có chút chiến tranh, chút máu nào cả dù rằng áo quần của họ đã nhiều lần đẫm máu của cả quân thù lẫn máu anh em đồng đội.  Rồi câu chuyện đi dần sang văn chương, rồi đến Kinh Dịch và Tử Vi Tướng Số.  Hình như, họ muốn thoát ly ra khỏi cái thế giới chiến tranh đầy máu lửa mà họ đang bị bao vây.  Thoát được hay không, chỉ có trời biết.  Nhưng trong những giây phút anh em tương phùng quý báu này, họ thật sự chỉ muốn thoát ly, muốn đi xa, xa thật xa khỏi cái cõi trời âm u bập bùng lửa đạn này.  Nghĩ cũng tội nghiệp cho những con người Việt Nam trẻ tuổi này.
Khoảng vài tháng sau đó, một buổi sáng mà thời tiết rất âm u, Trung và Sao ra quay máy một chiếc L-19 ở biệt đội Pleiku.  Hai người đã dậy từ lúc 6 giờ sáng để chuẩn bị cho phi vụ này vì ngay từ tối qua, tin tức dồn dập đưa về là 2 tiểu đoàn của trung đoàn 45 bộ binh vừa bị đụng nặng lắm ở phía Bắc Kontum.  Nhưng thời tiết xấu quá, mãi đến 9 giờ họ mới ôm được nón bay và dù ra phi cơ được.
Tuy bầu trời vẫn còn phủ nhiều mây, và cứ như bình thường thì Trung đã chẳng cất cánh.  Nhưng tình hình nặng lắm, nếu không có L-19 lên để hướng dẫn khu trục, quân ta sẽ bị ta-pi.  Vừa quay máy xong, lấy hết được tin tức chiến sự thì mây từ đâu không biết cứ ùn ùn kéo về, làm như muốn phủ kín phi trường Cù Hanh Pleiku.  Càng lúc, triễn vọng cất cánh càng ít đi.
Tàu bay vẫn còn nằm trong ụ, người cơ khí dưới đất đang nhìn Trung chờ dấu hiệu rút chèn bánh.  Nhưng Trung còn lưỡng lự, chưa thèm ra dấu.  Rồi chàng cắt ga chiếc tàu bay xuống 700 vòng phút, đạp mạnh thắng, ngửa mặt nhìn lên trời, lo lắng nói với Sao qua Intercom:
-Trời xấu quá, không biết có đục thủng nổi mấy đám mây Stratus này mà tới vùng hành quân không?  Mày nghĩ sao?
Khí tượng thế giới chia mây ra làm 9 loại, từ nhỏ nhất, bay cao nhất và đẹp nhất là Cirrus cho đến loại chết người nhất là Cumilonimbus, tất cả mọi phi công đều được dạy dỗ kỹ và phải thuộc lòng.  Không thuộc thì… dễ chết hơn, bởi trong những đám Cumilonimbus khủng khiếp, nhiều khi còn có cả điện mấy triệu Volt và có cả… nước đá.  Tàu bay và điện cao thế hay nước đá gặp nhau thì nhất định là không có tốt cho sức khỏe của nhân viên phi hành…
Sao đang bận rộn liên lạc với bộ binh nên trả lời vắn tắt:
-Tao không có thì giờ liên lạc với khí tượng, nhưng quân đoàn cho biết đã mất liên lạc với con cái.  Họ cần mình có mặt gấp.  Chỉ cần cho con cái nghe được tiếng tàu bay thôi cũng được… Mình phải lên gấp.
Trung nghiến răng lại, đưa hai tay lên làm dấu cho người cơ khí rút chèn bánh:
-Thế thì mình cất cánh…
Chàng đổi sang tần số đài kiểm soát Pleiku:
-Pleiku đây Mustang Alpha, xin ra phi đạo cất cánh một L-19 bạn…
- Mustang Alpha, đây đài kiểm soát Pleiku.  Thời tiết phi trường mây overcast 4000 bộ, cao đến 6000 bộ, broken ở 7000 bộ… Gió Đông Bắc 3 dặm, áp xuất phi trường 30.01…
Ông đài kiểm soát bô bô vài câu về mây về gió theo đúng thủ tục rồi kết luận:
-Bạn ra cất cánh phi đạo XX, gọi lại khi sẵn sàng.
Giống như Trung, nhiều chiếc phi cơ khác trong phi trường cũng bắt đầu nhộn nhịp quay máy chuẩn bị ào ra phi đạo…
Trung mớm nhẹ tay ga cho chiếc phi cơ nhẹ nhàng bò ra khỏi bãi đậu, đạp nhẹ thắng phải cho tàu bay từ từ  quay đầu.  Tiếng gọi của Sao từ phía sau vẫn tiếp tục nhưng chẳng hề nghe tiếng trả lời.  Chàng lắc đầu mấy cái.  Mẹ, chưa cất cánh mà đã biết ngay là đã có chuyện không ổn rồi.  Trung không dám nghĩ đến hai chữ mà chàng biết có thể đang xảy ra, “Tan hàng”.
Thử máy và cho rút chốt rocket xong, Trung xin phép cất cánh.
-Mustang Alpha, clear for take off.  Cẩn thận, phía bắc phi trường có 3 chiếc làm vòng bay thấp chuẩn bị đáp…
Tàu bay vừa hỏng mặt đất chưa được bao lâu, vào cánh cản xong thì Trung đã đâm vào mây.  Mới đầu thì từng cụm nhỏ nhưng càng lúc thì càng lớn dần.  Chàng cảm thấy tàu bay rung nhẹ lên từng khúc khi đụng mây.  Trung bung một tiếng chửi thề.  Mẹ kiếp, như thế là có chiến tranh rồi.  Chàng biết những nguy hiểm đang chờ đợi mình.  Pleiku là một vùng rửng núi hiểm độc, thời tiết vào những tháng này lại thay đổi bất thường.  Chuyện rớt phi cơ hay tai nạn là một chuyện xảy ra thường ngày.  Chàng có 2 lựa chọn.  Một là bay trên mây, nhưng như thế thì rất khó nhận ra mục tiêu để làm việc.  Hai là bay dưới mây nhưng lại sợ cái khác:  Phòng không địch. Và tệ hơn, có thể bị bít đường nếu gặp phải mây xuống quá, bị núi che phủ.
Trung có quyết định liền.  Chàng liền cắt ga, chúi mũi tàu bay xuống và quẹo gắt, nói với Sao:
-Phải bay dưới trần mây rồi.
-Trên dưới cũng được, để tao yên để tao còn liên lạc với bộ binh.
Trung đảo một vòng và nhìn thấy con quốc lộ dẫn đến Kontum, liền quẹo tàu tới.  Chàng giữ tàu bay chỉ gần dưới chân mây chừng vài trăm bộ, đi theo con quốc lộ.  Con quốc lộ này sẽ dẫn chàng tới KonTum, và từ đó, chàng sẽ kiếm đường tới vùng làm việc…
Bay chừng vài phút thì chàng nhận ra mây càng ngày càng thấp dần, tàu bay cứ xuống thấp mãi.  Chẳng bao lâu, bánh máy bay sẽ chạm mặt đường nhựa.  Khốn nạn thật.
Cứ như bình thường thì Trung đã quay tàu về đáp rồi, nhưng chuyến bay này không phải là một chuyến bay bình thường.  Quân đoàn đã dặn dò:  “Chỉ cần cho con cái nghe tiếng tàu bay thôi cũng được…”
Sao vẫn tiếp tục bận rộn vô tuyến, không nói năng gì.  Tàu bay tiếp tục xuống thấp và đến một lúc nào đó, khoảng vài chục dặm trước một ngọn núi, chàng phải tống hết ga, nghiêng trái kéo tàu lên, làm một cái Spiral.
Tàu lại vào mây, chẳng còn trời, chẳng còn đất, chung quanh chỉ trắng xóa một vùng.  Tiếng mây và gió đập vào thân tàu nghe rung rinh từng khúc.  Trung lật vội tấm bản đổ kẹp ở đùi mình, ráng ghi nhận điểm đứng, theo dõi từng độ cao của những hòn núi gần đó.  Mình đang còn an toàn…
Tàu lên đến 6 rồi 7 rồi 8 ngàn bộ, một độ cao an toàn để chàng có thể tới mục tiêu mà không sợ đụng núi.  Chung quanh vẫn còn mây trắng xóa nhưng Trung không muốn cho bay cao hơn.  Theo sự tính toán của Trung, khoảng 15 phút nữa chàng sẽ đến mục tiêu…
Trung mở tần số của ALO KonTum, gọi sĩ quan liên lạc điều không:
-Mustang Alpha 01 đây bạn, đang tiến tới vùng, thời tiết KonTum như thế nào bạn?
-Thời tiết xấu, tôi đã đuổi mấy phi tuần của Tây từ Hàng Không Mẫu Hạm về rôi.  Mây overcast trắng xóa bầu trời.
-Bạn chạy ra ngoài xem thử có cái lỗ nào không bạn?
-Negative…  Bạn có chun xuống cũng không làm ăn gì được.
-Tôi đang ở trên mây, bạn có nghe tiếng tôi không?
-Chờ chút coi…
Một lúc sau:
-Có nghe tiếng phi cơ, nhưng nhỏ lắm…
-Vậy là tốt rồi, tôi ráng tới mục tiêu nhưng chắc không làm gì được.  Cám ơn bạn.
Sao vẫn tiếp tục gọi cho quân bạn dưới đất.  Tần số này không được, chàng lại gọi về sư đoàn xin tần số khác.  Vẫn chẳng có tiếng trả lời…
Trung ráng giữ tàu theo hướng tới mục tiêu, nhưng lòng chàng chùng xuống.  Đã lăn lộn chiến trường nhiều năm, chàng biết những gì đã xảy ra dưới đất.  Theo những gì chàng nhận xét thì quân ta bị đánh tan hàng rồi.  Bọn CS biết lợi dụng thời tiết.  Hễ chúng nó tấn công là luôn luôn vào những ngày trời mây u ám, Không Quân không thể can thiệp được…
Cuối cùng thì Trung cũng chui ra khỏi mây ở trên 8000 bộ.  Ở trên Trung là trời xanh thăm thẳm, dưới chân là một trần mây bao phủ kín đến tận chân trời.
Sau hai tiếng đồng hồ trên trần mây, không thể nào xuống dưới, không nhìn thấy gì cả, Sao xin phép về đáp và quân đoàn đồng ý.  Suốt đường về, hai người ngồi im lặng, không ai nói với ai lời nào.  Đầu óc họ còn bàng hoàng đau đớn về chuyến bay vừa rồi.
Bỗng Trung nảy ra một ý kiến, bấm intercom:
-Mày gọi dưới đất hỏi tên tuổi mấy người chỉ huy vừa bị mất liên lạc được không?
-Tên tuổi họ có nhằm nhò gì tới mình, sao mày hỏi.
-Mày có nhớ cái tiệc rượu thịt chó ở “Nai Đồng Quê” cách đây mấy tháng không?
-Nhớ chứ, mày say quá, chở mày về mà cứ sợ mày lọt ra ngoài…
-Không hiểu tại sao, tao có cái cảm giác kỳ kỳ, không nói được, và bỗng thấy lo.  Tao đang vật lộn với cái bản đồ.  Mày gọi cho tao
Sao đổi tần số, làm việc một lúc.  Chập sau, Trung nghe được tiếng của Sao trong intercome:
-Tên của một ông tiểu đoàn trưởng mất tích là đại úy Trần Thanh An…  Có phải An bạn mầy không?
Trung tái mặt lại, nấc nhẹ lên một tiếng, trả lời, giọng run run:
-Đúng rồi, Trần Thanh An là bạn tao.  Mất tích à?
-Họ chỉ biết có bấy nhiêu.  Theo tao nghĩ thì bị tan hàng rồi.  Có thể mình còn biết rõ hơn vì mình gọi đâu có được đâu.
Phải khó khăn lắm Trung mới tìm hướng về lại được phi trường Pleiku.  Chàng tắt máy, leo xuống tàu bay, bước đi như người không hồn.  Mưa bắt đầu kéo tới.  Trung bước đi, chẳng cần che, chẳng cần né, mặt mày nhạt nhòa.  Mưa bên ngoài làm sao bằng bão trong lòng được.  Bao nhiêu kỹ niệm niệm xưa tràn về…
Rồi Trung nghĩ đến bố của An, một công chức bưu điện còm cõi, ngày ngày vẫn còn tiếp tục đi làm ở thành phố Ban Mê Thuột.  Không biết ông có biết con ông vừa bị mất tích hay không.  Giờ này, ông đang làm gì.  Chắc có lẽ đang ở trong sở hay đang ở nhà, lui cui với những chuyện thường ngày.  Chàng cũng chẳng biết An có vợ con gì chưa.  Từ ngày chia tay nhau đến bây giờ đã 6, 7 năm, vì chinh chiến, mỗi người một nơi, chẳng ai biết nhiều về ai.  Gặp nhau được vài tiếng đồng hồ thì chén thù chén tạc để cùng nhau say ngất ngưởng, chẳng ai có thì giờ đi hỏi... vợ con của ai.
Tự dưng, chàng bỗng thấy mình có tội.  Có tội vì đã còn sống được khi bạn mình bị mất tích trên chiến trường.
Trung nói với Sao:
-Đù mẹ, mình phải ra “Nai Đồng Quê”.  Tao muốn kể cho Phượng nghe chuyện này.  Mày có đi không thì nói, còn không thì tao đi một mình…
Sao giật mình khi nghe như thế.  Sau buổi nhậu hôm đó ở quán Nai Đồng Quê, không biết hai đứa có tơ tình gì với nhau không nhưng Sao để ý nó hay ra quán một mình, có khi đến sáng hôm sau mới về.  Nhưng chàng chẳng bao giờ hỏi.  Sao nhăn mặt lại:
-Đù mẹ làm gì mà lại ép nhau thế.  Tao đi nhưng với một điều kiện?
-Điều kiện gì?
-Mày không được gây gổ oánh lộn, bắn phá tùm lum.
Chuyện nhỏ, Trung gật gù cái đầu:
-Tao đồng ý, hứa danh dự với mày…
-Xin lỗi, nói mày đừng buồn, lời hứa danh dự của mày chẳng có nghĩa lý gì cả.  Chỉ có đàn bà con gái nhẹ dạ mới nghe lời mày, còn tao thì không thể nào tin lời mày được.  Mày phải cỡi dây súng, để ở nhà thì tao mới đi với mày, còn không thì mày cứ đi một mình như lời mày nói.  Tao sợ mày lắm rồi…
Trung không biết phải nói sao, đành vung miệng chửi:
-Đù mẹ bạn bè mà chơi như c., chỉ chuyên môn làm khó nhau…
-Chẳng khó khăn gì cả, nếu mày muốn tao đi với mày thì cỡi dây súng ra, đưa đây ngay...
Nửa tiếng đồng hồ sau, hai người dừng xe trước Nai Đồng Quê.  Trời mưa càng lúc càng nặng hạt, đánh rầm rầm xuống tấm bạt mui xe.  Hai ông phi công chờ một lúc rồi bước xuống.  Mưa rũ xuống người họ làm ướt đẫm hai chiếc áo bay, nhưng chẳng ai vội vã.  Họ tà tà bước vào quán.
Quán vắng tiêu điều trong một chiều mưa càng làm cho cảnh vật trở nên buồn bả thê lương.  Hai người vào tuốt phía trong, gần quầy tính tiền, ngồi xuống.  Sao ngạc nhiên khi nghe Phượng nói với Trung từ sau quầy hàng:
-Sao mặt mày anh hôm nay buồn thế anh…
Chỉ một câu hỏi đơn giản thôi nhưng Sao nghe qua thì cũng biết ngay là hai người đã thân thiết nhau lắm.  Chàng chỉ thắc mắc không hiểu tại sao một cô gái như Phượng lại thích một thằng du côn như là Trung.  Thằng này đi đâu cũng gây “tội ác.”
Trung không trả lời mà lại nói:
-Cho anh một xị rượu đế, bạn anh một ly cà phê đen…
-Anh không nhắm gì sao?
-Không, hôm nay buồn quá, chẳng muốn ăn uống gì cả, chỉ muốn ra đây gặp em tâm sự cho đỡ buồn.  Cho anh một con khô mực nhai cho vui cũng được…
Hết xị rượu thứ nhất thì Phượng đem đĩa khô mực ra.  Nàng kéo ghế ngồi xuống bên Trung, hỏi:
-Hôm nay anh có chuyện buồn?  Kể cho Phượng nghe được không?
Trung im lặng một lúc rồi mới hỏi:
-Em có nhớ ông đại úy bộ binh của sư đoàn 23 hôm mình gặp nhau không?
-NhớAnh ấy là bạn học của anh ngày xưa ở trung học.
Trung thở dài nảo ruột, giọng rả rời:
-Tiểu đoàn ổng nắm mới mất tích tối hôm qua.  Chẳng còn liên lạc được với ai.  Chẳng ai biết sống chết thế nào…
Phượng đưa tay nắm lấy tay Trung ở trên bàn, xiết chặt, không nói gì.  Sao nói nhẹ:
-Chỉ hy vọng là anh ấy không chết.  Có thể bị bắt làm tù binh nhưng rồi thế nào cũng được thả…  Vấn đề chỉ là thời gian thôi…
Bên ngoài, mưa tiếp tục đổ xuống.  Từ bên trong lời hát của bài “Hai Mùa Mưa” nhẹ nhàng và êm ả, réo rắc và thống thiết:
 
Vì thương quê hương anh lặng lẽ bước chân đi
Vì yêu non sông tôi gạt nước mắt phân ly
Từng cơn mưa vẫn rơi não nề
Anh nói một năm nữa anh về…
 
 
Trường Sơn Lê Xuân Nhị 
 

Tuesday, June 3, 2025

Tu Hú Đẻ Nhờ: Harvard đã trở thành 'Trường Đảng' của Đảng Cộng Sản Tàu

June 3, 2025
(Trích NewsMax)
Harvard có thể chỉ là giấc mơ viển vông đối với hầu hết những người Mỹ thông minh tìm kiếm học bổng, nhưng đối với "rất nhiều quan chức cộng sản Trung Quốc", nơi này được coi là "trường đảng" hàng đầu của họ. The Wall Street Journal đưa tin vào Chủ Nhật 1/6/2025.
Không chỉ có con gái của Tập Cận Bình từng là sinh viên tại Harvard, mà một Cựu Phó Chủ Tịch và nhà đàm phán hàng đầu của Tập Cận Bình trong nhiệm kỳ đầu tiên của TT Trump cũng từng học tại đây vì các nhà lãnh đạo Trung Quốc coi giáo dục tại Harvard là con đường dẫn đến các vị trí trong Đảng Cộng Sản Trung Quốc.
Và đó không phải là điều mới mẻ.
Vào năm 2014, tờ báo Shanghai Observer đã đăng một bài bình luận như sau: "Nếu chúng ta xếp hạng các 'trường đảng ở nước ngoài' của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, thì trường xứng đáng đứng đầu phải là Trường Chính Phủ Kennedy của Đại Học Harvard tại Hoa Kỳ"!
Tổng Thống Donald Trump đã tìm cách thay đổi mô hình với Trung Cộng trong nhiệm kỳ đầu tiên của ông chỉ vài tháng trước khi đại dịch COVID-19 bùng nổ trên toàn thế giới.
Hiện tại, TT Trump và Ngoại Trưởng Marco Rubio đang tìm cách hạn chế việc đưa đối thủ kinh tế, nếu không nói là đối thủ quân sự, của Hoa Kỳ vào thị trường giáo dục hiện đại, theo dõi thị thực du học sinh nước ngoài và tạm dừng cấp thị thực mới hầu thiết lập các biện pháp kiểm tra tích cực đối với những sinh viên tràn vào Harvard để tìm cách chống lại lợi ích của Hoa Kỳ.
Ông Rubio đã công bố vào Thứ Tư 28/5/2024 rằng, Bộ Ngoại Giao đang nỗ lực thu hồi mạnh mẽ thị thực cho sinh viên Trung Cộng, bao gồm cả những người có liên hệ với Đảng Cộng Sản Tàu hoặc đang học trong các lãnh vực quan trọng.
Hành động này khiến phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Cộng Mao Ninh nói rằng sinh viên Trung Quốc có quyền như người Mỹ, cho dù họ chỉ là được cấp thị thực du học nước ngoài, và hành động của Rubio "làm tổn hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của sinh viên Trung Quốc".
Rubio nói rằng những người nước ngoài được thị thực đến Hoa Kỳ, chỉ có đặc ân, chứ không có quyền được ở tại Hoa Kỳ.
TT Trump hiện muốn cắt giảm một nửa số lượng du học sinh nước ngoài theo ước tính của Harvard xuống còn 15%, để bảo đảm rằng những người theo học từ các quốc gia đối thủ như Trung Quốc "là những người có thể yêu đất nước chúng ta".
"Tôi nghĩ Harvard phải chịu một cú đá vào mông", Giáo Sư Danh Dự ngành Luật của Harvard là Alan Dershowitz chia sẻ với "Saturday Agenda" của Newsmax rằng "Nó sẽ không tự làm được điều này. Hiệu Trưởng Harvard muốn làm điều đúng đắn, và ông ấy là một người rất tử tế. Nhưng có quá nhiều giảng viên cánh tả cấp tiến theo chủ nghĩa Marx bài Do Thái, bài Mỹ và bài Cơ Đốc Giáo, họ muốn Harvard trở thành loại học viện thức tỉnh, đào tạo ra những nhà lãnh đạo chính trị theo ý muốn của họ để thống trị đất nước."
Trong khi Harvard là trường học được Đảng Cộng Sản Tàu lựa chọn, thì "chuyến tàu" giáo dục này của Trung Cộng không phải là độc nhất. Nó cũng mở rộng đến trường cũ của Biden tại Đại Học Syracuse.
Syracuse đã cung cấp chương trình đào tạo quản lý cho các quan chức Trung Cộng, và kể từ đầu thập niên 2000, Trường Maxwell về Công Dân và Công Vụ của Đại Học Syracuse đã giúp thiết lập các chương trình huấn luyện tại các Trường Đại Học Trung Quốc.
Trọng tâm về Trung Quốc của Harvard bắt đầu vào thập niên 1980, nhưng đã tăng tốc dưới thời Tổng Thống Bill Clinton vào cuối thập niên 90, dẫn đến chương trình "Các nhà lãnh đạo phát triển của Trung Quốc" để "giúp chuẩn bị cho các quan chức chính quyền địa phương và trung ương Trung Quốc giải quyết hiệu quả hơn những thách thức đang diễn ra trong "Cải Cách Quốc Gia của Trung Quốc"!
(Hết trích NewsMax)
Kính thưa quý vị,
Nói về những thủ đoạn lợi dụng người khác, ăn cắp trí tuệ, bắt chước, nhái hàng, làm đồ giả ...., thiết tưởng trên thế giới không một ai có thể qua mặt người Tàu!
Một trong những thủ đoạn lợi dụng người khác, có một thủ đoạn rất thâm độc là "tu hú đẻ nhờ"!
Thế nào là "tu hú đẻ nhờ"?
Tra tự điển và gú-gồ trên net, sẽ đọc được rất nhiều bài viết về "tu hú đẻ nhờ" với nội dung đều giống nhau khi nói về đặc điểm của con chim tu hú.
(trích Wikipedia)
Đặc điểm của loài tu hú là loài đẻ nhờ, không bao giờ làm tổ mà chỉ tìm các tổ chim khác để đẻ. Chim tu hú là loài chim không ấp trứng và cũng không nuôi con, chúng đẻ trứng vào tổ chim khác chẳng hạn như một số loài chim chích đầm lầy thuộc chi Locustella. Ở Việt Nam tu hú thường đẻ vào tổ sáo sậu rồi cho sáo sậu ấp trứng nở và nuôi hộ con mình. Khi đẻ, tu hú chỉ đẻ một trứng duy nhất của nó trong tổ của nhiều loài chim khác nhau, kể cả tổ của các loài chim nhỏ. Thường con tu hú trống có nhiệm vụ bay vờn quanh tổ để thu hút sự chú ý của chim chủ nhà và cố tình dụ cho chim chủ nhà bay ra khỏi tổ đuổi, đánh lạc hướng cho tu hú mái vào đẻ một quả trứng của mình trong tổ[5].
Sau khi chim chủ của tổ chim đẻ trứng đầu tiên được một ngày rưỡi thì tu hú tìm cách đẻ trứng vào đó. Tu hú mái tìm một tổ chim chích đã đẻ trứng và ăn một quả trứng của loài chim này, sau đó đẻ vào đó một quả trứng khác. Quả trứng này có kính thước gần bằng của trứng chim chích với hoa văn rất giống khiến cặp chim chích không thể nhận ra. Chim mái bằng sự tinh quái của mình còn nhận biết và tính toán được cả thời gian mà trứng của chúng sẽ nở, con của tu hú sẽ nở trước hoặc ít nhất cũng bằng với các con chim chích[5]. Trứng tu hú thường nở trước 2, 3 ngày so với trứng của chim chủ nhà.
Để bảo đảm trứng của mình được chăm sóc, tu hú mái thường ăn trứng hoặc làm hư hại trứng của chim chủ rồi mới đẻ trứng của mình vào. Những đứa con của chúng sau này cũng sẽ làm hỏng trứng hoặc giết những đứa con trong tổ[4], sau thời gian ấp nhờ, mặc dù mới nở ra còn đỏ hỏn, nhưng tu hú con nhanh chóng dùng sức mạnh cơ bắp, đôi cánh và phần lưng để đẩy con chim chích non mới nở cùng những quả trứng còn lại văng ra khỏi tổ để độc chiếm nguồn thức ăn nuôi dưỡng bầy con của cặp chim chích bố mẹ. Nó lớn lên rất nhanh và suốt ngày kêu réo nguồn thức ăn từ đôi chim chích bố mẹ, tu hú non lớn nhanh như thổi, thậm chí thân hình còn to hơn cả bố mẹ nuôi. Đến khi đã đủ lông, đủ cánh, tu hú con sẽ bay đi, bỏ rơi kẻ nuôi dưỡng nó không một sự đền đáp[3].
(ngưng trích)
Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng ta đang chứng kiến các tổ chim danh giá của Hoa Kỳ như các Đại Học Harvard, MIT, Stanford, Columbia..... đã đón nhận rất nhiều trứng chim tu hú Trung Cộng.
Dĩ nhiên, không như những trứng chim tu hú, những cái trứng "tu hú người" đã được cha mẹ chúng là đảng CS Tàu đặt vào những tổ chim danh giá của Hoa Kỳ không bằng bạo lực mà bằng quyền lực mềm là những đồng tiền bảo trợ, khiến cho những cái tổ chim danh giá của Hoa Kỳ phải hồ hởi đón nhận những cái trứng tu hú người này một cách rất nhiệt tình!
Chỉ tính số sinh viên Trung Cộng theo học các Đại Học Hoa Kỳ trong năm 2023 là 289.426 (hai trăm tám mươi chín ngàn bốn trăm hai mươi sáu) đủ thấy cái kế hoạch đẻ nhờ của Trung Cộng. Đây là một con số không nhỏ, chưa tính những sinh viên Tàu Cộng của nhiều năm trước, tổng cộng lên đến hàng triệu người!
Những cái trứng tu hú này đã được chăm sóc và được huấn luyện rất kỹ lưỡng, mà mục đích những con tu hú này có thể trở thành những nhà lãnh đạo tương lai của Trung Cộng hay không thì chưa biết, nhưng mỗi một con tu hú này là một điệp viên thu tóm những điều mà xứ sở của chúng không có được.
Một điều nực cười là trong lễ tốt nghiệp của Đại Học Harvard mới đây, mọi người tươi cười vổ tay hoan hô những lời của cô sinh viên Giang (Tưởng) Ngọc Dung mà Đại Học Harvard đã chọn để phát biểu trong lễ tốt nghiệp năm 2025, thì biết ngay trình độ tuyên truyền của con tu hú này đã "siêu cấp" đến mức nào và sự ngây thơ của một số người trong giới "tinh hoa" của Hoa Kỳ đang ở đẳng cấp nào?
Con tu hú này là con của một đảng viên cộng sản Tàu, nó nói gì mà được hoan hô như vậy?
Bài phát biểu của con tu hú này có chủ đề là "Lòng Nhân (Nhân Loại) Của Chúng Ta". Cô ta nói rằng cô ta có trách nhiệm đạo đức khi chia sẻ thông điệp về nhân loại chung của chúng ta, hy vọng nhân loại sẽ cùng nhau phát triển, chúng ta từ chối thái độ coi thường những người không đồng tình với chúng ta, đứng quên những người mà chúng ta coi như kẻ thù, họ cũng là con người....
Tiếc rằng những lời này lẽ ra nên nói với những lãnh đạo tại xứ sở của cô ta đang đàn áp người Tây Tạng, Duy Ngô Nhĩ, Pháp Luân Công..., thay vì lên lớp với những nhân vật tinh hoa của Harvard đang ngồi ở dưới!!!!
Sự lựa chọn con cháu của một đảng viên Tàu Cộng phát biểu trong ngày lễ tốt nghiệp năm 2025 của Đại Học Harvard là một thách thức của ban giám đốc Harvard đối với chính phủ Trump, hiện đang yêu cầu Harvard minh bạch trong mối liên hệ giữa Harvard và nhà cầm quyền Trung Cộng.
Hiện nay, Hạ Viện Hoa Kỳ cũng đang điều tra về mối liên hệ này.
Theo DHL, cuộc điều tra do Ủy Ban Đặc Trách về Đảng Cộng Sản Trung Quốc (House Select Committee on the Chinese Communist Party) phối hợp cùng Ủy Ban Giáo Dục và Lao Động thực hiện.
Mục tiêu là làm rõ các mối quan hệ giữa Harvard với những trường đại học và tổ chức tại Trung Quốc có liên hệ với quân đội và hệ thống giám sát do Đảng Cộng Sản Trung Quốc điều hành. Đặc biệt, hai trường được nêu đích danh là Đại Học Thanh Hoa (Tsinghua) và Đại học Chiết Giang (Zhejiang) – những cơ sở được cho là có liên kết với Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc (PLA) – và các nghiên cứu thuộc những lãnh vực nhạy cảm như trí tuệ nhân tạo, khoa học lượng tử và vi điện tử.
Các nhà lập pháp cũng đang xem xét việc Harvard được cho là đã hợp tác với Quân Đoàn Sản Xuất và Xây Dựng Tân Cương (XPCC) – một tổ chức bán quân sự của Trung Quốc đã bị Hoa Kỳ trừng phạt vì các vi phạm nhân quyền nghiêm trọng, đặc biệt là đối với người Duy Ngô Nhĩ. Dù đã có các lệnh trừng phạt, Harvard bị cáo buộc vẫn tiếp nhận thành viên của XPCC trong các chương trình trao đổi học thuật.
Cuộc điều tra là một phần trong nỗ lực rộng lớn hơn của Quốc hội nhằm rà soát và điều chỉnh vai trò của các cá nhân và tổ chức Trung Quốc trong các chương trình nghiên cứu tại Mỹ – đặc biệt trong các ngành khoa học và công nghệ. Những yêu cầu minh bạch tương tự cũng đã được gửi đến nhiều trường đại học khác, bao gồm Stanford và Đại học Nam California (USC).
Đáp lại, Harvard đã lên tiếng bảo vệ các mối quan hệ học thuật toàn cầu của mình, nhấn mạnh rằng nhà trường tuân thủ đầy đủ các quy định của liên bang và cam kết duy trì tính minh bạch trong nghiên cứu. Tuy nhiên, Harvard đang phải đối mặt với áp lực ngày càng lớn về mặt chính trị lẫn tài chính – bao gồm cả nguy cơ bị cắt giảm nguồn tài trợ từ chính phủ liên bang.
Ngày 2 tháng 6 năm 2025 là thời hạn cuối cùng để Trường Đại Học Harvard nộp các tài liệu và thông tin Hạ viện Hoa Kỳ yêu cầu cho cuộc điều tra gồm:
- Tất cả các tài liệu và liên lạc giữa Harvard và các tổ chức Trung Quốc có liên hệ với quân đội hoặc bị chính phủ Hoa Kỳ trừng phạt.
- Thông tin chi tiết về các chương trình hợp tác nghiên cứu, đặc biệt là trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, khoa học lượng tử và vi điện tử.
- Các cơ chế kiểm soát nội bộ của Harvard đối với việc chia sẻ dữ liệu, tài liệu và công nghệ trong hợp tác quốc tế – nhằm đảm bảo không vi phạm các quy định của Hoa Kỳ về kiểm soát chuyển giao công nghệ.
- Lời khai từ các quan chức của Harvard, bao gồm cả Giáo sư Winnie Yip, về các mối quan hệ hợp tác với các tổ chức Trung Quốc và Iran.
Kết quả của cuộc điều tra này có thể sẽ tạo ra tiền lệ mới về cách các trường đại học Hoa Kỳ hợp tác với chính phủ nước ngoài, đồng thời thúc đẩy việc siết chặt kiểm soát và thiết lập các quy trình tuân thủ nghiêm ngặt hơn trong tương lai.
( ngưng trích DHL)
Tạm kết:
Chỉ có TT Trump mới dám khui ra những trường Đại Học danh giá của Hoa Kỳ đã trở thành những cái tổ đón nhận hàng triệu cái trứng hu hú Trung Cộng, đã ôm ấp những con tu hú gián điệp kỹ thuật, công nghệ liên quan đến an ninh quốc gia, một mối nguy cho Hoa Kỳ hiện nay cũng như trong tương lai.
Hy vọng chính phủ TT Trump sẽ giải quyết vấn đề khó khăn này, để những Đại Học danh giá lâu đời của Hoa Kỳ trở lại giá trị nguyên thủy của họ.
Nguyễn Thị Bé Bảy

Thursday, May 29, 2025

VŨ VĂN MẪU: KẺ KHÔN QUÁ HOÁ NGU

Khi Mỹ âm mưu lật đổ TT Ngô Đình Diệm và nền Đệ Nhất Cộng Hòa bằng việc mua chuộc một số tướng lãnh đóng vai trò chủ chốt thì mặt khác, Mỹ cũng liên hệ và mua chuộc những nhân vật dân sự bằng những hứa hẹn quyền lợi và chức tước. Những nhận vật đó gồm: Ông bà Đại sứ Trần Văn Chương ở Hoa Kỳ, Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ Trưởng Phủ Tống Thống Nguyễn Đình Thuần, Chánh Văn Phòng Phủ Tổng Thống Võ Văn Hải và đặc biệt là Bộ Trưởng Ngoại Giao Vũ Văn Mẫu... Người viết muốn nhấn mạnh đến nhân vật Vũ Văn Mẫu ở đây.

Giáo sư Vũ Văn Mẫu có bằng Thạc sĩ Tư Pháp, được chính phủ Ngô Đình Diệm cho làm Khoa Trưởng Trường Đại Học Luật Khoa Sài Gòn, sau cất nhắc lên làm Bộ Trưởng Ngoại Giao từ 1955 đến 1963. Trên cương vị Bộ Trưởng Ngoại Giao, nhờ nội bộ ổn định và nhất là bằng vào uy tín của chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa và cá nhân TT Ngô Đình Diệm, Giáo sư Vũ Văn Mẫu nghiễm nhiên trở thành một trong những khuôn mặt sáng giá của chế độ. Trong thời gian làm Bộ Trưởng Ngoại Giao, Giáo sư Vũ Văn Mẫu vẫn được tiếp tục giảng dạy tại Đại Học Luật Khoa các lớp ban Cử Nhân và ban Cao Học.

Đặc biệt, các sách giáo khoa (Cours) do Giáo sư biên soạn như Dân Luật Khái Luận, Dân Luật Lược Khảo, vân vân đã được các sinh viên đón mua cách nồng nhiệt, và đó cũng là món huê lợi không phải là nhỏ. Chức vụ, quyền hành và lợi lộc tưởng chưa mấy nhân vật nào được ưu đãi hơn.

Theo Giáo sư Vũ Quốc Thúc, TT Ngô Đình Diệm tỏ ra rất nể trọng GS Vũ Văn Mẫu và GS Vũ Quốc Thúc. Cả hai ông đều được TT Ngô Đình Diệm trân trọng kêu bằng “Ngài”. Vậy mà sau khi được Mỹ móc nối và hứa hẹn, GS. Vũ Văn Mẫu đã trở mặt, quay đúng 180 độ ngay sau biến cố Phật Giáo cũng do CIA Mỹ đạo diễn, cạo đầu, xin từ chức và xin đi hành hương Ấn Độ. Việc làm của GS Vũ Văn Mẫu dĩ nhiên như đổ thêm dầu vào lửa sau vụ “bị thiêu sống” của TT Thích Quảng Đức làm cho tình hình bang giao Việt - Mỹ đang căng thẳng, trở nên gay cấn hơn, tạo thêm lý do để Mỹ xúi giục bọn tướng lãnh phản bội chuẩn bị ra tay. Tưởng rằng sau đảo chánh 1-11 thành công, GS. Vũ Văn Mẫu sẽ nắm vai trò quan trọng như chức vụ Thủ Tướng, nào ngờ được bố thí cho chức Đại Sứ tại Anh Quốc. Nhưng chưa đầy 4 tháng thì cuộc Chỉnh Lý của Nguyễn Khánh xầy ra khiến Giáo sư mất luôn chức Đại sứ để trở về Trương Luật dạy học kiếm ăn.

Sau một thời gian thậm thụt đi theo phe Phật Giáo Ấn Quang không ăn cái giải vì đám sư này quyết liệt tẩy chay mọi hoạt động của Chính quyền VNCH thì sự nghiệp chính trị của GS Vũ Văn Mẫu kể như kết thúc.

Nhưng đột nhiên, đám sư sãi Phật Giáo Ấn Quang nghĩ lại nếu cứ tiếp tục tẩy chay chính quyền thì tự cô lập mình và phe Phật Giáo Việt Nam Quốc Tự của TT Thích Tâm Châu được chính quyền công nhận sẽ thắng thế. Phật Giáo Ân Quang liền tung ra Liên Danh Hoa Sen ứng cử vào Thượng Nghị Viên 1973 do GS. Vũ Văn Mẫu đứng Thụ Uỷ cùng một số nhân vật như Bác sĩ Nguyễn Duy Tài, Tôn Thất Niệm, Tôn Ắi Liêng, Trần Quang Thuận, vân vân đồng thời ủng hộ Dương Văn Minh ra tranh cử Tổng Thống.

Nhưng khi thắng cử vào Thượng Nghị Viện rồi, Liên danh Hoa Sen cũng vẫn chỉ là thiểu số không nắm được một chức vị nào cả. Đã vậy, Nghị sĩ Nguyễn Duy Tài trong Liên danh Hoa Sen lại trở cờ chạy theo phe thân chính quyền, được chức Chủ Tịch Ủy ban Ngoại Giao Thượng Viện. Suối gần 2 năm trời ở Thượng Viện, Liên danh Hoa sen và NS Vũ Văn Mẫu chẳng làm nên trò trống gì.

Qua năm 1975, tình hình mỗi ngày thêm biến đổi, ông được phe Ấn Quang cử làm Chủ Tịch Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc mà Văn phòng đặt tại Khối Dân Tộc Xã Hội Hạ Nghị Viện. Nghị sĩ Vũ Văn Mẫu theo chỉ đạo của Ấn Quang đang nhắm đóng vai trò đại diện “Thành thành phần thứ ba” trong Chính Phủ ba thành phần.

Nhưng vì thiển cận không nhìn xa trông rộng, không thấy được nước cờ Hoa Kỳ và đối phương đang đi nên cuối cùng trở thành công cụ hốt rác cho Mỹ. Ngày 28-04-1975, vừa mới nhậm chức, thì cùng với Dương Văn Minh, ông nhân danh là Thủ Tướng Chính Phủ tuyên bố: “Yêu cầu Mỹ rút khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ” không phải để có “Chính Phủ Hòa Hợp Hòa Giải” mà là đầu hàng cách nhục nhã Cộng Sản ngày 30-04-1975.

Nhiều nhân vật cho biết, vào những giờ phút cuối, khi Dương Văn Minh bị áp lực của Việt Cộng sắp sửa tuyên bố đầu hàng, “Thủ Tướng một ngày” Vũ Văn Mẫu đã tỏ ra hoảng sợ cũng muốn tìm đường chạy trốn nhưng quá muộn, đành phải cúi đầu theo Dương Văn Minh vào Dinh Độc Lập đón tiếp bọn ăn cướp!

Bị kẹt lại Việt Nam, Vũ Văn Mẫu cũng như Dương Văn Minh, nhờ “công lao hãn mã đầu hàng vô điều kiện” nên Cộng Sản tha cho khỏi phải đi “học tập cải tạo” trong các trại tù như bao Quân Dân Cán Chính VNCH khác, mà chỉ bị học tập tại chỗ. Mấy năm sau, khi tìmh hình ổn định, Việt Cộng cho ông qua Pháp định cư.

Năm 1988, ông viết Hồi Ký “Sáu Tháng Pháp Nạn của Minh Không Vũ Văn Mẫu” để kể tội chế độ Ngô Đình Diệm, một chế độ đã đối xử rất tử tế với ông: cử làm Bộ Trưởng Ngoại Giao suốt từ 1955 dến 1963, một Bộ Trưởng ở lâu nhất trong chức vụ.

Đọc bài giới thiệu Hồi Ký “Sáu Tháng Pháp Nạn” của GS. Vũ Văn Mẫu do Giao Điểm xuất bản năm 2003 trên Internet, người ta thấy ông chê bôi, chỉ trích chế độ Ngô Đình Diệm và các nhân vật trong gia đình Tổng Thống Diệm một cách gay gắt không tiếc lời. Chưa hết, ông tấn công Dụ Số 10 do Bảo Đại đưa ra nhưng lại đổ tội cho TT Ngô Đình Diệm là “thủ phạm vì nó mà gây nên Pháp nạn.

Người viết tự hỏi: Giáo Sư Vũ Văn Mẫu, một nhân vật chính trị lớn, một nhà ngoại giao có tầm vóc, một Luật gia nổi tiếng, một Kẻ Sĩ thời đại tại sao lại có hành động như vậy?

Đáng lý ra với tư cách là một Luật gia nổi tiếng, một nhân vật lớn của chế độ (Bộ Trưởng Ngoại giao), một tín đồ Phật Giáo thuận thành với “Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi”, một kẻ sĩ thời đại “Phú quý bất năng dâm, Bần tiện bất năng di, Uy vũ bất năng khuất”, đã được chế độ ưu đãi trân trọng, thì nếu có những gì sai trái xẩy ra, phải có bổn phận lên tiếng can ngăn, cảnh giác, trình bày điều hơn lẽ thiệt để sửa đổi và để cứu nguy chết độ, chớ sao lại bỏ ngang chơi trò “cạo đầu”, đổ thêm dầu vào lửa, đâm sau lưng Lãnh Tụ?

Là một nhân vật được Tổng Thống rất nể trọng, tại sao ông không có can đảm đặt thẳng vấn đề với Tổng Thống khi họp Hội Đồng Nội Các hay lúc gặp gỡ riêng liên hệ đến lãnh vực ngoại giao? Vậy mà ông ngậm tăm, không làm gì cả ! Có phải vì ông cũng là thứ người hèn nhát, chỉ biết gọi dạ bảo vâng?

Nếu quả tình GS Vũ Văn Mẫu xứng đáng với những danh xưng đó, thì những ai chịu suy nghĩ cũng khó mà tìm được lời giải đáp. Vì cho đến giờ phút này, vẫn chưa có ai chứng mình được rằng Dụ Số 10 đã gây thiệt hại những gì cho Phật Giáo, ngoại trừ luận điệu xuyên tạc chế độ Ngô Đình Diệm là “gia đình trị” và “kỳ thị tôn giáo”.

Nói cho cùng, Dụ số 10 chỉ là cái cớ để mấy nhà sư tranh đấu lợi dụng nhằm gây bất mãn cho mục tiêu lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Còn trên thực tế, vì nhu cầu tổ chức của chính phủ Quốc Gia Việt Nam, vua Bảo Đại ban hành Dụ số 10 để cơ quan hành chánh căn cứ vào đó mà làm việc với các tổ chức đoàn thể.

Trên nguyên tắc, Phật Giáo là một tổ chức thì cũng phải ghi tên, đăng ký như các đoàn thể tổ chức khác. Nhưng cũng trên thực tế là Chính quyền của TT Ngô Đình Diệm không hề áp dụng Dụ số 10 với Phật Giáo. Chẳng những thế, chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa còn tỏ ra trân trọng giúp đỡ tận tình Phật Giáo xây Chùa, cho sư tăng xuất ngoại du học, vân vân và có thể nói đó là thời Phật Giáo phát triển mạnh nhất.

Xin hỏi lại mấy ông sư tranh đấu: Ai cho tiền xây Chùa Xá Lợi? Ai cho đất để xây Chùa Vĩnh Nghiêm? Ai cho các vị sư nổi tiếng như Thích Quang Liên, Thích Thiên Ân, Thích Nhất Hạnh, vân vân du học ngoại quốc? Có phải là chính Phủ Ngô Đình Diệm hay ai khác? Hỏi tức là trả lời. Vậy mà chính phủ Ngô Đình Diệm chỉ vì Chủ quyền Quốc gia, chống đối lại việc Mỹ muốn đưa quân vào Việt Nam đã bị hàm oan và trở thành nạn nhân?

Luận điệu nói rằng chính phủ Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo cũng sai. Tầm cỡ như TT Ngô Đình Diệm hay ông Cô vấn Ngô Đình Nhu đâu có ngu xuẩn hay dại dột làm những điều tệ hại như thế. Còn đối với Giáo Hội Công Giáo thì vì chưa được Tòa Thánh Vatican coi là trưởng thành, nên vẫn còn nằm dưới sự quản trị của Hội Thừa Sai Paris tức là MEP (Mission Étrangère de Paris) chớ chẳng phải ưu đãi gì. Vậy mà mấy ông đã “vọng ngữ” tức là nói láo rằng Chính phủ Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo, thật không thể tưởng tượng được mồm ép của mấy ông “sư hổ mang”! Các ông đả kích Chính quyền Ngô Đình Diệm về Dụ số 10 để rồi lại gửi văn thư 13-01-1964 xin phép Bộ Nội Vụ của Chính quyền quân phiệt ban hành Nghị định cho phép thành lập Giáo Hội, công nhận Hiến Chương của mấy ông thì có khác gì “nhổ ra rồi lại nuốt vô”!

Bởi thế, càng hô hào thống nhất lại càng chia rẽ! Thống nhất rồi mới tự chia ra hai phe: Việt Nam Quốc Tự và Ấn Quang! Vì có Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất nên ngày nay mới có Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (quốc doanh). Gieo nhân nào thì gặt quả nấy. Đó cũng là luật nhân quả của nhà Phật!

Pháp nạn ở đâu mà ra? Pháp nạn nằm trong lòng mấy ông đó! Nhưng Dụ Số 10 thì vẫn còn giá trị pháp lý và nó vẫn chưa hề bị hủy bỏ, ít ra là cho đến ngày 30-04-1975 .

Trở lại trường hợp GS Vũ Văn Mẫu, quả thật làm Kẻ Sĩ không phải dễ. Có học vị cao, có chức tước lớn cũng chưa bảo đảm hành động tốt và có đạo lý làm người. Khi đã tối mắt vì quyền lợi và chức tước thì Đạo Lý cũng sẽ bị giục vô thùng rác, dù đó là thùng rác của lịch sử. Tất cả những hành động của GS Vũ Văn Mẩu kể từ khi cạo đầu đã lột trần bản chất con người ông. Càng về sau thì sự thật con người của ông càng lộ ra những cái mà người có lương tri, đạo lý phải lắc đầu: một tên hoạt đầu chính trị!

Nhân danh là một trí thức, một nhà ngoại giao lớn, một chính trị gia có hạng, một luật gia nổi tiếng, vậy mà ông Vũ Văn Mẫu đã nghe lời dụ dỗ của ngoại bang, cạo đầu chống đối chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa, một chế độ hợp hiến, hợp pháp, hợp đạo lý để làm tay sai cho Dương Văn Minh, một tên tướng tham, hèn, ngu dâng nốt Miền Nam cho Cộng Sản.

Người ta nói: “Làm đầy tớ cho thằng khôn hơn làm thầy thằng ngu.” GS Vũ Văn Mẫu, thay vì làm thầy thằng khôn, lại dại dột đi làm đầy tớ cho thằng ngu, không phải một lần (1963) mà tới hai lần (1975) cho tên tướng tham, hèn, ngu Dương Văn Minh nên thân bại danh liệt là cái chắc.

Thời thế biến chuyển. Lòng người thay đổi. Chỉ vị lợi lộc và thiếu suy nghĩ, những kẻ võ biền như bọn tướng lãnh đâm thuê chém muớn xuất hiện. Những trí thức nửa mùa hoạt đầu như Hoàng Cơ Thụy, Phan Quang Đán, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Xuân Oánh, và sau cùng như Vũ Văn Mẫu nổi lên a dua cũng không thiếu.

Người ta nói: “Khôn ba năm dại một giờ”. Bọn chính khách hoạt đầu điếm đàng này thì “khôn ba năm, dại một đời”. Cái dại chẳng những làm hại chính bản thân nó mà làm hại cả một dân tộc!

Mẫu đã tiếp tay cho Dương Văn Minh phá sập nền Đệ Nhất Cộng Hoà. Mẫu lại tiếp tay cho Dương Văn Minh phá sập luôn nền Đệ Nhị Cộng Hoà.

Điều đáng nói là Mẫu không có gì để bất mãn. Mẫu được trọng dụng, được ưu đãi, nhưng Mẫu vừa hèn nhát vừa có tham vọng, lại muốn vừa làm thủ tướng của Việt Nam Cộng Hoà, vừa làm bạn với giặc cộng.

Rốt cuộc, Mẫu được làm thủ tướng hai ngày, và được giặc cộng sai khiến một thời gian.
Trường hợp Giáo sư Vũ Văn Mẫu: kẻ khôn làm đầy tớ thằng ngu hai lần!

PHẠM QUANG TRÌNH

Friday, May 23, 2025

Người Nữ Tù Binh duy nhất tại Hỏa Lò Hà Nội trong chiến tranh Việt Nam

 

Nữ y tá Đức Monika Schwinn, 31 tuổi, sau gần 4 năm tù bị giam cầm đã mừng rỡ khi đặt chân trở lại quê hương hồi 07/03/1973

Từ 05/08/1964 đến 29/03/1973 trong thời chiến tranh Việt Nam, nhà tù Hỏa Lò tại Hà Nội là nơi giam giữ hàng trăm tù binh Mỹ, đặc biệt ít người biết trong số tù binh ở nhà tù Hỏa Lò có một nữ tù binh duy nhất. Nữ tù binh này không phải là người Mỹ, mà cũng chẳng phải là lính Mỹ. Nữ tù nhân này là một y tá người Đức (Tây Đức), tên là Monika Schwinn, sang Đà Nẵng làm việc thiện nguyện giúp nạn nhân chiến tranh. Sau gần 4 năm bị bắt giam, mặc dù không phải là người Mỹ và lính Mỹ, nhưng cô Monika Schwinn được thả ra khỏi nhà tù Hỏa Lò chung với những tù binh Mỹ ngay sau khi Hiệp định Paris 1973 được ký kết.

Năm 1967, một con tầu của hy vọng sơn mầu trắng, đến thả neo ở Ðà Nẵng. Ðó là con tầu y tế “Helgoland” của Tây Đức, còn được gọi là bệnh viện nổi, phục vụ cứu trợ nhân đạo cho các nạn nhân chiến tranh do Hồng Thập Tự của Tây Đức thực hiện. Cùng hoạt động trong thành phố ấy còn có các toán y tế thuộc tổ chức Malteser Hilfsdienst, một tổ chức từ thiện Thiên chúa giáo tại Tây Đức, gồm các bác sĩ, nữ y tá và các nhân viên khác. Đây là các chương trình cứu trợ nạn nhân chiến tranh của CHLB Ðức, họ đã chữa trị cho cả hàng trăm ngàn thường dân Việt Nam, không phân biệt người theo cộng sản hay quốc gia.

Trong khi con tàu y tế “Helgoland” của Hồng Thập Tự chỉ hoạt động ở Việt Nam trong một thời gian ngắn khoảng 1 năm, thì tổ chức Malteser Hilfsdienst thực hiện công việc thiện nguyện suốt gần 9 năm trời, từ 07/09/1966 đến 10/04/1975, với tổng cộng 303 nhân viên gồm bác sĩ, y tá và người săn sóc bệnh nhân v.v. phục vụ chăm sóc y tế cho người dân Việt Nam – đặc biệt là ở Đà Nẵng, An Hòa và Hội An.

“Ðến nhờ chúng tôi chữa trị có những người lớn tay chân bị đứt lìa, và cả những đứa bé bụng bị rách toang…” khi Walter Ruhland kể lại về thời gian phục vụ của mình ở Việt Nam như vậy thì trên ánh mắt anh vẫn còn đầy vẻ khiếp sợ về những hình ảnh ấy. Anh là thợ cơ khí xe tải, tham dự chương trình cứu trợ Malteser Hilfsdienst hơn 40 năm trước đây, lúc ấy bỗng nhiên thấy mình hiện diện trong một cuộc chiến rất “khốc liệt và tàn bạo“.

Đối với cô Monika Schwinn ở Lebach thuộc bang Saarland, giúp đỡ những người gặp khó khăn là điều tự nhiên. “Cô ta luôn luôn hết sức sẳn lòng giúp đỡ“, anh họ Adolf Spaniol nhớ lại. Ban đầu, người phụ nữ trẻ ở Lebach này học nghề thợ làm tóc. Nhưng nghề thực sự cô yêu thích lại là y tá chăm sóc trẻ em. Không có gì ngạc nhiên với gia đình cô rằng vào năm 1968, lúc 26 tuổi, cô đã đáp ứng theo lời kêu gọi của tổ chức thiện nguyện Malteser Hilfsdienstes: Cần các bác sĩ và y tá phục vụ cho các bệnh viện ở Nam Việt Nam để giúp đỡ dân chúng, nạn nhân của cuộc chiến kéo dài không hồi kết. Cô Monika Schwinn hạnh phúc khi cô làm việc tại khoa nhi ở bệnh viện Đà Nẵng.
Bác sĩ và y tá của tổ chức cứu trợ Đức Malteser Hilfsdienst đang khám bệnh một em bé Việt Nam
Năm nhân viên Malteser Hilfsdienst bị Việt Cộng bắt cóc

Nhưng một ngày nghỉ cuối tuần 27/04/1969 đã trở thành một ngày định mệnh đối với cô Monika Schwinn. Cô ấy cùng với nữ đồng nghiệp Marie-Louise Kerber từ Nohfelden-Türkismühle cũng thuộc tiểu  bang Saarland, anh Bernhard Diehl 21 tuổi và hai y tá khác: 
cô Hindrika Kortmann và anh Georg Bartsch, họ đi một chuyến dã ngoại tưởng như bình thường, nhưng sau đó họ rơi vào một cuộc phục kích bên một cánh đồng lúa, bỗng nhiên xuất hiện mười lăm tay súng Việt Cộng, lăm lăm chĩa mũi súng vào họ. Khi được đưa vào làng, cả năm người đều hết sức tìm cách “chứng minh” mình chỉ là nhân viên y tế, mà là người “Đức”, chứ không phải người Mỹ! Vô hiệu quả! Nhóm Việt Cộng luôn đe dọa “cắt đầu”. Vài giờ sau khi bị bắt cóc, có lúc Bernhard Diehl đã quay sang nói với các đồng nạn nhân của mình, trong đó có cô Marie Luise Kerben, mới 19 tuổi: “Nguy quá, chắc phải mất ít nhất một năm để chúng mình mới được can thiệp cho trở về nhà”.
“Đây thực sự là chiến tranh“, Bernhard Diehl ngạc nhiên nhận thấy, khi anh ta đến Việt Nam năm anh 21 tuổi. Trong thời gian đi nghĩa vụ quân sự, anh đã được đào tạo như một nhân viên y tế, giờ đây tại Việt Nam anh là người đứng đầu đội y tá Malteser ở An Hòa gần Đà Nẵng. Ban ngày vùng này được coi là an toàn. Nhưng ban đêm, đó là “khu vực tranh chấp“, một khu vực nơi quân du kích Việt Cộng đang cố gắng mở rộng ảnh hưởng. Anh Bernhard Diehl và đội y tá của anh ta chăm sóc các thương binh ở cả hai phía và dân chúng.

Năm nhân viên của tổ chức thiện nguyện Malteser Hilfsdienst đã bị Việt Cộng bắt giữ ngày 27/04/1969
Nguyên do tại sao 5 nhân viên cứu trợ y tế của Tây Đức bị Việt Cộng bắt cóc?
Trong chiến tranh Việt Nam, CHLB Đức không đáp ứng yêu cầu của đồng minh Mỹ đưa quân đội vào tham chiến tại Việt Nam, để bù lại CHLB Ðức hiện diện tại miền Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng hòa) với vai trò đóng góp nhiều về viện trợ kinh tế, giáo dục, cứu trợ y tế, cứu trợ nạn nhân chiến tranh v.v.
Vậy tại sao 5 nhân viên người Tây Đức làm nhiệm vụ cứu trợ y tế của tổ chức thiện nguyện Malteser Hilfsdienst lại bị Việt Cộng bắt cóc?
Lý do là vì Cộng hòa Dân chủ Đức đã sử dụng Chiến tranh Việt Nam cho một chiến dịch tuyên truyền chống Tây Đức. Đây là một chiến dịch tuyên truyền rất là thâm độc của Ðông Bá Linh! Các nhân viên tuyên truyền kích động của CHDC Ðức dựng lên hình ảnh một nước Tây Ðức gây chiến và Cộng hòa Liên bang Đức là chư hầu của Mỹ, những người Tây Đức tình nguyện mặc áo bác sĩ chỉ là ngụy trang, họ chính là những người trợ giúp quân sự cho Nam Việt Nam.
Đồng thời họ ngụy tạo tin quân đội CHLB Ðức gởi một đội quân bí mật sang Việt Nam dưới cái tên là “Legion Vietnam” (Binh đoàn lê dương Đức tại Việt Nam)! Báo “Neues Deutschland” (Nước Ðức Mới) của Đảng Cộng sản Đông Đức (SED) mô tả con tàu y tế “Helgoland” trong bức tranh biếm họa như một tàu chiến, với hình khắc trên boong mũi là một người lính.
Ngoài ra, ông Albert Norden, lãnh đạo tuyên truyền trong Bộ Chính trị đảng SED (SED là tên viết tắt của Ðảng Xã hội Thống nhất Ðức) ngụy tạo ra một số người làm “nhân chứng” về việc có chiến đấu võ trang trong các toán công tác cứu trợ của CHLB Ðức!
Sự dối trá ấy đưa đến một tác động ghê gớm ngay. Nhân viên cứu trợ bỗng nhiên bị đánh đồng, coi như là “tay sai của Ðế Quốc Mỹ”, và thế là mạng sống của họ bị rơi ngay vào hiểm nguy thường xuyên của cuộc chiến. Các nhân viên cứu trợ Tây Ðức bị đưa vào “sổ đen” của Việt Cộng.
Tiến sĩ Hermann von Richthofen, hiện cư ngụ tại Berlin, hồi đó được gửi đến Đại sứ quán CHLB Đức tại Sài Gòn với tư cách là một cố vấn trẻ trong ngoại giao đoàn, sau này cũng làm việc ở Đông Berlin, ông đã nói vắn tắt về mục tiêu tuyên truyền của CHDC Ðức như sau: “Tôi nghĩ rằng, Ðông Ðức chỉ muốn bằng mọi cách làm Tây Ðức chúng ta bị suy yếu, không chỉ trên bình diện quốc tế, mà cả trong nội bộ nước CHLB Ðức. Đó là việc gây ảnh hưởng tác động đến thế hệ 68, họ dễ bị mắc phải vào sự tuyên truyền của Đông Đức. Và bằng cách thức này có thể gây xáo trộn để một chính phủ khác lên cầm quyền“.
Trong số năm y tá Tây Đức bị bắt cóc, chỉ có 2 người còn sống sót trở về.
Sau khi 5 nhân viên của tổ chức thiện nguyện Malteser Hilfsdienst bị Việt Cộng bắt cóc, họ bị áp giải từ Nam ra Bắc, đi bộ dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh. Monika Schwinn và những người cùng khổ của cô phải đi hết khu rừng này đến khu rừng khác. “Đó là một phòng giam nhỏ, rộng khoảng một mét rưỡi và dài hai mét rưỡi. Cái giường là một vài tấm ván nằm trên sàn bê tông ở độ cao từ 20 đến 25 cm. Một nửa mét vuông là dành để cái xô vệ sinh“, Monika Schwinn viết trên tờ Der Spiegel (Tạp chí Tấm gương) sau khi được thả ra hồi năm 1973. Họ bị thẩm vấn, tra tấn, hầu như không được ăn gì. Bệnh tật và bị hạ nhục xảy ra thường xuyên. Ba trong số năm người đã không sống sót nỗi. Cô Marie-Louise Kerber chết lúc bị giam cầm hồi năm 1969, mãi đến năm 1997 mới có thể đưa hài cốt cô về tiểu bang Saarland chôn cất. Monika Schwinn cũng thường cận kề với cái chết hơn là sự sống. Nhưng cô đấu tranh kiên cường, không để bị sỉ nhục. “Cắn vào tôi là họ gãy răng“, cô viết.
Hai y tá Monika Schwinn và Bernhard Diehl sau khi được thả ra khỏi nhà tù Hỏa Lò ngày 05/03/1973 về đến CHLB Đức vào ngày 07/03/1973
Sau 1,346 ngày bị cầm giữ (gần 4 năm dài), trong thời gian cuối bị giam giữ trong nhà tù khét tiếng Hỏa Lò tại Hà Nội, Monika Schwinn và Bernhard Diehl cuối cùng đã được thả ra vào ngày 05/03/1973 sau khi Hiệp định Paris kết thúc cuộc Chiến tranh Việt Nam được ký kết. 
Ngày 07/03/1973 tại sân bay Tây Đức ở Frankfurt am Main, họ được nồng nhiệt chào đón bằng những biểu ngữ. Báo chí và truyền thông chen lấn chung quanh họ. Tạp chí Stern (Ngôi sao) đưa ngay lên trang bìa, làm thành đề tài chính của số báo. Trên tờ Der Spiegel (Tạp chí Tấm gương) Monika Schwinn viết hồi ký về những gian khổ của cô đã trải qua trong gần 4 năm bị giam cầm tại miền Bắc Việt Nam. Thậm chí cô cùng với Bernhard Diehl còn viết một cuốn sách ấn tượng: “Một chút ít tình người“. Tại tiểu bang Saarland, quê hương của cô, cô được Thống đốc Franz-Josef Röder (thuộc đảng CDU) chào đón và được thành phố Lebach vinh danh thành công dân danh dự.
Đến một lúc nào đó những vinh quang lắng dịu, và Monika Schwinn đi làm y tá trở lại tại Lebach, chăm sóc trẻ sơ sinh. Cô cũng giúp những thuyền nhân tị nạn Việt Nam khi họ đến Lebach. Như một điều tất nhiên. “Cô ấy luôn tạo ấn tượng vui vẻ với tôi“, anh họ Adolf Spaniol của cô nói. Nhưng bị giam cầm một thời gian dài trong một điều kiện cực kỳ khắc nghiệt như vậy, cô không thể hồi phục hoàn toàn giống như trước đây được. Cô không lập gia đình và đã nghỉ hưu ở tuổi 55. “Cô ấy thường xuyên bị ốm“, anh họ của cô nói, „ có lẽ điều mà cũng làm cô ấy đau là người ta không còn nhớ đến cô nữa“. Người ta đã quên cái giá mà cô ấy đã trả cho sự sẳn lòng giúp đỡ của cô ta.
Hôm thứ Hai 11/03/2019 Monika Schwinn đã qua đời, thọ 76 tuổi, trong bệnh viện ở Lebach, nơi cô làm việc y tá ở khoa nhi trong một thời gian nhiều năm dài.
Vào thứ Năm ngày 21/03/2019, lúc 1 giờ chiều, buổi tang lễ cầu nguyện cho Monika Schwinn đã diễn ra tại nhà thờ giáo xứ ở Lebach.