Sống Trên Dĩ Vãng Là Tự Hoang Phế - Sống Không Dĩ Vãng Là Tự Bần Cùng
Friday, February 13, 2009
BA CHỤC NĂM SAU (2/1979 - 2/2009)
CỘNG SẢN VN VẪN TIẾP TỤC BÁN NƯỚC CHO TÀU ÐỎ
Vài giờ, sau khi chiếc trực thăng cuối cùng chở toán quân của Thiếu tá Thủy Quân Lục Chiến Mỹ Jim Kean, rời nóc bằng của Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ tại Miền Nam VN, để bay ra biển Ðông, lên chiến hạm về nước, trong danh dự. Cũng là lúc bộ đội Bắc Việt vào Sài Gòn bỏ ngỏ, qua lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh. Cái bi hài của vở kịch ‘ nước mắt trước cơn mưa ‘ là lúc mà chính phủ hai ngày của VNCH đang hồ hởi hòa hợp hòa giải, để chờ đàn chim bồ câu trắng hòa bình từ cõi trên hiện ra, thì cũng là giờ G ngày N của Hà Nội đã điểm.
Ðây cũng là thời khắc mà tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Q.Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH thay Cao Văn Viên và Vĩnh Lộc đã bỏ chạy, khi nhân danh TT Minh, ra lệnh cho các Ðơn Vị Miền Nam đang phòng thủ quanh Sài Gòn (nhất là SD18BB của Tướng Lê Minh Ðảo và Lực Lượng III Xung Kích của Tướng Trần Quang Khôi), phải cố giữ vững vị trí chiến đấu chờ sáng, để nhận được phép lạ từ trên trời rớt xuống. Lúc đó, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya đêm 29 rạng sáng ngày 30-4-1975.
Ðây là giờ qui định của Bộ Tư Lệnh Miền do Lê Ðức Thọ, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng, Trần văn Trà chỉ huy.. ban lệnh cho B3 hợp đồng với tất cả các lộ quân từ năm hướng, đồng loạt tấn công vào thủ đô. Ðó cũng là thời gian lộ mặt của các đội Biệt Ðộng, Ðặc công.. từ các nơi nằm vùng, nổi dậy bắt liên lạc với các cánh quân bên ngoài. Ðó là giờ qui định cho tất cả cán bộ đảng, cán bộ chính trị nằm trong hàng ngũ VNCH, lột mặt nạ cầm đầu sư đoàn 304 quàng khăn đỏ, đang có mặt khắp thôn làng hẻm phố, sẵn sàng tiếp thu chiến lợi phẩm và còng bắt tù binh, nếu cần hạ sát tại chổ..
Cũng từ đó lịch sử dân tộc được lật sang trang, chấm dứt một cuộc chiến dơ bẩn nhất tại VN, do cọng sản dàn dựng từ đầu đến cuối, với mục đích tạo cảnh chiến tranh để đổi đời, nắm quyền, do một thiểu số cùng đinh cực ác trong xã hội xướng xuất. Cho nên thành phố Sài Gòn, một địa danh được các vị chúa Nguyễn và người dân Ðại Việt tạo dựng bằng mồ hôi máu mắt, từ ba trăm năm trước, cũng bị mất tên và được gán vào danh xưng Hồ Chí Minh ( đại phản tặc của dân tộc, mà đời đời kiếp kiếp, miên viễn bị bia miệng nguyễn rũa.), như những thành phố tại Nga Sô Viết, trong thời kỳ cách mạng tháng mười năm 1917. Cũng nhờ cách mạng, giải phóng nên từ đó tới nay, đồng bào cả nước, trước sau rủ nhau xuống hố xã hội chủ nghĩa, để tìm thiên đàng Mác-Lê-Mao-Hồ, trong vũng bùn duy vật biện chứng pháp, mà gần hết nhân loại đã ném vào cát bụi, từ những năm đầu thập niên, cuối thế kỷ XX khi Liên Xô, Ðông Ðức, Ðông Âu tan hàng, trước chủ nghĩa tự do, dân chủ, mà không cần phải đốt rụi Trường Sơn, giết hại hằng triệu triệu người Việt của hai miền và nhục nhã tội lỗi nhất là đem đất biên giới, hải đảo, biển Ðông và mới nhất là đất đai Nam Cao Nguyên Trung Phần để nhừng bán cho kẻ thù truyền kiếp giặc Tàu, suốt 4000 năm lâp quốc của dân tộc Việt.
Một trăm hai mươi lăm nhà báo da trắng, da màu đủ loại nhưng tuyệt đối đều sùng bái VC như thần thánh trong suốt cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai (1960-1975), sau ngày bị chính quyền mới trục xuất , đều viết : ‘Quang cảnh Sài Gòn ngày hôm đó cũng vẫn như mọi ngày. Nếu có khác biệt, đó là sự hiện diện của những bộ đội miền bắc, với quân phục may bằng vải kaki nội hóa màu xanh lá cây, đầu đội cối có gắn sao, chân mang dép râu làm bằng vỏ xe phế thải. Tất cả ngơ ngơ ngáo ngáo như người cõi trên, trước cái cảnh trang đài sang giàu lầu cao phố đẹp của Sài Gòn, hòn ngọc Viễn Ðông, không giống với luận điệu tuyên truyền của đảng .. là dân nguỵ bị Mỹ-Thiệu kềm kệp, nên nghèo mạt rệp, rách đói đến nỗi, ngay cả trí thức nhà báo khoa bảng, cũng phải đi ăn mày.. ’ ’ ’ Tóm lại Sài Gòn ngày đó như mọi ngày, chẳng thấy ai tiếp đón ai, cũng không có cảnh biểu tình đồng khởi hoan hô mà đảng hằng mong đợi. Người Sài Gòn đã dửng dưng trước thời cuộc, như chưa hề biết là đã đổi đời.
Củng hôm đó, trên đại lộ Thống Nhất dẫn vào Trung tâm quyền lực nhất của Nam VN. Ðó là Dinh Ðộc Lập mà mới vài giờ trước đây, chính khứa quan quyền đủ loại ra vào tấp nập để xin quan mua chức. Nay quang cảnh vắng hoe, kể cả người lính gác cổng cũng cao bay xa chạy, đang được bộ đội Bắc Việt, tùng thiết trên mấy chiếc T54 của Liên Xô viện trợ, tới tiếp thu một căn cứ quân sự bỏ ngỏ, không phòng thủ.
Một vài chục tên Việt gian thời cơ, trở cờ, cánh tay mang băng đỏ, tay khác cầm cờ máu, lá cờ mà mấy chục năm nay cứ khoe là của nước Việt, mặt thật là sao chép y chang cờ máu của đảng Tàu Cộng, ngược xuôi xuôi ngược hò hét lập công. Nhưng mùa xuân có trăm hoa đua nở, có vạn vật hài hoà.. cho nên với một lá cờ máu tạo dựng bằng núi xuơng sông máu đồng bào, bán nước bán đất, tiêu diệt tín ngưỡng cùng văn hiến dân tộc, đang do một đám sâu bọ đội lớp người trí thức dân chủ, cổ võ bung xung, thì làm sao dựng nổi một mùa xuạn ? Văn Tiến Dũng, Bùi Tín quen tuyên truyền nên đã loạn ngôn cuồng bợ, viết sai các dữ kiện lịch sử trong ngày ‘ Sài Gòn bỏ ngỏ tháng 4-1975, từ lúc Dương Văn Minh phát tiếng trong đài, ra lệnh QLVNCH, phải buông súng đầu hàng quân Bắc Việt ‘, qua các tác phẩm mang tên ‘ Mùa Xuân Ðại Thắng, Ánh Sáng của lịch sử .. ’ ’ ’
Hôm đó phường phố Sài Gòn thật sự vắng hoe, cũng không có cảnh xuống đường với biển người rừng cờ như Hà Nội và đám Việt Gian Miền Nam mong đợi, để nhờ bọn ký giả phương tây thân cộng lúc đó, quay phim chụp ảnh, tuyên truyền với thế giới bên ngoài rằng là cách mạng giải phóng đã thành công.. Chỉ có một vài kẻ đa sự, tình cờ hay bị bắt buộc, bặm môi dừng lại bên đường, để trố mắt nhìn bộ đội miền bắc và tăng pháo do Nga-Tàu viện trợ, mà mới hôm qua đọc trên các báo chí đối lập Sài Gòn, nói là quân Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, do anh Tho, chị Bình, chị Ðịnh.. chỉ huy để chống lại chính phủ VNCH tham nhũng, gian ác, đàn áp tôn giáo, ngăn cấm tự do.. Di chứng này tới đây vẫn đâu có chấm dứt, mà cứ tiếp tục qua mấy bức vẽ ‘ Chậu rữa chân hay dây kẽm gai có hình lá cờ vàng ba sọc đỏ của Quốc Dân VN ra đời từ năm 1948, chứ không phải là cờ của Bảo Ðại, Ngô Ðình Diệm hay Nguyễn Văn Thiệu..
Chỉ có đám dân chiến nạn từ miền Trung di tản theo lính vào Sài Gòn, giờ bơ vơ đói rách, bồng bế nhau hồi cư theo lệnh của chủ mới. Chỉ có những quân, công, cán , cảnh Miền Nam tan hàng rã ngủ, biết thân phận mình, rủ nhau tới các địa điểm trình diện. Sau rốt là đại đa số dân nghèo cưc, không có phương tiện hay chẳng bao giờ mơ ước xuất ngoại, nên đành ở lại với cảnh tranh tối tranh sáng, kéo tới các kho đụn, nhà giàu, sở Mỹ cùng dinh thự đồ sộ của các quan tướng.. đã bỏ chạy, để hôi của kiếm ăn. Sài Gòn mặt thật của những phút giờ đổi đời là thế đấy. Hiện có nhiều nhân chứng hôm đó, chắc là còn sống, tuy tuổi đã cao nhưng không mất trí nhớ, đang ở khắp các nẻo đường hải ngoại, thì ai dám bẻ cong ngòi bút, lếu láo vẽ rắn thêm chân, đem thúng úp voi, dấu đầu lòi đuôi cho được ?
Người dân Sài Gòn cố gắng mở to đôi mắt hôm đó, để tìm trong hàng ngũ bộ đội tân lập 304 băng đỏ, cũng dép râu, nón tai bèo và khăn rằn xanh quàng cổ, hình dáng thân thương của các thầy, quý cha, anh chị em văn nghệ sỹ.. từng hò hét khản cổ, kêu gọi phản chiến, hòa hợp hòa giải năm xưa. Nhưng hỡi ơi, trong đó tìm hoài đâu thấy một ai. Các vị chỉ muốn đấu võ mồm, đâm sau lưng người lính, phá thối chính quyền đương thời. Ðến lúc nhà tan nước mất, giặc Bắc không hòa hợp mà chỉ xâm lăng, cướp của giết đồng bào.. thì các vị cũng đã nhanh chân ôm Mỹ, để kịp chạy ra hải ngoại, tiếp tục đối lập trọn đời, để lần nữa phá thối cuộc sống tạm dung chốn quê người, của những thân phận VN, cũng vì họ mà ngày nay phải sống đầu đường xó chợ, khác nào những tên nô lệ Pháp, Mỹ, Úc, Canada.. trên vãn nẻo đường lưu vong, lấy nước mắt làm canh, đêm ngày hoài mơ viễ n xứ, thương khóc tưởng nhớ quê mình.
Bảy mươi chín năm trôi qua (1930-2009), dù bây giờ chuyện gì người dân cũng đã biết đủ. Thế nhưng cọng sản và Việt gian, thì chứng nào tật đó, vẫn tỉnh bơ hãnh diện, tiếp tục gian dối bịp lừa đồng bào. Tóm lại, đối với cọng sản, tất cả chỉ là giai đoạn, nên không bao giờ có chuyện tình nghĩa đồng chí, đồng đảng, đồng đội.. thì nói làm chi tới tình đồng bào, đồng nước. Cũng nhờ gần hết bí mật lịch sử cân đại, được khai quật phổ biến, nên ngày nay chúng ta mới nhận diện được bộ mặt thật của những người, từng ôm nhau hôn hít, từng nhận là anh em môi hở răng lạnh hay sông liền sông, núi kế núi.. thế nhưng cũng chẳng có gì, ngoài nhu cầu hợp tác và giai đoạn.
Sau năm 1990, Liên Bang Sô Viết và Nam Tư tan rã thành từng mảnh vụn. Những người mới đó cùng đứng chung dưới một màu cờ, một đảng bộ.. đã vội bôi mặt chém giết nhau một cách tận tuyệt. Tuy nhiên bi thảm hơn hết, vẫn là sự tương tàn đẫm máu, giữa ba đảng Tàu, Việt và Miên Cộng.. xảy ra từ các năm cuối thập niên 70 của thế kỷ XX, sau khi đệ tam quốc tế đã tạm hợp tác, thỏa hiệp chống Mỹ thành công. Từ kinh nghiệm năm đó, giờ nhìn lại thái độ công khai bán nước của Việt Cộng qua Ðổ Mười, Lê Ðức Anh, Lê Khả Phiêu, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, Trần Ðức Lương, Nông Ðức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng.. trong vai trò chọn lựa làm đầy tớ Trung Cộng, khiến cho đồng bào trong và ngoài nước đã chết khựng và xấu hổ tận cùng vì biết chắc đất nước từ đây đã trở thành một quận huyện của Tàu Ðỏ như mấy ngàn năm Bắc Thuộc trong quá khứ.
Năm 1979 Ðặng Tiểu Bình mới chỉ có tàn sát đồng bào vô tội cũng như tàn phá tận tuyệt các tỉnh biên giới của VN. Lần này Trung Cộng binh hùng vũ khí tối tân, lại có nhiều bom nguyên tử, chắn chắn là Tàu sẽ thẳng tay tiêu diệt con Hồng cháu Lạc cả nước nếu chống cự lại giặc. Biến cố ngư dân Thanh Hoá bị Trung Cộng thảm sát trong vịnh Bắc Việt vào ngày 8-1-2005, như một khúc dạo đầu của điệu ru nước mắt, mà VN đang dần bước vào nẻo tuyệt lộ vì giặc Tàu, qua đồng thuận của Việt Cộng, từng bước xâu xé gấm vóc giang sơn của dân tộc Ðại Việt, một cách công khai và man rợ, như chúng từng làm trong quá khứ
‘ .. ôi trọn kiếp, lòng ta hoài mơ ước
cảnh thanh bình trên vạn nẻo quê hương
nên thường hay chợt khóc giữa đêm trường
khi tưởng tới ngày mai về cố quốc.. ’ ’ ’
1- Trung Cộng xâm lăng Việt-Nam lần thứ nhất (1979) :
Ngày 1-5-1975 VC ban hành một bản đồ mới của nước VN thống nhất, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (hiện do hải quân Bắc Việt chiếm giữ 6 đảo, khi VNCH bỏ ), mà chính Hồ Chí Minh và Phạm Văn Ðồng đã giấy trắng mực đen, xác nhận thuộc chủ quyền của Trung Cộng vào năm 1958. Ðây cũng chỉ là một nguyên cớ, để Tàu xâm lăng VN vào mùa xuân năm 1979.
Thật ra tình hữu nghi giữa hai nước, đã lung lay từ năm 1967, khi Trung Cộng xuí giục Nam Lào tấn công Pathet Lào, vốn là chư hàu của Bắc Việt. Rồi từ khi Hồ Chí Minh qua đời năm 1969, quyền hành lọt vào tay Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ vốn thân Nga, lúc đó là kẻ thù không đội trời chung của Trung Cộng, nên sự rạn nứt của tình đồng chí lại càng thêm nứt rạn. Nhưng vì kẻ thù trước mặt là Nga-Mỹ vẫn còn, vì vậy hai đảng cố quên bất đồng để hợp tác giai đoạn.
Khi Mao Trạch Ðông thăng hà vào năm 1976, Ðặng Tiểu Bình lên nối ngôi đã chấm dứt sự leo dây của VC từ lâu, vì Ðặng đã biết rõ VC lúc ấy đang ngả hẳn theo Nga. Nhiều cuộc đụng độ đã xảy ra tại biên giới Hoa-Việt, mà chủ động luôn luôn do Hồng quân gây hấn, theo lệnh của Ðặng Tiểu Bình. Ðây là một đòn hù dọa cũng như áp lực VC lúc đó đang tiến hành chính sách cải tạo công thương nghiệp, cướp của và đánh đuổi Hoa Kiều Miền Nam, nhất là tại Sài Gòn-Chợ Lớn, ra biển về Tàu.
Giữa lúc tình hữu nghi của hai nước căng thẳng tột độ, thì Trung Cộng ngang nhiên xua 30.000 hồng quân vào các tỉnh Luang Namtha, Udom Say, Phong Salay, Luang Prabang và Sầm Nứa, nói là để bảo vệ công nhân Trung Hoa, đang làm thiết lộ Bắc Lào-Vân Nam. Nhưng thực chất Trung Cộng muốn uy hiếp Pathet Lào và bao vây biên giới phía tây bắc của VN. Ðây cũng là ý đồ của Tàu, muốn mở một con đường thông thương từ Vân Nam xuống đất Miên, để tiện tiếp tế cho quân Khmer đỏ của Polpot lúc đó, đang du kích chiến với bộ đội VN. Mộng ước này hiện được Nguyễn Tấn Dũng, nhân danh thủ tướng VC , qua quyết định cho Tàu Ðỏ được khai thác mõ Bauxít tại Nam Trung Phần vào tháng 2-2009, giúp Trung Cộng Công Khai Xâm Nhập Vào Lảnh Thổ VN, mà bao đời chúng muốn nhưng không làm được.
Nhưng Hà Nội lúc đó đã biết rõ ý đồ của Bắc Kinh, nên đã ra tay trước. Ðầu tiên là cùng Pathet Lào ký một hiệp ước quân sự và biên giới ngày 18-7-1977. Sau đó đem 50.000 quân trấn đóng tại Trung và Nam Lào, vừa bảo vệ Pathet Lào, cũng như ngăn cản không cho Trung Cộng vào đất Miên. Sự gây hấn đã trở thành công khai vào năm 1978, khi Bắc Kinh gọi Hà Nội là ‘ tiểu bá quyền khu vực ‘, còn VC thì bảo Trung Cộng là ‘ chủ nghĩa bành trướng bá quyền Ðại Hán ‘.
Ai cũng biết quan hệ giữa hai đảng cong sản Việt-Trung, vô cùng gắn bó từ sau năm 1949 khi Mao Trạch Ðông chiếm được toàn cõi Hoa Lục. Từ đó, Trung Cộng hết lòng giúp đỡ VC mọi mặt, từ quân sự cho tới kinh tế, chính trị, ngoại giao. Nhờ vậy Hồ Chí Minh và đảng cọng sản mới chiếm được miền bắc vào năm 1954.
Trong cuộc chiến Ðông Dương lần thứ 2 (1960-1975), hầu như nguồn viện trợ quân sự, kinh tế cho Bắc Việt xâm lăng VNCH, đều của Trung Cộng. Trên đất Bắc, Tàu giúp Hà Nội xây dựng nhiều công trình nhà máy, đường xá.. Theo tài liệu công bố, tính tới năm 1978, Tàu đỏ đã viện trợ cho VC hơn 20 tỷ mỷ kim. Từ năm 1965-1970, theo yêu cầu của Hồ Chí Minh, đã có hơn 100.000 quân Trung Cộng sang giúp Bắc Việt, để xây dựng và phòng thủ. Ðã có cả ngàn lính Tàu chết ở VN trong cuộc chiến
Sau 1970, nhiều biến chuyển lịch sử đã xảy ra, nhất là khi HCM chết, làm cho Hà Nội càng ngày càng ngả theo Liên Xô. Do nhu cầu cuộc chiến, VC cần có nhiều quân dụng tối tân như Mig21, tăng 54,55, hoả tiễn Sam.. để đối đầu với vũ khí Mỹ. Nhưng những thứ này chỉ có Nga mới có. Trung Cộng biết hết, nhưng vẫn tiếp tục giúp đỡ VC cho tới khi Hà Nội chiếm được miền Nam.
Rồi vì đầu óc thiển cận, các chóp bu trong Bắc Bộ Phủ tự coi như các đỉnh cao của loài người, coi thường mạng sống đồng bào cả nước, lại mù quáng chạy theo chủ thuyết cọng sản đã lỗi thời và nhất là tôn sùng Liên Xô hơn thần thánh. Từ đó, không cần cảnh giác về những kẻ thù xung quanh, lại mù quáng trở mặt và thách đó Trung Cộng. Ðó là nguyên nhân chính khiến kẻ thù có cớ xâm lăng VN vào năm 1979.
Hồng quân Trung Hoa hay quân đội Trung Cộng tuy được thành lập vào năm 1927 nhưng thật sự chỉ thống nhất sau năm 1949 khi chiếm được Hoa Lục. Nói chung VC đã theo đúng khuôn mẫu của Mao, để tổ chức binh đội. Còn chủ thuyết Mao, được coi như nền tảng tư tưởng, dùng làm chiến thuật và chiến lược, gọi là chiến tranh nhân dân, lấy nông thôn bao vây thành thị.
Thời nào, quân đội Tàu cũng đông nhất thế giới. Năm đó, Hồng quân có hơn 4 triệu người, bao gôm hai binh chủng Hải và Không Quân trên nửa triệu. Cả nước được chia thành bảy quân khu : Lan Châu (Tân Cương và Thanh Hải), Bắc Kinh (Nội Mông, Bắc Kinh, Hà Bắc, Sơn Tây), Trấn Giang (Hắc Long Giang, Liêu Ninh), Kiến An (Hà Nam, Sơn Ðông), Nam kinh (Phúc Kiên, Giang Tây, Thượng Hải, An Huy), Thành Ðô (Vân nam, Tứ Xuyên, Quý Châu, Tây Tạng) và Quảng Châu (Quảng Ðông, Quảng Tây, Hồ Bắc, Hồ Nam). Mỗi quân khu có nhiều quân đoàn. Ngoài chính quy và chủ lực, Trung Cộng còn có hơn bảy triệu dân quân. Tất cả do Chủ tịch quân ủy trung ương , tức là chủ tịch đảng lãnh đạo, khi Ðặng nắm quyền kiêm nhiệm luôn chức này.
Năm 1979, Hà Nội sau khi bị Trung Cộng tố cáo là vong ơn bạc nghĩa, kể cả sự phanh phui Võ Nguyên Giáp không phải là người chỉ huy mặt trận Ðiện Biên Phủ năm 1954. Ðể trà đũa, VC cho phổ biến bạch thư, nói về quan hệ Việt-Trung trong 30 năm qua, đồng thời tố cáo Hoa Kiều trong nước là gián điệp, tay sai của Trung Cộng chống lại VN. Tiếp theo VC xua quân tấn công tiêu diệt Polpot và Khmer đỏ , vốn là đàn em chư hầu của Tàu, khiên cho dầu được đổ thêm vào lửa chiến tranh giữa hai nước, chỉ chờ bùng nổ.
Tại miền Nam, ngày 24-3-1978 bắt đầu đánh tư bản. Hằng ngàn công an, bộ đội và nam nữ thanh niên xung phong đeo băng đỏ trên tay, rải khắp các đường phố Sài Gòn-Chợ Lớn, Gia Ðình, xông vào các hãng xường, nhà buôn, tư gia.. những người có máu mặt Hoa lẫn Việt, để lục lọi, vơ vết, xoi khám tịch thu tiền bạc, đô la, vàng ngọc, hàng hóa và tất cả tài sản riêng tư của dân chúng, những ai bị đảng kết tội là mại sản. Theo tài liệu được bật mí, chỉ riêng mẻ lưới trên, Hà Nội đã vơ vét của người giàu Sài Gòn, hơ
Ngày 3-5-1978, cả nước lại được đổi tiền lần thứ ba, khiến đồng bào trước sau trở thành vô sản chuyên chính. Ở miền bắc, hằng ngàn Hoa Kiều bị trục xuất về nước. Trong nam, hằng vạn người Hoa trắng tay, tiêu tan sản nghiệp, bì đầy ải lên vùng kinh tế mới tận Bình-Phước Long, Bình Tuy, Long Khánh, Bà Rịa.
Ðể trả đũa, Trung Cộng ngưng hẳn 72 công trình xây dựng viện trợ cho VN. Ðã có 70.000 người Hoa tại VN hồi hương về Hoa Lục. Ngày 16-5-1978, Trung Cộng tuyên bố gửi hai chiến hạm tới Hải Phòng và Sài Gòn, để đón hết Hoa kiều. Nhưng đây chỉ là đòn tuyên truyền chính trị, vì tàu chiến chỉ đậu ngoài khơi một ngày, rồi kéo neo về nước. Nắm được yếu điểm của đàn anh, VC lần chót hốt hết những gì còn sót lại của Hoa Kiều, qua chiến dịch ‘ xuất cảng người ‘.Sau đó tống khứ họ ra khơi, khiến cho hơn triệu người bị chết vì sóng gió và hải tặc Thái Lan trên biển Ðông, mà những trang Việt sử cận đại, gọi là cơn hồng thủy của thế kỷ.
Sau khi VN bỏ lỡ cơ hội nối lại bang gioa với Hoa Kỳ. Ngày 24-5-1978, phụ tá an ninh của tổng thống Mỹ Carter là Brezinski, tới Bắc Kinh ký một hiệp ước liên minh quân sự với Tàu. Từ đó Ðặng Tiểu Bình đã có chỗ dựa chống Nga, nên mới ra mặt quyết tâm xâm lăng VN để rửa thù phục hận.
Từ 28 tới 30-1-1979, Carter và Ðặng Tiểu Bình đã họp mật tại Tòa Bạch Ốc. Sau đó tổng thống Mỹ đồng ý để Trung Cộng trừng phạt VN và còn giúp cầm chân Nga, bằng cách chịu ký với LX hiệp ứơc SALT II. Ðể thêm kế nghi binh, Hoa Kỳ cử bộ trưởng tài chánh là Blumenthal tới công tác tại Bắc Kinh. Ngoài ra còn cho Hàng không mẫu hạm Constellation lảng vảng ngoài khơi vịnh Bắc Việt. Tất cả mơ mơ màng màng, khiến cho LX cũng không biết đâu mà mò.
Ngày thứ bảy 17-2-1979, lúc 3 giờ 30 sáng, khi vạn vật, chim chóc và con người đang chuẩn bị cho một ngày sống mới, thì 600.000 quân Tàu, tiền pháo hậu xung, ào ạt mở cuộc xâm lăng đại quy mô vào VN, trên vùng biên giới từ Lai Châu tới Móng Cáy. Thế là tình nghĩa vô sản quốc tế trong sáng giữa hai nước, đã trở thành hận thù thiên cổ. Những địa danh Cao Bằng, Lạng Sơn, Ðồng Khê, Thất Khê.. lại đi vào những trang Việt sử đẫm máu, của VN chống xâm lăng Tàu.
Ðể tấn công VN, Trung Cộng đã huy động nhiều quân đoàn từ nhiều quân khu khác nhau, gồm QD 13,14 tấn công Lai Châu-Lào Kay. Hai QÐ 41,42 tân công Cao Bằng. Riêng mạn Lạng Sơn, Quảng Yên, Hải Ninh thi giao cho quân đoàn 43,54,55. Tất cả do Hứa Thế Hữu và Dương Ðắc Chí chỉ huy trong mấy ngày đầu.
Về phía VN, một phần vì sự tự cao bách thắng của các đỉnh cao tại bắc bộ phủ. Phần khác do quá tin tưởng sự liên minh quân sự với LX. Nên gần như sử dụng gần hết các đơn vị chính quy tại mặt trận Kampuchia. Bởi vậy ngay khi cuộc chiến bắt đầu, trong lúc quân Trung Cộng đông đảo lên tới 150.000 chính quy, thì việc phòng thủ miền bắc, nhất là thủ đô Hà Nội, được giao cho các Sư Ðoàn 308,312,390 của quân khu I. Nói chung, trong cuộc chiến đấu với Trung Cộng tại biến giới, chỉ có các sư đoàn chủ lực của quân khu tham dự như Sư đoàn 3,327, 337, Tây Sơn ( mặt trận Lạng Sơn). SD 567, B46, SD.Pháo binh 66 (mặt trận Cao Bằng). Các tuyến từ Hà Giang tới Lai Châu, do các SD316,345, Ðoàn B68, M63, các trung đoàn chủ lực tỉnh, huyện đội, công an biên phòng. Sau đó khi thấy tình hình quá nguy ngập, Hà Nội mới gấp rút điều động các trung đoàn từ các tỉnh trung châu, cùng với các sư đoàn chủ lực của quân khu II và IV từ Kampuchia về tiếp viện.
Cuộc chiến thật đẫm máu ngay từ giờ phút đầu. Quân Tàu dùng chiến thuật cổ điển thí quân với tiền pháo hậu xung, bằng các loại hỏa tiễn 122 ly và đại bác nòng dài 130 ly, với nhịp độ tác xạ 1 giây, 1 trái đạn. Sau đó Hồng quân tràn qua biên giới như nước lũ từ trên cao đổ xuống. Tuy nhiên khắp nơi, Trung Cộng đã gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của VN, một phần nhờ địa thế phòng thủ hiểm trở, phần khác là sự yểm trợ hùng hậu của pháo binh các loại, gây cho giặc Tàu nhiều tổn thất về nhân mạng tại Lạng Sơn và Cao Bằng.
Sự thất bại trong những ngày đầu, khiến Ðặng giao chỉ huy mặt trận cho Dương Ðắc Chí, đồng thời cũng thay đổi chiến thuật, dùng tăng pháo mở đường và bộ binh tùng thiết. Do quân Tàu quá đông, nên sau 10 ngày cầm cự, bốn thị xã Lai Châu, Lào Kay, Hà Giang, Cao Bằng lần lượt bị thất thủ. Riêng tại thị xã Lạng Sơn, Trung Cộng tung vào chiến trường tới sáu sư đoàn chính quy 127,129, 160,161, 163,164 cùng hằng trăm thiết giáp và đại pháo từ khắp nới bắn vào yểm trợ. Phía VN có quân đoàn 14 gồm các SD 3,327,338,347,337 và 308. Trong lúc đó hai SD chính quy 304 và 325 từ Kampuchia, cũng đựợc không vận và di chuyển bằng xe lửa, tới Lạng Sơn tiếp viện. Nhưng cuối cùng Lạng Sơn cũng bị thất thủ đêm 4-3-1979. Sau đó giặc Tàu dùng mìn, bom phá nát hết các thành phố, thị xã tạm chiếm, kể cả hang Pắc Pó, suối Lê Nin và núi Các-Mác mà Hồ Chí Minh từng tạm trú, trước khi về Hà Nội cướp chính quyền vào tháng 9-1945. Ngày 16-3-1979, Ðặng Tiểu Bình ra lệnh rút quân về nước.
Tóm lại sau 16 ngày giao tranh đẫm máu, Trung Cộng cũng như Khmer đỏ, tàn phá tất cả tài sản của dân chúng, bắn giết tận tuyệt người VN, san bằng các tỉnh biên giới, mà suốt cuộc chến Ðông Dương lần II (1960-1975), gọi là vùng an toàn. Ðã có hằng trăm ngàn vừa dân vừa lính của cả hai phía thương vong. Tại miền bắc, hằng triệu dân chúng phải phân ly. Nhà cửa, vườn ruộng, của cải vật chất, đền đài, miếu võ, nhà thờ, di tích tổ tiên bao đời để lại.. đều vì VC gây chiến tranh, mà tan tành theo cát bụi.
2- Trung Cộng Xâm Lăng VN lần thứ hai (1984-1989) :
Cuộc chiến tưởng đâu đã chấm dứt, vì VC dấu nhẹm tin tức, từ ấy cho đến năm 2006, nhờ mạng lưới Internet của Bộ Quốc Phòng Trung Cộng (Defense-China.com) và tác phẩm Dữ kiện bí mật của cuộc chiến tranh Trung-Việt (SEcret Records of Sino-Vietnamese War) của Jin Hui, Zhang Hui Sheng và Zhang WEi Ming, cả thế giới biết được ‘ Bí Mật Lịch Sử về việc Tàu chiếm Núi Ðất của VN, trong cuộc chiến biên giới lần hai (1984-1989) ‘.Theo tài liệu dẫn chứng, năm 1984 Trung Cộng lại vin cớ CSVN thường pháo kích và tấn công biên giới, nên bất thần tấn công cưởng chiếm Núi Ðất của VN tại tỉnh Hà Giang (Thượng Du Bắc Phần), mở màn cho cuộc chiến Biên Giới Việt Hoa lần thứ hai, kéo dài từ năm 1984-1989 mới chấm dứt, do Việt Cộng tự bỏ đất rút quân, nhượng bán (?)lãnh thổ cho giặc Tàu.
Núi Ðất (VN) hay Lão Sơn (Tàu), dù có gọi bằng cái tên gì chăng nữa, cũng vẫn là một ngọn núi của VN, tại xã Thanh Thủy , huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang. Trong trận chiến đẳm máu này, hai bên đã dành giựt quyền kiểm soát cứ điểm 1509m, được coi như là một vị trí chiến lược rất quan trọng về phía VN, được cũng cố xây dựng từ sau cuộc chiến biên gới 1979.
Thế là ngày 28-4-1984, vào lúc 5 giờ 50 sáng, Trung đoàn 118, Sư đoàn 40 BB, thuộc Quân đoàn 14, Quân khu Côn Minh, tiền pháo hậu xung, đồng loạt tấn công đỉnh 1509 và các cứ điểm quan trọng khác của VN. Cuộc chiến thật gay go vì gặp sự kháng cự mãnh liệt của quân phòng ngự VN, cấp đại đội. Tất cả đã tử chiến trước quân thù, đặc biệt trong số này có 4 nữ cán binh CSVN, thà chịu chết trước súng phun lửa của giặc Tàu, chứ không đầu hàng. Vì vậy nên trận chién kéo dài tới 15 giờ 30 chiều mới kết thúc, giặc bỏ xác tại chỗ 198 tên, cùng một số khác bị thương nặng..
Này 11-6-1984 , một Tiểu đoàn CSVN tấn công tái chiếm núi nhưng bị đẩy lui. Ngày 12-7-1984, hai bên đụng độ lớn cấp Sừ đoàn. Phía CSVN đã huy động tới 6 Trung đoàn Bộ binh của các SÐ312,313, 316 và 356 để tái chiếm đỉnh núi. Cuối cùng Trung đoàn 982 thuộc Sư đoàn 313 CSVN, đã tái chiếm được cứ điểm 1509, sau khi đã chịu tổn thất hơn 3700 người. Nhưng sau đó không biết vì lý do gì, chóp bu Hà Nội đã ra lệnh bỏ ngõ cứ điểm trên cho quân Trung Cộng tới tái chiếm.Rồi lại giành giật từ 1984-1987 ở cấp Ðại đội, cho tới ngày 13-2-1991 thì châm dứt với kết quả : Trung Cộng hoàn toàn chiếm lĩnh Núi Ðất nằm trong lãnh thổ VN tại Tỉnh Hà Giang, và đổi lại tên Tàu là Lão Sơn.
Tính ra, từ ngày Hồ Chí Minh và Ðảng CSQT chiếm được nữa nước VN, qua Hội Nghị Genève 1954, sau đó cưởng chiếm Miền Nam ngày 30-4-1975 và cai trị cả nước tới 2009, chỉ hơn nữa thế kỷ (1955-2009), đã bán cho nhượng Tàu hai quần Ðảo Hoàng Sa-Trường Sa, nhiều đất đai tai biên giới Hoa Việt, trong đó có Ải Nam Quan, Thac Bản Giốc, Hang Pắc Pó, Núi ÐấtBãi Tục Lãm và nhiều vùng đánh cá thuộc lãnh hải của VN. Tất cả hành động bán nước trên đều mờ ám, bịp lừa, mục đích cũng chỉ để che dấu mọi tội lỗi, hầu tiếp tục kéo dài sự thống trị của tập đoàn thực dân đỏ tham nhũng, bất tài nhưng trong tay nắm đủ quyền lực, tiền bạc và trên hết đã sai khiến được một thiểu số trí thức khoa bảng mù quáng hám danh, đang cố sức quậy bùn công cuộc chiến đấu quang phục đất nước của Người Việt Tị Nạn Hải Ngoại và Ðồng bào quốc nội.
Sau khi cưởng chiếm đuợc cả nước VN, CSQT bỏ Tàu theo Nga, gây nên một cuộc chiến long trời lở đất với Miên và Trung Cộng, cuối cùng cắt đất dâng biển đảo của VN cho Tàu để xin được làm tôi tớ của thiên triều như cũ. Bài học của lịch sử chưa khô máu trên thân thể mẹ VN nhược tiểu , thì một cuộc chiến đẳm máu khác đã thấy ló dạng qua hành động bán nước công khai cho Tàu Ðỏ, được Nguyễn Tấn Dũng và 14 tên chóp bu trong tập đoàn ngụy quyền Hà Nội hoàn tất vào cuối tháng 12-2008, ngoài đất đai biển đoảo còn công khai cho giặc Tàu đỏ vào đóng tại miền Nam Cao Nguyên Trung Phần, qua bức màn khói KHAI MÕ.
Lần trước Trung Cộng chỉ mới tàn phá được miền thượng du Bắc Việt bằng súng đạn cổ điển. Lần này nếu lại có chiến tranh, Trung Cộng với bản chất dã man và khát máu, chắc chắn giặc sẽ tận dụng hết khả năng quân sự trong đó có bom nguyên tử để xoa sổ VN trên bản đồ Châu Á. Sự tổn thất về nhân mạng và tồn vong của dân tộc chỉ có người dân cùng đất nước hứng chịu, còn đảng với gia đình, trong đó có các tên chóp bu như Nông Ðức Mạnh, Nguyễn Tấn Dủng.. chắc chắn đã cao bay xa chạy tới những khung trời hạnh phúc ở hải ngoại mà thiên đường đâu có nơi nào sánh bằng Hoa Kỳ với tiền núi vàng tấn đã được chuyển tới đây từ khuya
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
- Brother Ennemy của Nayan Chanda do Phạm Quốc Bảo dịch.
- Giọt nươc trong biển cả Hoàng Văn Hoan
- Mặt thật của Thành Tín
- Chinese aggression against VietNam
- Death in The Rice Field của Peter Scholl Latour
- các tạp chi TP,PNDD..
- Tài liệu ‘ Trận Biên giới Hoa Việt lần 2’ trên Diễn Ðàn Việt Nam Exodus..
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng Hai 2009
MƯỜNG GIANG
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment