Friday, June 27, 2025

NGÔ BẮC THEO HỌC BAN TRIẾT TẠI ĐẠI HỌC VĂN KHOA SÀI GÒN TRƯỚC NĂM 1975 - tản mạn

Đây là các cảm nghĩ của tôi khi theo học ban Triết, Đại Học Văn Khoa Sàigòn trước năm 1975:

Ban Triết tại Đại Học Văn Khoa Sàigòn trước năm 1975 có lẽ là một trong các ban có ít sinh viên ghi danh theo học, được chia thành hai giáo trình về Triết Đông và Triết Tây.   Vì là trường đại học được ghi danh tự do, không có một tiêu chuẩn hạn chế nào, nên số ghi danh của Đại Học Văn Khoa rất đông, tương tự như Đại Học Luật Khoa.  Tuy số ghi danh thật đông, nhưng số sinh viên  thực sự đi học thường xuyên rất ít, càng ít hơn nữa là các sinh viên bản Triết Học.  Ngoài rất ít nam sinh viên phải cố gắng học và thi đỗ cuối năm để tiếp tục được hoãn dịch việc thi hành nghĩa vụ quân sự, các sinh viên ban Triết là những người phải có sự đam mê trong ngành học đòi hỏi sự suy tư và lý luận.  Có thể vì thế số nữ sinh viên ban Triết rất ít, nếu không nói là hiếm quý.

Chi phí ghi danh rất thấp, ai cũng có thể đăng ký, chỉ tội phải mất thì giờ để ghi danh vì số người đăng ký khá đông. 

Các giáo sư và giảng viên cũng không bắt buộc các sinh viên phải trực tiếp tham dự các buổi giảng dạy.  Phần lớn các sinh viên mua các ấn phẩm của môn học rồi tự học ở nhà và đi thi cuối khóa.  Chi phí mua sách, ấn phẩm môn học cũng rất thập chưa bao giờ là một nỗi lo của sinh viên. 

Tuy thế, các giáo sư và giảng viên ban Triết bao gồm các học giả ít nhiều có tiếng tăm trong giới học thuật Việt Nam và quốc tế. 

Điển hình như Linh Mục Lương Kim Định, một cột trụ chủ yếu của ban Triết Đông, người ký tên là Kim Định trên các tác phẩm về Triết Học Đông Phương của ông.  Linh Mục Kim Định đến dạy học bằng xe xích lô máy.  Cứ trông và nghe thấy tiếng xe xích lô máy là biết ngay có Linh Mục Kim Định, thường trong bộ áo choàng màu trắng, ngồi trên xe với dáng diệu vô cùng thoải mái.  Theo các chủng sinh sống gần Linh Mục Kim Định, Linh Mục giải thích đi xe xích lô máy vì thấy mình không muốn người lao động phải vận dụng sức mình khi đạp xe.  Mặt khác, di xe xích lô máy nhanh hơn, gió thổi mát mẻ hơn và do đó thoải mái hơn.  Hơn hai chục năm sau, tôi có đến thăm Linh Mục Kim Định tại San Jose, California.  Tuổi tác tuy đã khá cao, nhưng thần thái của Linh Mục không thay đổi bao nhiêu, và có nhìn thấy lại một áo choàng màu trắng treo trên tường nhưng Linh Mục nói đã lâu không còn cử hành lễ nghi tại Nhà Thờ.  Linh Mục nói còn ước ao sống thêm ít nhất 20 năm nữa để đủ thì giờ viết và để lại các tác phẩm mà Linh Mục cho là cần thiết.  

Linh Mục Kim Định đúng là một tác giả đã để lại một khối tác phẩm triết học đồ sộ nhất của Việt Nam và độc đáo nhất vì nhãn quan của ông về triết học Đông Phương, dù tôi chưa thấy ai làm một bản liệt kê các công trình nghiên cứu, biên khảo của ông.  Là một người được huấn luyện trong môi trường triết học Tây Phương và thần học Thiên Chúa Giáo, nhưng cái nhìn của Linh Mục Kim Định về triết học Đông Phương lại mang một đường nét dân tộc chủ nghĩa Việt Nam đến mức cực đoan, theo nhận xét của một số học giả Tây Phương.  Triết học Tây Phương, theo dòng tư tưởng từ Plato, Descartes, Pascal. Nietzsche, Kant, Kierkegaard, Kant cho đến Karl Marx, … đặt trên nền tảng duy lý, dẫn đến chủ nghĩa duy vật, được biện chứng bằng thực nghiệm.  Bởi duy lý chỉ chấp nhận những gì có thể biện luận được, thực nghiệm được hay sờ mó được, như các vật chất và chỉ chấp nhận những gì hiện thực như vật chất.  Dòng tư tưởng này sinh sản ra chủ nghĩa cộng sản của Karl Marx, khi áp dụng vào việc biện luận các giá trị kinh tế cụ thể.  Đó là con đường một chiều của tư tưởng duy lý.  Người học Triết Tây có thể nhận thấy một tác giả có thể đúng ở một khía cạnh nào đó, trong khi một tác giả khác cũng có thể đúng ở một khịa cạnh khác của cùng sự vật, cho dù hai khía cạnh có thể tương phản.  Duy lý đưa đến việc loại trừ khía cạnh đối chọi, và do đó biện luận cho sự độc tôn, độc quyền, không chấp nhận ý thức hệ nào khác.  Kết quả, chính sự khác biệt và muốn duy trì sự độc tôn về ý thức hệ đã là một nguyên nhân chính khiến loài người giết hại nhau nhiều nhất. 

          Dòng tư tưởng duy lý một chiều đó không bao giờ hiểu được và chấp nhận được lý luận của Lão Tử khi cho rằng hữu vi là một thái độ hành động, nhưng vô vi cũng là một hình thái của hành động.  Làm sao mà người học triết Tây Phương có thể chấp nhận được hai hiện tượng rõ ràng đối chọi là có thể hợp thành một, như lưỡng nghi âm dương hợp nhất ở Thái Cực.  Phải hỉểu ngược lại, chính từ Thái Cực đã phát sinh ra Lưỡng Nghi Âm/Dương.  Thoát ra khỏi cái nhìn duy lý một chiều của Tây Phương, Linh Mục Kim Định đã biện giải Triết học Đông Phương bằng cái nhìn từ cảm tính và sự suy tư của một con người mang tâm thức hoàn toàn Việt Nam.  Thái Cực ở đây chính là Con Người, con người làm chủ vận mệnh của mình và Vũ Trụ,   Đó là một học thuyết về Nhân Chủ độc đáo của Việt Nho, theo tác giả Kim Định.  Học trò của ông được dẫn dắt từ Cửa Khổng đến Dịch Kinh Linh Thể bằng các lý giải thật mới mẻ và đầy ngạc nhiên.  

          Khi được nhập vào sách giáo khoa để học tập, quyển Dịch Kinh Linh THể đã khiến các môn đồ thích thú với lý giải của Linh Mục Kim Định, khi hình dung lãnh địa phát sinh và sinh hoạt của dân tộc Việt từ miền thung lũng sông Dương Tử, với nếp sống văn minh nông nghiệp định cư, khác biệt với văn minh săn bắn du mục của người Hán ở vùng thảo nguyên miền Bắc Trung Hoa, giúp cho tác giả xác định rằng Kinh Dịch có nguồn gốc từ Việt tộc.  Đối chiếu với văn chương thế giới, phải nói Linh Mục Kim Định là một trong những tác giả đầu tiên, nếu không nói là thứ nhất, đề xuất ra tư tưởng phân biệt văn hóa/văn minh Việt tộc với Hán tộc.  Không những thế, văn hóa Việt tộc đã thuần hóa một số đặc điểm của văn hóa Hán tộc và định hình cho một triết thuyết mà tác giả Kim Định đã mệnh danh là Việt Nho, hay Triết Lý An Vi Nhân Chủ.  Theo Linh Mục Kim Định, Việt Nho không phân cách Hữu Vi với Vô Vi của Lão Trang, mà lựa chọn thái độ An Vi, an nhiên tự tại trong cuộc sống, với con người làm chủ không chỉ cuộc sống của chính mình, mà của cả Trời và Đất, tạo nên triết lý Nhân Chủ.  Nhân Chủ bao gồm cả vũ trụ, khác với Nhân Bản chỉ giới hạn ở phạm trù cá nhân.  Thật vui thích khi nghe Linh Mục dẫn giảng về triết thuyết Nhân Chủ qua câu chuyện về Lý Công Uẩn khi còn trẻ, ở chùa và ăn vụng oản cúng, bị Phật mách bảo với nhà sư trụ trì.  Kết quả Lý Công Uẩn bị đòn và uất ức.  Họ Lý bằng dùng bút viết lệnh sau lượng bức tượng đuổi Phật về xứ Thiên Trúc.  Phật hoảng sợ phải bàn thảo với nhà sư trụ trì sắp xếp lại trật tự giữa người và Trời Đất, và để Lý Công Uẩn rút lại lệnh trục xuất Phật ra khỏi chùa.  Một bài giảng không thể quên để nói về địa vị của con người trong vũ trụ.  Ý tưởng Nhân Chủ này cũng đã thấy xuất hiện lác đác trong tư tưởng Tuân Tử, Vương Dương Minh, hay ngay cả ở Mạnh Tử, nhưng không hề được thực hành như trong cuộc sống của Việt Nho, theo tác giả Kim Đinh.  Với tư tưởng Nhân Chủ, Việt tộc đã thờ phụng con người, sống cũng như đã mất.  Lễ nghi truyền tụng từ bao đời của Việt tộc quy định vái lạy người sống 2 lạy, vái lạy người chết 4 lạy, trong khi chỉ vái lạy Phật 3 lạy.  Con người cao hơn Phật, Phật cũng sinh ra là một con người  chứ không phải là Thần Thánh bên ngoài nhân loại.  Tôn thờ con người, qua tập tục thờ cúng tổ tiên, là tôn vinh sự sống, và nguồn gốc sinh ra sự sống  Triết lý Tam Tài bao gồm Thiên Nhân Địa này được thể hiện qua thi văn Việt Nam như với bài Vịnh Tam Tài của Trần Cao Vân, hay trong tôn phái Phật Giáo Tứ Ân của Hòa Hảo trong đó Ân của Phụ Mẫu là một trong Tứ Ân, trước cả ân của Tam Bảo Phật Giáo.  Linh Mục Kim Định đích danh là người đã lập ra chủ thuyết An Vi Nhân Chủ trong đó thể hiện các sắc thái độc đáo của tư tưởng Việt Nho.  

Tôi cũng có dịp may học hỏi với một tác giả cũng lập thuyết đương thời với Linh Mục Kim Định là ông Hoàng Văn Chí, tác giả quyển Từ Thực Dân Đến Cộng Sản, một tác phẩm được dịch ra hàng chục thứ tiếng và phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới.  Với bút danh là Mạc Định, ông đã biên soạn và cho ấn hành một tác phẩm nổi danh khác là quyển  Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, nói về sự thanh trừng nhóm Nhân Văn Giai Phẩm sau năm 1954.  Ông Hoàng Văn Chí đã từng giảng dạy nhiều năm tại Học Viện Ngoại Giao chuyên huấn luyện và đào tạo các nhân viên chuyên nghiệp thuộc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ tại Washington DC từ thập niên 1960.   Xin mời bạn đọc tìm đọc tác phẩm Duy Văn Sử Quan để hiểu biết về triết thuyết của một triết gia Việt Nam khác trong thời đại chúng ta.   

Linh Mục Kim Định có lần nói với tôi rằng Linh Mục có đệ trình Luận Án Tiến Sĩ về Triết Học Đông Phương tại Đại Học Sorbonne nổi tiếng của Pháp ở Paris.  Nhưng luận án này bị treo tại chỗ với lý do không có thầy chấm điểm!!! 

Linh Mục Kim Định là một người thầy thương yêu và luôn luôn muốn đùm bọc, che chở cho các học trò của ông.  Theo tôi biết, hầu như chưa có một môn đồ nào của Linh Mục bị đánh rớt, và nếu sinh vien nào có bất kỳ câu hỏi nào, Linh Mục đều tận tình và rất vui vẻ khi chỉ bảo. Trong một chuyến bay từ Sàigòn lên Đà Lạt năm 1974, tôi có dịp may mắn ngồi cạnh Linh Mục và trong suốt chuyến bay, thầy trò trao đổi ý kiến về nhiều đề tài, và tôi nhận thấy Linh Mục Kim Định có một tinh thần bao dung, khoảng khoát, sẵn sàng chấp nhận mọi sự phản biện và sẵn sàng phá chấp trên đường đi tìm chân lý.  Hơn một năm sau đó, khi gặp lại nhau trong tại Hoa Kỳ, ngoài sự mừng rỡ của việc “tha hương ngộ cố tri”, Linh Mục Kim Định vẫn giữ nguyên vẻ hồn nhiên khi thuật lại cảnh đẹp lúc được ngắm nhìn mặt trời dâng lên trên trên mặt đất phủ đầy tuyết trắng tại Alaska, nơi Linh Mục dừng chân trên đường di tản đến nước Mỹ. 

Có thể nói, ngoài Trần Đức Thảo, người cùng thời và đã từng tranh luận với Jean Paul Sartre khi cùng học tại Paris, Linh Mục Lương Kim Định là một triết gia đúng nghĩa của Việt Nam trong thế kỷ thứ 20.  May mắn hơn Trần Đức Thảo là người bị cho đi chăn bò ở Thái Nguyên sau này nên hầu như không để lại tác phẩm giá trị nào, Linh Mục Kim Định đã gây ra sự chú ý trong giới học thuật quốc tế và để lại một di sản đồ sộ gồm các tác phẩm triết học cần đến sự thâm cứu nhiều thế hệ học giả Việt Nam kế tiếp. 

Ở ban Triết Đông còn có một vị Linh Mục khiến học trò ai cũng phải ghi nhớ, đó là Linh Mục Bửu Dưỡng.  Linh Mục Bửu Dưỡng bắt các sinh viên học quyển Đại Học trong Tứ Thư của Trung Hoa, nhưng tôi cảm thấy Linh Mục hình như không theo giáo án nào cả, chỉ giảng giải ít bài trong quyển Đại Học, và nhấn mạnh hầu như trong mọi dịp đến bài học đầu tên là Đại Học chi Đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện “ và bài “chữ Thành” [sic] trong bát mục: Cách Vật, Trí Tri, Thành Ý (được giải thích là lòng thành thực, không giả dối [sic]), Chính Tâm, Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc, Bình Thiên Hạ.  Khi vào thi vấn đáp, sinh viên được chọn hoặc lên trả lời câu hỏi của thầy, hay có thể viết lại những gì mình đã học được trong trọn khóa.  Ngồi bên dưới, khi thấy Linh Mục Bửu Dưỡng chỉ đặt mỗi một câu hỏi cho học trò là cả niên khóa Linh Mục đã dạy hai chữ quan trọng nào.  Học trò đứa nào cũng trả lời là hai chữ “Chữ Thành” đều bị Linh Mục cho hay là đã trả lời sai và cho điểm dưới trung bình tức điểm rớt.  Tôi thấy vậy bèn ngồi viết lại nguyên văn hai bài về Đại Học Chi Đạo và Thành Ý chứ không lên thi vấn đáp với ông.  May mắn tôi đủ điểm để vượt qua kết quả cuối cùng của Chứng Chỉ Triết Đông. 

Sau khi kết thúc buổi thi, học trò thắc mắc và hỏi lại rằng câu trả lời đúng là gì, Linh Mục Bửu Dưỡng nói là “minh đức” trong câu “tại minh minh đức”, các anh chị học đến bậc đại học thì mục đích chính là phải làm sáng “đức sáng: minh đức.”  Các môn đồ thì thầm với nhau, “ừ bọn mình ngu quá, Linh Mục Bửu Dưỡng là người sáng lập và là Viện Trưởng Viện Đại Học Minh Đức mà bọn mình không nghĩ ra..’  Một sinh viên khác có lẽ vì tính khôi hài hơn là giận dỗi, bước ra khỏi phòng thi liền la lớn lên rằng “thầy còn thiếu hai chữ, phải là “Minh Đức Hoài Trinh”, vốn là tác giả của bài thơ được Phạm Duy phổ nhạc thành bài hát rất nổi tiếng thời bấy giờ tức bài Kiếp Nào Có Yêu Nhau.  Có sinh viên lên thi bị hỏi Thánh Augustinô nói gì về thanh niên, sinh viên này đáp lại rằng mình đi học về Triết Đông sao Linh Mục lại hỏi về Triết Tây.  Linh Mục Bửu Dưỡng cho hay muốn hỏi xem sinh viên đó nghĩ gì về thanh niên.  Vì thế, các học trò đều tôn xưng Linh Mục Bửu Dưỡng không chỉ là Cha, chủ các con chiên, mà còn là Thượng Đế đối các học trò của ông.  Nói thế cũng đúng thôi, bởi Linh Mục Bửu Dưỡng được xem là người đồng sáng lập với Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục ra ban Triết Đông tại Đại Học Văn Khoa Sàigòn từ những năm khởi đầu.  Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục là tác giả của các bộ sách mà sinh viên học triết nào cũng phải đọc và tham khảo như Lịch Sử Triết Học Đông Phương, Lịch sử Tư Tưởng Việt Nam, Thiền Học Việt Nam, Triết học Thiền của Trần Thái Tông  

Đại Học Văn Khoa Sài Gòn 1957-1975

Nhắc đến bài giảng được ưa thích của Linh Mục Bửu Dưỡng về Chữ Thành [sic] (Thành Ý) làm tôi nhớ lại một lời bình giải khác của tác giả Hoàng Văn Chí mà tôi đã hân hạnh được thụ giáo.  Theo ông Hoàng Văn Chí, chữ Thành ở đây là động từ có nghĩa là Hoàn Thành, Kiện Toàn, đúc kết … chứ không phải là danh từ chỉ tính thành thực, không gian dối.  Theo ông Hoàng Văn Chí, tính thành thật đâu có tác động gì đến việc tổng hợp các ý tưởng đã thu nhận được, đúng về mặt nghiên cứu và trước tác.  Sách vở đã truyền tụng cả hàng trăm năm nay ý nghĩa sai lạc về chữ Thành này, và cứ như thế, bao thế hệ đã hiểu sai một đề mục quan trọng trong chương trình học tập và thực hành Khổng học.   Quả thật đến giờ phút này, tôi thấy hầu hết các ấn phẩm liên quan đến bài học về Thành Ý vẫn còn tiếp tục lưu truyền sự giải thích sai lạc này!!!

Linh Mục Bửu Dưỡng tuy thế rất yêu thương và che chở cho học trò, chính ông đã can thiệp với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sửa đổi chương trình bắt các sinh viên đi huấn luyện quân sự tại các quân trường trong 1 tháng mỗi dịp hè, là việc lợi bất cập hại, tạo ra nhiều khó khăn cho các sinh viên.  Sau khi thay đổi quyết định, ở một số trường, sinh viên đã chỉ học tập quân sự tại chỗ.

Ban Triết Đông còn có các thầy như ông Giản Chi, dạy về Triết Trung Hoa, bao gồm từ Liệt Tử, Mặc Tử, Tuân Tử, Hàn Phi Tử ….các vị Thượng Tọa Phật Giáo như Thích Quảng Liên, Thích Quảng Độ dạy về Triết học Phật Giáo, ông Thu Giang Nguyễn Duy Cần dạy về Trang Tử, Lão Tử, Phật Học Tinh Hoa … Các sách giáo khoa của giáo sư Nguyễn Duy Cần thật súc tích, thể hiện sự uyên bác của ông.  Gương mặt của ông thể hiện một hình ảnh của vị “tiên phong đạo cốt”, lúc nào cũng thật hòa nhã và tận tình giảng dạy cho học trò.  Giáo Sư Lê Xuân Khoa giảng dạy về triết học Ấn Độ.  Cho đến nay tôi thấy chưa có quyển sách nào về triết học Ấn Độ hay hơn quyển Nhập Môn Triết Học Ấn Độ của ông mà các học trò được thụ giáo.  Cũng có một số tu sĩ khác của cả Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo phụ trách các môn học khác mà tôi không có dịp theo học.

Bên ngoài môi trường học thuật của Đại Học Văn Khoa, phải kể đến khối tác phẩm triết học và tôn giáo có thể nói là nhiều nhất của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, trong mục đích hiện đại hóa và Việt hóa Phật Giáo và lịch sử Việt Nam, như qua tác phẩm Văn Lang Dị Sử.  Mặt khác, trong tư tưởng của Phái Tiếp Hiện của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh cũng lấp lánh các ảnh hưởng của Triết Học tây Phương như hiện sinh chủ nghĩa thời hậu Thế Chiến II.  Một điều rõ ràng là phải nhìn nhận Thiền Sư Thích Nhất Hạnh là một nhà tư tưởng Việt Nam trong thế kỷ qua được hay biết và có ít nhiều ảnh hưởng trong dòng tư tưởng triết học/tôn giáo của Tây Phương.

Về Triết Tây,  các bài giảng về Heidegger của giáo sư Lê Tôn Nghiêm, Luận Lý Toán Học của giáo sư Trần Thái Đỉnh, về hiện tượng luận của Husserl của giáo sư Lê Thành Trị … dẫn dắt các học trò vào mê hồn trận của tư tưởng Tây Phương, mỗi học thuyết đều có vẻ hợp lý riêng biệt của nó, những khi nhìn toàn cảnh, không thể nào tạo ra một bức tranh tổng hợp hữu lý, mà ngược lại có chứa đựng  nhiều phần các sắc thái đối chọi nhau.   Tuy thích thú khám phá, các học trò khó tránh khỏi các cơn đau đầu khi lĩnh hội.  Học Triết Tây rất dễ bị “tẩu hỏa nhập ma,” bọn sinh viên chúng tôi khi đó vẫn kháo nhau như thế.

Quan trọng nhất là các giáo sư Nguyễn Văn Trung, Trần Văn Toàn …. Giáo Sư Nguyễn Văn Trung đã từng là Khoa Trưởng Đại Học Văn Khoa, Trưởng Ban Triết Tây là người đã có công giới thiệu, quảng bá các trào lưu tư tưởng và các tác giả triết học và văn chương Tây Phương cho các thế hệ môn đồ và người đọc Việt Nam trong các thập niên 1960, 1970.  Là một trí thức Công Giáo, ông đã tham gia vào các phong trào chống chiến tranh, kêu gọi hòa giải dân tộc ….trong khi giảng dạy về triết học Karl Marx tại các trường đại học.  Cho đến nay, thật khó tìm được tác phẩm nào về tư tưởng Karl Marx khúc chiết hơn các giảng khóa của các giáo sư Nguyễn Văn Trung, Trần Văn Toàn… Việc cho phép giảng dạy về tư tưởng cộng sản thời đó cho thấy khía cạnh khai phóng, tự do tư tưởng của chế độ Việt Nam Cộng Hòa ngay dù trong thời kỳ giao chiến với ý thức hệ này.

          Giáo Sư Nguyễn Văn Trung nổi tiếng hơn ngoài môi trường đại học với các tác phẩm nghiên cứu về văn học, triết học như bộ Lược khảo văn học (ba tập, 1963-1968), Vụ án Truyện Kiều (1972), Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc (1974), Trường hợp Phạm Quỳnh (1974), Chủ đích Nam Phong (1975), Câu đố Việt Nam (1986), Những áng văn quốc ngữ đầu tiên: Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản (1987), Biện chứng giải thoát trong Phật giáo (1958), Người Công giáo trước thời đại (đồng tác giả, 1961), Lương tâm Công giáo và công bằng xã hội (đồng tác giả, 1963), Nhận định (6 tập viết và in trước 1975, 4 tập sau 1975), Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam: thực chất và huyền thoại (1963), Góp phần phê phán giáo dục và đại học (1967) …

          Tôi nhớ Nhà Thơ Nguyên Sa Trần Bích Lan cũng có thời giảng dạy tại ban Triết, Đại Học Văn Khoa, nhưng tiếc không được thụ giáo ông, cũng như một số giảng viên khác.  Các môn đồ cho biết Thi Sĩ Nguyên Sa còn có tài dạy học, vì học trò rất dễ thông hiểu, và rất dễ ghi nhớ những gì ông đã thuyết giảng.

          Nhà biên khảo Đặng Phùng Quân là thế hệ thụ giáo và tiếp nối việc giới thiệu và quảng bá các tư tưởng triết học Tây Phương sau những bậc thầy như Giáo Sư Nguyễn Văn Trung, Lê Tôn Nghiêm, Trần Thái Đỉnh …  Đặng Phùng Quân sáng tác và nghiên cứu Triết trước và sau năm 1975.  Sau khi định cư tại Hoa Kỳ đầu thập niên 1980, ông tiếp tục công việc biên khảo về triết học tại hải ngoại, cộng tác mật thiết với Gió O cho đến những ngày cuối đời.  

 Ngô Bắc, Tháng 7, 2023

Khu vực góc đường Cường Để và đại lộ Thống Nhất, gồm 3 trường đại học Sài Gòn, Văn Khoa, Dược Khoa và Nông Lâm Súc trước năm 1975
photo: Gettyimages

HỒI KÝ CỦA MỘT NGƯỜI KẸT LẠI HÀ NỘI SAU 1954,

Chế độ Cộng Sản chỉ đáng nhìn bằng nửa con mắt!
Tác giả: Tựdo Nguyễn Văn Luận
Ông Hòa là cựu Sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, bị Cộng sản bắt đi tù năm 1975, sang Mỹ theo diện HO. Tôi gặp ông tại một tiệc cưới, trở thành bạn, thường gặp nhau bởi cùng sở thích, nói chuyện văn chương, thời thế, dù trong quá khứ ông sống tại miền Nam, tôi ở xứ Bắc.
Một lần tới thăm, cháu Thu Lan, con ông Hòa hỏi tôi: “Bác ở Hà Nội mà cũng đi tị nạn à ?”
Nghe hỏi tự nhiên nên tôi chỉ cười: “Cái cột đèn mà biết đi, nó cũng đi, nữa là bác!”
Thực ra tôi đã không trốn thoát được từ lần đầu “vượt tuyến” vào miền Nam. Rồi thêm nhiều lần nữa và 2 lần “vượt biển”, vẫn không thoát. Chịu đủ các “nạn” của chế độ cộng sản trong 27 năm ở lại miền Bắc, tôi không tị nạn, mà đi tìm Tự Do, trở thành thuyền nhân, đến nước Mỹ năm 1982.
Sinh trưởng tại Hà Nội, những năm đầu sống ở Mỹ, tôi đã gặp nhiều câu hỏi như cháu Thu Lan, có người vì tò mò, có người giễu cợt .
Thời gian rồi cũng hiểu nhau.
Tôi hằng suy nghĩ và muốn viết những giòng hồi tưởng, vẽ lại bức tranh Hà Nội xưa, tặng thế hệ trẻ, và riêng cho những người Hà Nội di cư.
Người dân sống ở miền Nam trù phú, kể cả hàng triệu người di cư từ miền Bắc, đã không biết được những gì xảy ra tại Hà Nội, thời người cộng sản chưa mặc com-lê, đeo cà-vạt, phụ nữ không mặc áo dài.
Hiệp định Geneva chia đôi nước Việt. Cộng sản, chưa lộ mặt là Cộng sản, tràn vào miền Bắc tháng 10 năm 1954. Người Hà Nội đã “di cư” vào miền Nam, bỏ lại Hà Nội hoang vắng, tiêu điều, với chính quyền mới là Việt Minh, đọc tắt lại thành Vẹm. Vì chưa trưởng thành, tôi đã không hiểu thế nào là … Vẹm!
Khi họ tiếp quản Hà Nội, tôi đang ở Hải phòng. Dân đông nghịt thành phố, chờ tầu há mồm để di cư.
Trước Nhà Hát Lớn, vali, hòm gỗ, bao gói xếp la liệt. Lang thang chợ trời, tôi chờ cha tôi quyết định đi Nam hay ở lại.
Hiệp định Geneva ghi nước Việt Nam chỉ tạm thời chia cắt, hai năm sau sẽ “Tổng tuyển cử” thống nhất.
Ai ngờ cộng sản miền Bắc “tổng tấn công” miền Nam!
Gia đình lớn của tôi, không ai làm cho Pháp, cũng không ai theo Việt Minh. Cha tôi làm chủ một hãng thầu, nghĩ đơn giản là dân thường nên ở lại. Tôi phải về Hà Nội học.
Chuyến xe lửa Hà Nội “tăng bo” tại ga Phạm Xá, nghĩa là hai chính quyền, hai chế độ, ngăn cách bởi một đoạn đường vài trăm mét, phải đi bộ hoặc xe ngựa. Người xuống Hải phòng ùn ùn với hành lý để đi Nam, người đi Hà Nội là con buôn, mang xăng về bán. Những toa tầu chật cứng người và chất cháy, từ chai lọ đến can chứa nhà binh, leo lên nóc tầu, bíu vào thành toa, liều lĩnh, hỗn loạn …
Tới cầu Long Biên tức là vào Hà Nội. Tầu lắc lư, người va chạm người. Thằng bé ù chạc 15 tuổi, quắc mắt nhìn tôi:
“Ðề nghị đồng chí xác định lại thái độ, lập trường tư tưởng!”
Tôi bàng hoàng vì thứ ngoại ngữ Trung quốc, phiên âm thành tiếng Việt, nghe lần đầu không hiểu, để rồi phải “học tập” suốt 20 năm, “ngoại ngữ cộng sản”: “đấu tranh”, “cảnh giác”, “căm thù” và …”tiêu diệt giai cấp”! (Thứ ngôn ngữ này tôi sẽ ghi trong ngoặc kép).
Hà Nội im lìm trong tiết đông lạnh giá, người Hà Nội e dè nghe ngóng từng “chính sách” mới ban hành.
“Cán bộ” và “bộ đội” chỉ khác nhau có ngôi sao trên mũ bằng nan tre, phủ lớp vải mầu cỏ úa, gọi là “mũ bộ đội”, sau này có tên là “nón cối”. Hà Nội “xuất hiện” đôi dép “Bình Trị Thiên”, người Bắc gọi là “dép lốp”, ghi vào lịch sử thành “dép râu”.
Chiếc áo dài duyên dáng, thướt tha của thiếu nữ Hà Nội được coi là “biểu hiện” của “tư sản, phong kiến”, biến mất trong mười mấy năm sau, vì “triệt để cách mạng”. Lần đầu tiên, “toàn thể chị em phụ nữ” đều mặc giống nhau: áo “sơ mi”, quần đen. Hãn hữu, như đám cưới mới mặc sơ mi trắng vì “cả nước” không có xà phòng.
Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số “lớp Chín hậu phương”, năm sau sẽ sát nhập thành “hệ mười năm”.
Số học sinh “lớp Chín” này vào lớp không phải để học, mà là “tổ chức Hiệu đoàn”, nhận “chỉ thị của Thành đoàn” rồi “phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!”
Họ truy lùng … đốt sách!
Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn “kiểm tra”, lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang “tập trung” tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm “phấn khởi”, lời hô khẩu hiệu “quyết tâm”, và “phát biểu của bí thư Thành đoàn”: tiểu thuyết của Tự Lực Văn Ðoàn là … “cực kỳ phản động!” Vào lớp học với những “phê bình, kiểm thảo … cảnh giác, lập trường”, tôi đành bỏ học.
Chiếc radio Philip, “tự nguyện“ mang ra “đồn công an”, thế là hết, gia tài của tôi!
Mất đời học sinh, tôi bắt đầu cuộc sống đọa đày vì “thành phần giai cấp”, “sổ hộ khẩu”, “tem, phiếu thực phẩm”, “lao động nghĩa vụ hàng tháng”. Ðây là chính sách dồn ép thanh niên Hà Nội đi “lao động công trường”, miền rừng núi xa xôi. Tôi chỉ bám Hà Nội được 2 năm là bị “cắt hộ khẩu”… đi tù!
Tết đầu tiên sau “tiếp quản”, còn được gọi là “sau hòa bình lập lại”, Hà Nội mơ hồ. Những bộ mặt vàng võ, áo quần nhầu nát, xám xịt, thái độ “ít cởi mở”, từ “nông thôn” kéo về tiếp quản chiếm nhà người Hà Nội di cư.
Người Hà Nội ở lại bắt đầu hoang mang vì những tin dồn và “chỉ thị”: ăn Tết “đơn giản, tiết kiệm”. Hàng hóa hiếm dần, “hàng nội” thay cho “hàng ngoại”.
Âm thầm, tôi dạo bước bên bờ Hồ Gươm, tối 30 Tết. Tháp Rùa, Cầu Thê Húc nhạt nhòa, ảm đạm, đền Ngọc Sơn vắng lặng. Chỉ có Nhà Thủy Tạ, đêm nay có ca nhạc, lần cuối cùng của nghệ sĩ Hà Nội.
Ðoàn Chuẩn nhớ thương hát “Gửi người em gái miền Nam”, để rồi bị đấu tố là phong cách tiểu tư sản, rạp xinê Ðại Ðồng phố Hàng Cót bị “tịch thu”. Hoàng Giác ca bài “Bóng ngày qua”, bị kết tội thành “tề ngụy”, hiệu đàn nhỏ phố Cầu Gỗ phải dẹp, vào tổ đan mũ nan, làn mây, sống “tiêu cực” hết đời trong đói nghèo, khốn khổ.
Danh ca Minh Ðỗ, Ngọc Bảo, nhạc sĩ Tạ Tấn, sau này làm gì, sống ra sao, “phân tán”, chẳng ai còn dám gặp nhau, sợ thành “phản động tụ tập”.
“Chỉ thị Ðảng và Ủy ban Thành” “phổ biến rộng rãi trong quần chúng” là diệt chó. “Toàn dân diệt chó”, từ thành thị đến “nông thôn”. Gậy gộc, giây thừng, đòn gánh, nện chết hoặc bắt trói, rồi đầu làng, góc phố “liên hoan tập thể”.
Lý do giết chó, nói là trừ bệnh chó dại, nhưng đó là “chủ trương”, chuẩn bị cho đấu tố “cải tạo tư sản” và “cải cách ruộng đất”. Du kích, công an rình mò, “theo dõi”, “nắm vững tình hình” không bị lộ bởi chó sủa. Mọi nơi im phăng phắc ban đêm, mọi người nín thở đợi chờ thảm họa.
Hà Nội đói và rách, khoai sắn chiếm 2 phần tem gạo, 3 mét vải “cung cấp” một năm theo “từng người trong hộ”. Mẹ may thêm chiếc quần “đi lao động “ thì con nít cởi truồng. Người thành thị, làm cật lực, xây dựng cơ ngơi, có ai ngờ bị quy là “tư sản bóc lột”? nhẹ hơn là “tiểu tư sản”, vẫn là “đối tượng của cách mạng”.
Nông dân có dăm sào ruộng đất gia truyền vẫn bị quy là “địa chủ bóc lột, cường hào ác bá ”!
Giáo sư Trương văn Minh, hiệu trưởng trường Tây Sơn, ngày đầu “học tập”, đã nhẩy lầu, tự tử.
“Tư sản Hà Nội” di cư vào Nam hết , chẳng còn bao nhiêu nên “công tác cải tạo được làm “gọn nhẹ” và “thành công vượt mức”, nghĩa là mang bắn một, hai người “điển hình”, coi là “bọn đầu xỏ” “đầu cơ tích trữ”, còn thì “kiểm kê”, đánh “thuế hàng hóa”, “truy thu”, rồi “tịch thu” vì “ngoan cố, chống lại cách mạng!”
Báo, đài hàng ngày tường thuật chuyện đấu tố, kể tội ác địa chủ, theo bài bản của “đội cải cách” về làng, “bắt rễ” “bần cố nông”, “chuẩn bị thật tốt”, nghĩa là bắt học thuộc lòng “từng điểm”: tội ác địa chủ thì phải có hiếp dâm, đánh đập, bắt con ở đợ, “điển hình” thì mang thai nhi cho vào cối giã, nấu cho lợn ăn, đánh chết tá điền, hiếp vợ sặc máu …! Một vài vụ, do “Ðảng lãnh đạo”, “vận động tốt”, con gái, con dâu địa chủ, “thoát ly giai cấp”, “tích cực” “tố cáo tội ác” của cha mẹ.
Cảnh tượng này thật não nùng! Lời Bác dạy suốt mấy mươi năm: “Trung với Ðảng, hiếu với dân …” là vậy!
“Bần cố nông” cắm biển nhận ruộng được chia, chưa cấy xong hai vụ thì phải “vào hợp tác”, “làm ăn tập thể”, ruộng đất lại thu hồi về “cộng sản”.
“Toàn miền Bắc” biết được điều “cơ bản” về Xã hội chủ nghĩa là… nói dối!
Mọi người, mọi nhà “thi đua nói dối”, nói những gì Ðảng nói. Nói dối để sống còn, tránh bị “đàn áp”, lâu rồi thành “nếp sống”, cả một thế hệ hoặc lặng câm, hoặc nói dối, vì được “rèn luyện” trong xã hội ngục tù, lấy “công an” làm “nòng cốt” chế độ.
Ở Mỹ, ai hỏi bạn: “How are you?”, bạn trả lời: “I’m fine, thank you.”
Ở miền Bắc VN thời đại Hồ chí Minh, “cán bộ” hỏi: “Công tác” thế nào?” Dù làm nghề bơm xe, vá lốp, người ta trả lời, “… rất phấn khởi, ra sức thi đua, lập thành tích chào mừng … các nước anh em!”
Bị bắt bên bờ sông Bến Hải, giới tuyến chia hai miền Nam Bắc, năm 19 tuổi, tôi bị “bộ đội biên phòng”giong về Lệ Thủy, được “tự do” ở trong nhà chị “du kích” hai ngày, đợi đò về Ðồng Hới. Trải 9 trại giam nữa thì về tới Hỏa Lò Hà Nội, vào xà lim. Cảnh tù tội chẳng có gì tươi đẹp, xã hội cũng là một nhà tù, không như báo, đài hằng ngày kêu to “Chế độ ta tươi đẹp”.
Cơ hàn thiết thân, bất cố liêm sỉ, người tù “biến chất”, người tứ chiến kéo về, nhận là người Hà Nội, đói rét triền miên nên cũng “biến chất”!
Ðối xử lọc lừa, gia đình, bè bạn, họ hàng, “tiếp xúc” với nhau phải “luôn luôn cảnh giác”.
Hà Nội đã mất nền lễ giáo cổ xưa, Hà Nội suy sụp tinh thần vì danh từ “đồng chí”!
Nằm trong xà lim, không có ngày đêm, giờ giấc, nghe tiếng động mà suy đoán “tình hình”. Ánh điện tù mù chiếu ô cửa sổ nhỏ song sắt, cao quá đầu, tôi đứng trên xà lim, dùng ngón tay vẽ chữ lên tường, “liên lạc” được với Thụy An ở xà lim phía trước.
Thụy An là người Hà Nội ở lại, “tham gia hoạt động “Nhân Văn Giai Phẩm, đòi tự do cho văn nghệ sĩ, sau chuyển lên rừng, không có ngày về Hà Nội. Bà phẩn uất, đã dùng đũa tre chọc mù một mắt, nói câu khí phách truyền tụng: “Chế độ này chỉ đáng nhìn bằng nửa con mắt!”
Người du lịch Việt Nam, ít có ai lên vùng thượng du xứ Bắc, tỉnh Lào Cai, có trại tù Phong Quang hà khắc, có thung lũng sâu heo hút, có tù chính trị chặt tre vầu theo “định mức chỉ tiêu”. Rừng núi bao la, tiếng chim “bắt cô trói cột”, nấc lên nức nở, tiếng gà gô, thức giấc, sương mù quanh năm.
Phố Hàng Ðào Hà Nội, vốn là “con đường tư sản”, có người trai trẻ tên Kim, học sinh Albert Sarraut. Học trường Tây thì phải chịu sự “căm thù đế quốc” của Ðảng, “đế quốc Pháp” trước kia và “đế quốc Mỹ” sau này.
Tù chính trị nhốt lẫn với lưu manh, chưa đủ một năm, Kim Hàng Ðào “bất mãn” trở thành Kim Cụt, bị chặt đứt cánh tay đến vai, không thuốc, không “nhà thương” mà vẫn không chết.
Phố Nguyễn công Trứ gần Nhà Rượu, phía Nam Hà Nội, người thanh niên đẹp trai, có biệt danh Phan Sữa, giỏi đàn guitar, mê nhạc Ðoàn Chuẩn, đi tù Phong Quang vì “lãng mạn tiểu tư sản”. Không hành lý nhưng vẫn ôm theo cây đàn guitar. Chỉ vì “tiểu tư sản”, không “tiến bộ”, không có ngày về …! Ba tháng “kỷ luật”, Phan Sữa hấp hối, khiêng ra khỏi Cổng Trời cao vút, gió núi mây ngàn, thì tiêu tan giấc mơ Tình nghệ sĩ!
Người già Hà Nội chết dần, thế hệ thứ hai, “xung phong”, “tình nguyện” hoặc bị “tập trung” xa rời Hà Nội. Bộ công an “quyết tâm quét sạch tàn dư đế quốc, phản động”, nên chỉ còn người Hà Nội từ “kháng chiến” về, “nhất trí tán thành” những gì Ðảng … nói dối!
Tôi may mắn sống sót, dù mang lý lịch “bôi đen chế độ”, “âm mưu lật đổ chính quyền”, trở thành người “Hà Nội di cư”, 10 năm về Hà Nội đôi lần, khó khăn vì “trình báo hộ khẩu”, “tạm trú tạm vắng”. “Kinh nghiệm bản thân”, “phấn đấu vượt qua bao khó khăn, gian khổ”, số lần tù đã quên trong trí nhớ, tôi sống tại Hải Phòng, vùng biển.
Hải Phòng là cơ hội “ngàn năm một thuở” cho người Hà Nội “vượt biên” khi chính quyền Hà Nội chống Tầu, xua đuổi “người Hoa” ra biển, khi nước Mỹ và thế giới đón nhận “thuyền nhân” tị nạn.
Năm 1980, tôi vào Sài Gòn, thành phố đã mất tên sau “ngày giải phóng miền Nam”. Vào Nam, tuy phải lén lút mà đi, nhưng vẫn còn dễ hơn “di chuyển” trong các tỉnh miền Bắc trước đây. Tôi bước trên đường Tự Do, hưởng chút dư hương của Sài gòn cũ, cảnh tượng rồi cũng đổi thay như Hà Nội đã đổi thay sau 1954 vì “cán ngố” cai trị.
Dân chúng miền Nam “vượt biển” ào ạt, nghe nói dễ hơn nên tôi vào Sài Gòn, tìm manh mối. Gặp cha mẹ ca sĩ Thanh Lan tại nhà, đường Hồ Xuân Hương, gặp cựu sĩ quan Cộng Hòa, anh Minh, anh Ngọc, đường Trần Quốc Toản, tù từ miền Bắc trở về. Ðường ra biển tính theo “cây”, bảy, tám cây mà dễ bị lừa. Chị Thanh Chi (mẹ Thanh Lan) nhìn “nón cối” “ngụy trang” của tôi, mỉm cười: “Trông anh như cán ngố, mà chẳng ngố chút nào!”
“Hà Nội, trí thức thời Tây, chứ bộ ! Cả nước Việt Nam, ai cũng sẽ trở thành diễn viên, kịch sĩ giỏi”.
Về lại Hải Phòng với “giấy giới thiệu” của “Sở giao thông” do “móc ngoặc” với “cán bộ miền Nam” ở Saigòn, tôi đã tìm ra “biện pháp tốt nhất” là những dân chài miền Bắc vùng ven biển. Ðã đến lúc câu truyền tụng “Nếu cái cột điện mà biết đi ….”, dân Bắc “thấm nhuần” nên “nỗ lực” vượt biên.
Năm bốn mươi tư tuổi, tôi tìm được Tự Do, định cư tại Mỹ, học tiếng Anh ngày càng khá, nhưng nói tiếng Việt với đồng hương, vẫn còn pha chút “ngoại ngữ Việt cộng” năm xưa.
Cuộc sống của tôi ở Việt Nam đã đến “mức độ” khốn cùng, nên tan nát, thương đau. Khi đã lang thang “đầu đường xó chợ” thì mới đủ “tiêu chuẩn” “xuống thành phần”, lý lịch có thể ghi là “dân nghèo thành thị”, nhưng vẫn không bao giờ được vào “công nhân biên chế nhà nước”.
Tôi mang nhẫn nhục, “kiên trì” sang Mỹ, làm lại cuộc đời nên “đạt kết quả vô cùng tốt đẹp”, “đạt được nguyện vọng” hằng ước mơ!
Có người “kêu ca” về “chế độ tư bản” Mỹ tạo nên cuộc sống lo âu, tất bật hàng ngày, thì xin “thông cảm” với tôi, ngợi ca nước Mỹ đã cho tôi nhân quyền, dân chủ, trở thành công dân Hoa kỳ gốc Việt, hưởng đầy đủ “phúc lợi xã hội”, còn đẹp hơn tả trong sách Mác Lê về giấc mơ Cộng sản.
Chủ nghĩa cộng sản sụp đổ rồi. Cộng sản Việt Nam bây giờ “đổi mới”. Tiếng “đổi” và “đổ” chỉ khác một chữ “i”. Người Việt Nam sẽ cắt đứt chữ “i”, dù phải từ từ, bằng “diễn biến hòa bình”.
Chế độ Việt cộng “nhất định phải đổ”, đó là “quy luật tất yếu của lịch sử nhân loại”.
Ôi! “đỉnh cao trí tuệ, một mớ danh từ !

Thursday, June 12, 2025

Một Chiều Mưa Pleiku Truyện ngắn Trường Sơn Lê Xuân Nhị

Tặng 3 nhà văn mặc áo lính ở Orange County, California: Phan Nhật Nam, Phạm Tín An Ninh, Trạch Gầm
Quí vị là những anh hùng của tôi.  Tôi nói thật, không nịnh bợ, không mua lòng…
 
Vì thương quê hương anh lặng lẽ bước chân đi
Vì yêu non sông tôi gạt nước mắt phân ly
Từng cơn mưa vẫn rơi não nề
Anh nói một năm nữa anh về…
 
Trích Hai Mùa Mưa
 
Trong một cái quán nhỏ không xa phi trường Cù Hanh lắm của thành phố Pleiku, một buổi kia, có một tiệc rượu nhỏ giữa hai ông phi công và mấy ông quan bộ binh của sư đoàn 23 bộ binh…
Bộ binh dưới đất mà ngồi uống bia với phi công trên trời thì khỏi nói, vui phải biết.  Và cũng ồn ào nữa.   Tiếng cụng ly, xen lẫn tiếng chửi thề, xen lẫn những tiếng nhai nhồm nhoàm, xen lẫn với tiếng nhạc từ hai chiếc loa của sàn máy Akai ở bên trong, làm thành một thứ âm thanh rất là vui nhộn, rất là lính…
Tiệc rượu của các quan bắt đầu rất là vô tình…
Trung uý Trung, một tay phi công chẳng hiền lành gì, hôm ấy không phải đi bay, rủ bạn mình, trung uý Sao, trái ngược với Trung, là một tay rất hiền lành, ra phố ăn sáng.  Trung uý Trung chẳng hiền lành vì xuất thân là một anh học trò … học thì ít mà phá thì nhiều, không ai chịu nổi nên mới bỏ nhà đi lính.  Không hiểu phép lạ nào lại cho hắn vào Không Quân, được lái tàu bay.  Trong khi đó, trung uý Sao vốn là một giáo sư Pháp Văn, dạy trường Tây đàng hoàng, nhưng bị động viên, đi Thủ Đức rồi vào Không Quân.  Trung uý Sao ăn nói lịch sự, đi đứng chửng chạc, thích suy tư, ít khi cười, không hút thuốc cũng ít uống rượu.  Sao lại có thú mê sách, thích đọc sách, đi đâu cũng kè kè một cuốn sách theo, lúc thì tiếng Việt, lúc thì tiếng Anh hoặc Pháp.  Khác nhau như thế, nhưng không hiểu tại sao, hai người thường đi bay và đi chơi chung với nhau, lại thân thiết nữa mới là chuyện lạ.
Mới đầu là chỉ tính ăn sáng thôi, nhưng cuộc đời của những người lính, nhất là những người lính bạt mạng như Trung thì cuộc đời luôn luôn có những thay đổi bất ngờ.  Bữa ăn sáng đã biến thành buổi nhậu thịt chó vì Trung thay đổi ý kiến vào phút chót.
Trung phải khó khăn lắm mới mượn được chiếc xe díp của biệt đội Pleiku để ra đây vì ông biệt đội trưởng, đại úy Ba, là một người rất cẩn thận.  Ông biết giao xe díp cho thằng Trung ra phố Pleiku thì không biết lúc nó lái xe về, chiếc xe díp của chính phủ có còn là… chiếc xe díp hay không?  Không phải ông sợ vu vơ, ông đã có kinh nghiệm một lần.
Cách đây không lâu, Trung cũng mượn xe díp đi phố như vậy.  Nhưng ngày hôm sau, đại úy Ba cất cánh sớm, leo lên xe thì nhận ra là cái phần dưới chân ga của chiếc xe díp bị thủng một lỗ lớn cỡ vài bàn tay.  Đại úy Ba giận run người nhưng phải cất cánh liền nên chưa làm gì được.  Đi bay về thì cơn giận đã bớt đi nhiều, đại úy gọi Trung ra, làm mặt nghiêm hỏi:
-Ông Trung, ông muốn tôi què cẳng hay sao mà lại đục thủng một lỗ lớn ngay dưới bàn đạp xe hơi vậy.  May mà chân tôi chưa đạp xuống đất.  Mà làm cách nào ông lại đục được một cái lỗ to và vuông vức như thế?  Xe chính phủ hư tôi không tiếc, nhưng tôi chỉ có một cặp giò…
Dĩ nhiên là Trung đã dấu chuyện mình uống rượu say, lái xe lên lể, vừa nhăn nhó vừa cười cầu tài:
-Em lái xe mãi lo nghĩ chuyện đất nước nên bị lạc tay lái, lủi lên cỏ, nào ngờ cán qua một cái trụ sắt, kẹt luôn.  Tụi em phải xuống xe, phá chỗ bị kẹt, kéo xe ra rồi đem đi sửa.  Nhưng thợ đang làm nửa chừng thì trời sập tối, tụi em phải về, tính mai ra sửa tiếp, đại úy thông cảm…  vân vân.
-Mẹ bố, uống rượu say lái xe để xe thủng một lỗ như thế mà còn đem tổ quốc vào được để biện mình cho mình thì tôi chịu thua ông, tôi không còn biết dùng lời lẽ nào để nói chuyện với ông…
Đại úy dừng nói ở đó vì ông không còn lời gì để nói thật.  Ông chỉ muốn ăn tươi nuốt sống cái thằng phi công du côn đang đứng trước mặt mình, nhưng biết là mình không thể làm thế được.  Mà đem hắn đi nhốt thì lấy ai mà đi bay thế cho hắn đây, lại phải ký giấy ký tờ, thủ tục nhà binh lẩm cẩm này kia, rắc rối bỏ mẹ.  Và chửi hắn thì càng chỉ tốn nước bọt và thì giờ của mình vì hắn có coi ra gì đâu, câu chửi từ tai này liền sang tai kia, miệng lúc nào cũng cười hề hề như chẳng có việc gì xảy ra.  Cuối cùng, ngài đại úy chỉ buông được một câu đau khổ:
-Đù mẹ, sao mà tôi chán ông trung uý này quá…  Số tôi đen đủi mới gặp ông.  Thế thì tôi cấm ông từ này về sau không được lái xe díp nữa, cấm ông không được đi chơi đêm, cấm ông không được … vân vân và vân vân.
Trung uý Trung vung tay chào, chẳng coi những cái cấm của ngài đại úy ra gì cả, miệng còn cười cười rất là tươi tỉnh:
-Xin tuân lệnh đại úy…
Nhìn thấy nụ cười … đểu cáng mất dạy của thằng đàn em, Đại úy Ba điên tiết, hét lên:
-Tuân lệnh cái … con mẹ.  Ông đi khuất mắt tôi đi, đừng có chọc cho tôi nổi giận nữa, tôi gọi quân cảnh tới chở ông đi nhốt liền bây giờ…
Nghe nói đi nhốt, Trung liền quay gót bước đi liền.  Hắn đi rồi, đại úy Ba còn đứng nhìn theo, chửi đổng cho mọi người nghe:
-Mẹ, trời đất loạn rồi nên phi đoàn bây giờ mới có tụi phi công nhí vô kỹ luật.  Đúng là vô kỹ luật chưa từng có trong lịch sử cái phi đoàn này …
Nhưng sáng hôm đó, Trung lại mượn được xe díp của biệt đội lần nữa mới là tài.  Trung mượn được, trước hết, vì đại úy Ba tính tình dễ dãi và có tật hay quên.  Thứ hai, ông thấy phi công trong biệt đội buồn quá, cho họ đi chơi bớt để đỡ nhìn thấy họ đi bay suốt ngày giữa hòn tên mũi đạn rồi về nhà, chỉ nằm chèo queo, nhớ nhà, nhớ vợ, chẳng có gì để giải buồn…  Thêm vào đó, trung uý Trung bay bỗng rất đẹp, ngay cả tướng vùng cũng khen lia lịa.
Nhưng trước khi đi, đại úy Ba vẫn còn ráng vớt vát, ân cần dặn dò, giọng như là năn nỉ:
-Ông đừng có uống nhiều quá nhe, cả biệt đội chỉ có một chiếc xe này để chở anh em đi bay…. Vân vân
Trung nhăn nhó:
-Giữa tháng rồi, tiền đâu mà uống nữa anh Ba.  Trong túi chỉ cỏn tiền cho mỗi đứa hai chai bia lớn và một đĩa rựa mận, một đĩa chả chìa.  Thuốc lá cũng gần hết rồi, không chừng phải nhịn đây…
Nghe than thở đau đớn như thế thì ai mà chẳng động lòng, Đại úy Ba gật đầu ngay.  Thằng nhỏ nói có lý.  Cuối tháng mới lãnh lương thì còn thịt bò xào với lại đồ biển này kia, nhưng giữa tháng thì chỉ còn đủ tiền để đi ăn thịt chó.
Quán thịt chó có tên là “Nai Đồng Quê”, nghe đồn rằng, do một người lính địa phương quân làm chủ.  Quán nhỏ, chỉ kê độ 10 cái bàn đóng bẳng gỗ thùng đạn, cái lớn cái nhỏ, cái cao cái thấp, chẳng sơn chẳng phết.  Có cái lại còn lòi cả đinh ra ngoài. 
Pleiku là một thành phố lính cho nên cái gì cũng nghèo hèn, quê kệch và đơn giản.  Hình như chủ quán, hoặc vì không có tiền, hoặc vì muốn quán có không khí lính cho nên mới bày biện như thế.  Nhưng trong một thành phố chỉ toàn là lính như Pleiku thì người ta rất dễ dãi, chẳng ai màn đến chuyện này.  Nhiều khi, ngồi ghế đóng bằng gỗ thùng đạn coi nó còn bụi đời hơn ghế thường…
Nhưng, dù giàu sang hay hèn mọn, lính hay không lính, có hai quy luật rất quan trọng mà thời đó ai cũng phải tuân theo nếu muốn mở quán cà phê.  Trước hết, quán phải có một cô hàng thật đẹp, hay hơi… đẹp cũng được, làm thu ngân để cho lính ngắm và tán tỉnh nếu cần.  Thứ hai, phải có một dàn máy Akai và cặp loa thật lớn để phát những bản nhạc thời trang lúc đó.
Quán Nai Đồng Quê này có đủ hai điều kiện trên, lại còn có món thịt chó giá phải chăng cho nên luôn luôn có khách.  Mỗi lần đi biệt phái Pleiku, Trung ít nhất phải ghé đây ít nhất là vài ba lần, không phải vì ghiền thịt chó mà nghiền những gì đi chung với thịt chó như rượu đế, tiếng chửi thề, tiếng ồn ào của lính…
Cô bán hàng, con gái của ông thượng sĩ chủ quán, tên là Trang, tuổi xuân thì mới lớn, đang còn đi học.  Nàng không đẹp lắm, chỉ dễ nhìn, nhưng trong một thế giới toàn là lính này, dễ nhìn thì được coi là tuyệt đẹp rồi.  Đặc biệt, cô hàng ngồi trên quầy luôn luôn có một cuốn sách hay truyện để đọc khi rảnh rổi.  Sách của nàng thường là sách do lính viết, như cuốn “Dọc Đường Số Một”, hay “Dấu Binh Lửa” của Phan Nhật Nam, “Đời Pháo Thủ” của Nguyên Vũ, vân vân
Thỉnh thoảng, khi không có lớp hoặc hai ngày cuối tuần, cô ra ngồi quán giúp bố.  Khỏi cần nói, mỗi khi cô hàng xuất hiện thì quán đông hẳn lên.  Quan cũng có mà lính cũng có, ngay cả các cậu học sinh nữa, không hiểu nhờ ai thông báo mà họ tới ngồi đầy quán.  Những giây phút quý báu ấy, bàn rượu của những tay ngỗ ngáo nhất của lính cũng bớt tiếng chửi thề đi.  Người ta ăn nói với nhau nhẹ nhàng hơn và lịch sự hơn.  Nơi mấy bàn cà phê gần quầy tính tiền, nơi bọn học sinh tóc dài đóng đô thì khỏi nói, ai nấy mặt mày tư lự như những chàng thi sĩ đang tìm vần thơ…
Trung thắng xe díp trước cửa tiệm cỡ 11 giờ sáng, khi quán vừa mở cửa không lâu.  Cái giấc 11 giờ sáng là lúc mà người ta ăn sáng cũng được mà ăn trưa hoặc … ăn nhậu cũng được.
Trung tắt máy chiếc xe díp, chưa thèm xuống xe vội, quay nhìn Sao hỏi:
-Mày còn bao nhiêu tiền?
-Cỡ 3 ngàn.
-Thuốc lá?
-Còn nửa gói.
-Vậy thôi à?
-Vậy là may rồi đó.  Biệt phái đã hơn 10 ngày rồi còn gì, dành dụm lắm mới được như thế.
Trung ngồi im trên xe, trầm ngâm, không nói gì, mặt mày bỗng trở nên táo bón.  Trung uý Sao thấy bạn như vậy, liền hỏi:
-Có gì không mày?
Trung lắc đầu:
-Không, chẳng có gì cả.  Tao chỉ còn 5 ngàn, đủ tiền ăn sáng nhưng không hiểu tại sao tới đây bây giờ lại đổi ý, chẳng muốn ăn sáng nữa.
Sao nói liền, mặt tươi hẳn lên:
-Tao cũng không đói lắm.  Vậy thì tụi mình đi, lái xe dạo phố Pleiku một vòng rồi về.
Trung lắc đầu, mặt mày lại càng trở nên táo bón nặng hơn:
-Đù mẹ nói như mày thì thế giới này làm gì có chiến tranh…
Sao ú ớ, không hiểu bạn mình muốn nói gì.  Trung tiếp:
-Tao không muốn ăn sáng mà lại muốn … nhậu thịt chó mới chết mẹ.  Đù mẹ tự nhiên nhìn thấy tấm biển “Nai Đồng Quê” với con chó mực trên bảng thì tao thấy hết thèm ăn sáng mà chỉ thèm một đĩa chả chìa và một xị rượu đế…  Đù mẹ, sống trên đời không ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ biết có mà ăn…
Sao chẳng lạ gì cái thằng phi công trời đánh này, và tính chàng vốn dễ dãi, quý bạn nên nói ngay:
-Thì mình vào nhậu thịt chó, có gì phải nhăn nhó vậy.
-Chỉ sợ không đủ tiền.
Sao nhíu mày tính toán một lúc rồi nói:
-5 ngàn của mày cộng thêm 3 ngàn của tao là 8 ngàn, bia chỉ có một ngàn một chai.  Tao không thích uống bia và cũng chẳng ăn thịt chó, mọi thứ để nhường hết cho mày.  Mày uống cỡ 2 chai bia là 2 ngàn, 5 ngàn thì vừa đủ cho 2 đĩa thịt chó. Vậy là còn dư cỡ một ngàn đồng…
Trung nhìn bạn, lắc đầu:
-Nói như mày thì thế giới càng có chiến tranh nặng.  Cỡ tao mà làm sao uống 2 chai bia được?  Hai chai thì chưa đủ để… mắc đái, nói gì đến say.
Sao tròn mắt:
-Ừ nhỉ, tao quên mất mày là tổ bợm rượu.  Thế thì mày tính uống mấy chai?
Trung lắc đầu buông một câu xanh dờn:
-Mẹ kiếp, đã mượn được xe díp của đại úy Ba ra đây mà không uống cỡ chục chai thì tao nhất định không phải là đại trượng phu, không xứng danh Nam tử.  Đù mẹ, chết sướng hơn…
Sao hốt hoảng như bị ai nhét vào đít một cục than:
-Con lạy ông, không có tiền mà đòi chơi sang, ông muốn đi tù chắc?
Trung tỉnh bơ:
-Thế mới có chuyện mà nói, thế mới có chiến tranh…
Sao chưa kịp nói gì thì Trung đã tiếp:
-Nhưng tao đã có cách rồi.
-Cách gì, mày tính đi ăn quịt hả.  Tao xin lỗi, nếu mày tính như thế thì lái xe chở tao đi về liền, giòng họ nhà tao mấy đời chưa hề ăn cắp hay ăn quịt của ai một đồng.  Tao không muốn bị rắc rối với pháp luật…
 Trung thò tay lột cái đồng hồ Seiko của mình ra đưa cho Sao coi:
-Cái đồng hồ này cũng cẩm được ít nhất từ 3 tới 5 ngàn.
Sao vẫn lắc đầu:
-Cũng không đủ,
Trung cười, chỉ tay vào cái đồng hồ của Sao đang đeo, miệng cười cười:
-Seiko của tao cộng với cái đồng hồ của mày thì đủ tiền cho buổi nhậu.
Sao khựng người lại, ú ớ:
-Ai bảo là tao sẽ cầm đồng hồ của tao cho mày uống rượu?  Mày có điên không?
-Không điên, nhưng tụi mình đâu có cần đồng hồ.  Đồng hồ, đối với phi công là một thứ … xa xí phẩm.  Này nhé, trên tàu bay đã có một cái đồng hồ, trong biệt đội cũng có treo một cái trong phòng hành quân, phi đoàn còn có mấy cái, treo đầy tường…  Không cần có đồng hồ đeo tay mình cũng vẫn biết được giờ giấc mà…
-Lý luận như mày thì tao cũng xin chịu thua.  Nhưng tao không muốn cẩm đồng hồ cho ai cả.  Lỡ vợ tao hỏi thì sao?
Trung cười:
-Mày nói đi biệt phái Pleiku tắm suối, để trên một hòn đá, gặp em Thượng kia đang tắm có cặp vú đẹp quá, để ý theo dõi nên bị nước cuốn trôi mất rồi.  Một tình cảnh rất là có lý, rất là lính, giống như trong … bài hát “Tình Thư Của Lính” vậy.  Mày có thể phịa thêm là tại cái đồng hồ khỉ gió đó, mày nhảy xuống nước tìm nó mà xém tí nữa bị chết đuối toi mạng.  Bảo đảm, vợ mày nghe như thế sẽ khóc và tha thứ cho chồng, có khi còn yêu thương chiều chuộng mày hơn xưa nữa…
-Con lạy ông, ông nghĩ đàn bà ai cũng dễ nghe như thế sao?  Đàn bà Thượng bây giờ văn mình rồi, đâu còn đi tắm suối để vú cho thiên hạ coi nữa.  Hơn nữa, vợ tao đáo để lắm, không dễ nghe như mày nói. 
-Mày là lính, đi biệt phái xa nhà, nói thế nào mà chẳng được?
-Thế hôm nào chuộc lại đồng hồ được thì nói sao đây?
-Nói nhờ một em bé người Thượng nhặt được, đưa lại.  Mày có thể phịa thêm là…
Sao lắc đầu:
-Con lạy ông, xin ông đừng nói nữa.  Nhưng bây giờ ở cái thành phố xa lạ này, ai dám cẩm đồng hồ cho tụi mình?
Trung cười hề hề, móc bóp ra một tấm cạc visit nhỏ, đen đúa và bẩn thỉu:
-Chuyện nhỏ bạn ta ơi.  Mày quên rằng tao là chuyên viên thượng đẳng việc cầm đồ để ăn nhậu.  Đây là tiệm cẩm đồ của anh Bảy, cũng không xa đây lắm, địa chỉ đây.  Tao quen anh Bảy, cựu lính Biệt Động Quân, nói mày là bạn của tao thì chả cẩm liền.  Ráng đòi hai cái cho được chừng 15 xấp thì càng tốt…
Sao cầm lấy tấm cạc visit, không biết phải phản ứng như thế nào, ngắm ngía rồi đút vào túi, lắc đầu ngán ngẩm.  Kể từ giây phút này, con xin giao phó mọi chuyện cho Trời đất…
Khuôn mặt Trung bây giờ đã hết táo bón, mở miệng cười hì hì:
-Lát nữa, khi gần tính tiền, mày lái xe đi cầm đồ, còn bây giờ thì tụi mình có quyền vào ăn nhậu mà chẳng sợ gì cả.  Mẹ kiếp, đời người mấy khi lại được vui như thế này?
Rồi Trung sửa lại áo bay, thắt lại khăn quàng cổ, miệng âm ỉ ca: “Tình yêu bay bướm là tình, tình yêu phi công…”
Từ phía ngoài, chỉ cần một cái liếc mắt là Trung đã nhìn thấy cô hàng ở bên trong và nhận ra luôn rằng hôm nay là ngày thứ Bảy.  Cô Trang chỉ có mặt ban ngày vào những ngày cuối tuần.  Dân Không Quân bay bổng chẳng theo ngày thứ nên đã từ lâu chàng chẳng còn nhận ra sự khác biệt giữa thứ Bảy Chủ Nhật hay ngày thường nữa.
Mới nhìn qua thì Trung nhận ra ngay con bé Trang, nhưng nhìn kỹ hơn thì trong quầy không phải chỉ có mình nó mà còn có thêm một người nữa.  Một cái áo len xanh và một áo trắng ngồi sát nhau sau quầy tính tiền.  Hai mái tóc thề và hai khuôn mặt với nước da trắng phau, nhất định phải là rất đẹp…
Dù tới đây đã nhiều lần, và Trung chẳng bao giờ để ý đến Trang, chỉ coi như một đứa em, nhưng hôm nay, nhìn thấy hai bóng hồng thì lòng chàng bỗng cảm thấy vui lên.  Đĩa rựa mận và chả chìa hôm nay phải nhất định là khoái khẩu.
Như đã nói, quán Nai Đồng Quê tuy không lớn lắm, với chừng chục cái bàn, nhưng chủ nhân biết cách trang hoàng sắp xếp.  Những cái bàn ngoài cùng, xa quầy tính tiền là bàn của dân nhậu thịt chó, thấp lè tè.  Ở đây, những tiếng chửi thề văng tục ít khi vào tới bên trong được.  Càng vào trong, càng gần quầy hàng là bàn của dân uống cà phê, bàn ghế cao hơn.  Thường thường, ở những nơi khác, chẳng ai vào quán thịt chó để uống cà phê bao giờ, nhưng đây là Pleiku, thành phố lính, mọi chuyện lạ đời hay ngược đời đều luôn luôn xảy ra.
Trung bước vào trước, Sao đi sau, tay thủ một cuốn sách như thường lệ…
Quán nhậu đã đông được hơn một nửa.  Đông nhất, tuốt phía trong, là bọn học sinh tóc dài, ngổi kín 4, 5 cái bàn gần cô thu ngân.  Trung biết bọn nhóc này, tuy chưa đến tuổi đi lính nhưng chúng đều là con cháu của lính, hoặc có bà con với lính.  Được cái vì có giây dưa rể má với lính cho nên mọi người dễ cảm thông và quý mến nhau.  Chàng coi chúng như em út và ngược lại, chúng cũng tỏ vẻ quý trọng chàng, một phi công của QLVNCH.  Trung quen thân với vài đứa và thấy chúng rất dễ thương, muốn tìm hiểu về Không Quân, về lính, để chuẩn bị cho những ngày sắp tới, có thể phải mặc đồ lính như mọi người trai trẻ thời đó.
Hai ông phi công ngồi xuống một cái bàn gần phía ngoài.  Trung thẩy gói thuốc lá Capstan lên bàn như thường lệ.  Sao thẩy cuốn truyện “Bố Già” của Ngọc Thứ Lang gần gói thuốc…
Một tà áo trắng xuất hiện, rất là tha thướt, nhẹ nhàng hỏi với một nụ cười:
-Dạ thưa hai trung uý dùng gì ạ?
Hai người đưa mắt lên nhìn người hỏi.  Cô gái có vẻ lớn tuổi hơn Trang, mặt mũi đoan trang, hiền hậu và cặp mắt rất tha thướt.  Sao vẫn tỉnh bơ, lịch sự cúi nhẹ đầu chào cô hàng nhưng Trung thì lại… ú ớ, quên mẹ nó mất cô ta hỏi gì mà lại mở miệng cười liền:
-Cô là gì với Trang mà lại lạc loài tới đây?
Cô hàng nhún vai, cười nhẹ:
-Chẳng là gì mà cũng chẳng lạc loài đâu.  Thưa trung uý, tôi đang thất nghiệp.
-Ôi, tôi xin lỗi, chỉ nói đùa thôi mà, cô đừng giận nhé…
-Dạ tôi chẳng dám, thưa trung uý.
-Cô có thể bỏ giùm cái tiếng trung uý đi coi có được không.  Gọi anh và em nghe nó có vẻ văn minh và tình tứ hơn.
Cô hàng lại cười:
-Dạ, nếu trung uý cho phép.  Nhưng gọi anh và em thì cũng không có văn minh hơn đâu, thưa ông.  Còn chuyện tình tứ thì tôi càng không dám…
Trung cười hề hề, cảm thấy khoái cô hàng:
-Tôi tên Trung, còn bạn tôi đây, tên là Sao, thiên hạ gọi là Sao thầy đồ.  Tối ngày chỉ ham đọc sách…
Sao gật nhẹ đầu chào cô hàng, không nói gì.  Cô hàng nói:
-Hân hạnh được gặp hai ông.  Còn tôi, tôi tên Phượng.
Trung vỗ tay xuống bàn một phát, gật gù cái đầu:
-Biết ngay mà, tôi biết thế nào cô cũng có một cái tên như thế?
Cả Phượng và Sao cùng ngạc nhiên.  Phượng hỏi:
-Thưa ông, sao thế ạ?
Trung kẹp một điếu thuốc lá vào môi, thò tay vào cái túi áo bay tìm hộp quẹt:
-Dễ lắm.  Những người đàn bà đẹp luôn luôn mang tên một loài hoa.  Một loài hoa như là Phượng, Lan, Hồng, vân vân.  Cô đẹp như thế thì mang tên Phượng là phải rồi…
Cả Phượng lẫn Sao đều bật lên cười.  Phượng đỏ mặt:
-Tôi không dám.  Ông đang tán tỉnh tôi đấy phỏng?
Trung trả lời tỉnh bơ:
-Tán tỉnh là danh từ của bọn xi-vin, lính tráng như chúng tôi thì cô phải dùng chữ … dê cô mới đúng là điệu nhà binh.  Quân đội không có chuyện tán tỉnh cô Phượng à, chỉ có dê mà thôi.
Phượng lắc đầu:
-Tôi xin ông.  Ông…  ông bạo quá…
Lúc ấy Sao mới chen vào:
-Thằng này xưa nay luôn luôn là như vậy, nó nói bậy, mong cô đừng chấp.
Trung móc ra cái Zippo, bật lửa mồi thuốc:
-Như thế thiên hạ mới có chiến tranh…
Phượng hỏi:
-Thưa ông, tôi không hiểu.
-Người ta thường sợ nói sự thật, nhưng tôi lại thích nói sự thật.  Vì thế, mới có chiến tranh…
Phượng cười nhẹ rồi hỏi:
-Tôi có thể đồng ý với ông.  Nhưng ông cho tôi hỏi, ông biết tôi là hạng người gì mà dám … dám dê tôi?
Trung cười:
-Nói thế là Phượng không hiểu bọn lính tráng chúng tôi.  Đang cô đơn mà gặp được một người như cô thì ai lại không dám, dám mạnh đi chứ.  Nhưng vấn đề là có dê được hay không mới là chuyện đáng nói.  Phượng nghĩ tôi có thể … dê được Phượng không?
Phượng đỏ mặt, quay đi dấu một nụ cười.  Sao chen vào:
-Thôi, mày nham nhở vừa chứ, đừng làm mất mặt Không Quân.  Có mất dạy mười phương thì vẫn để dành một phương để còn đi hỏi vợ chứ.  Thôi, gọi thức ăn đi, để cho cô Phượng còn đi lo công v iệc.  Tiền không có bao nhiêu mà cứ hành hạ người ta mãi như thế…
-Không sao đâu các anh…
Nhưng Trung nói:
-Phượng cho tôi bắt đầu bằng một đĩa chả chìa và một chai bia lớn.  Đừng quên hành tỏi, mắm tôm.  Sau đó, tôi sẽ gọi thêm.
Sao tiếp:
-Còn tôi, tôi chỉ xin một tô hủ tiếu và một ly cà phê đen không đường.
Phượng có vẻ như tiếc nuối cuộc nói chuyện:
-Vâng, một đĩa chả chìa và một chai bia lớn, một tô hủ tiếu, cộng một ly cà phê đen không đường.
Rồi nàng nhìn cuốn truyện “Bố Già” để trên bàn, mắt sáng lên, hỏi Sao một cách thèm thuồng:
-Truyện này mới xuất bản, nghe nói hay lắm…
Sao trả lời:
-Ngọc Thứ Lang dịch truyện nào cũng hay cả.  Nhưng mà bắn giết nhiều quá, không hợp với tôi.
-Truyện về những gia đình mafia bên Mỹ mà.  Không ngờ xã hội Hoa Kỳ lại ghê gớm như thế…
-Cô thích đọc sách?
-Vâng ạ.  Em là đàn bà nhưng lại mê truyện kiếm hiệp, truyện đàn ông.  Suýt thi trợt mấy lần cũng vì mê truyện…
Sao cầm cuốn sách lên đưa cho Phượng:
-Thế thì cho cô mượn đấy, tôi đọc gần xong rồi, chỉ còn vài trang chót.
Phượng lắc đầu:
-Thưa, tôi đâu dám như thế.
-Không, tôi nói thật.  Tôi còn mấy cuốn ở nhà.  Cầm lấy mà đọc, tháng sau đi biệt phái ở đây nữa, tôi sẽ trở lại lấy sách.
Từ chối không được, Phượng liền cầm lấy sách, kẹp ngay vào nách, có vẻ thích lắm:
-Phượng xin cám ơn anh.  Giờ thì Phượng xin phép vào nhà bếp.  Sẽ nói đầu bếp làm một tô hủ tiếu thật ngon cho anh.
Phượng vừa quay đi thì Sao lại rút trong túi áo bay ở dưới chân ra một cuốn sách khác để lên bàn.  Trung nhận ra cuốn “Dọc Đường Số Một” của nhà văn quân đội nổi tiếng Phan Nhật Nam.
Trung nói:
-Tao đọc cuốn này rồi.  Hay lắm.  Mày chưa đọc?
-Đọc từ lâu rồi, đem theo sơ cua để đọc lại.  Cuốn “Dấu Binh Lửa” cũng hay lắm.  Đúng tâm trạng của một người lính.  Như mày, như tao.
-Tao đọc ông Phan Nhật Nam này ngày tao chưa đi lính.  Văn chương của dân võ bị đi lính nhảy dù có khác.  Cha này làm tao mê đời lính.  Hồi đó, chưa bị VC bắn, chưa biết c… gì, chưa hề thấy quan tài nên không biết nhỏ lệ.  Đù mẹ phải bay đánh giặc, phải nghe đạn phòng không chúng nó bắn vào mặt mình thì mới cảm nhận được những lời văn thống thiết như thế…
Sao châm lửa một điếu thuốc:
-Văn chương của những người dấn thân cho tổ quốc luôn luôn có một cái gì khác hơn văn chương thường…
-Nguyên Vũ viết cũng hay nhưng không đậm đà bằng Phan Nhật Nam.
Bỗng nhiên, có một Nam tử tóc dài từ bên trong xuất hiện, tay cũng cầm một cuốn sách.  Trung quay nhìn, một nụ cười xuất hiện liền trên khuôn mặt chàng phi công:
-Ê, Bảo đấy hả?
-Vâng thưa anh, Bảo đây.
Trung chỉ cái ghế trống:
-Ngồi xuống đây chơi.  Dám uống rượu không?
-Thưa anh, mới có 11 giờ sáng.
Trung nhăn mặt lại:
-Hỏng, như thế thì hỏng.
-Sao thế anh?
-Em nói em muốn làm phi công phải không?
-Thưa anh đúng thế.
-Phi công thì lúc nào cũng phải uống rượu được cả.  Sáng sớm chưa ăn uống gì thì uống bia.  Từ từ, uống rượu sau, rồi còn phải biết nhậu nữa.
Sao can thiệp liền:
-Cho tao xin.  Nó mới lớn chưa biết gì, sao mày dạy dỗ như thế?
Thằng nhóc không biết trả lời sao, kéo ghế ngồi xuống, gật đầu chào Sao.  Sao hỏi:
-Em đọc gì thế?
-Thưa anh, “Mắt Tím” của Lệ Hằng.
Lệ Hằng là một nhà văn đang lên thời đó, chuyên môn viết chuyện tình cảm… trái chiều của mấy ông cha cố bà sơ.  Thế mà đắc khách đáo để, chẳng ai hiểu vì sao.
-Cho anh xem tí nhá.
-Vâng thưa anh.
Sao lật xem trang bìa sau, có đoạn trích như sau: “Làm sao người ta có thể sống được nếu cuộc đời chỉ toàn là những bổn phận, những quy luật và những con số…”  Trích lời của linh mục nói với người tình.  Sao gật gù cái đầu, tư lự suy nghĩ.
Trung giật lấy cuốn sách, xem sơ qua, lắc đầu rồi trả lại:
-Mẹ, toàn những chuyện bố láo.  Sách mướn hả?
-Vâng, chờ cả tháng mới mướn được đấy anh.
-Có hay không?
-Rất là lãng mạng.  Cô học trò lại đi mê ông cha.
-Nhưng mà Cha có mê lại không?
-Dĩ nhiên, tình yêu hai chiều mà.
-Thế thì hai người có … làm tình với nhau không?
Bảo lắc đầu:
-Tác giả không nói, nên em không biết.
-Mẹ kiếp, yêu nhau mà không … chơi nhau thì yêu làm cái đếch gì.  Chỉ cần lột áo dòng ra, 15 phút là lên… thiên đàng ngay…
-Ai mà dám viết bạo như thế, kiểm duyệt đục bỏ ngay.
-Thế thì viết làm cái quái gì.
Sao chen vào:
-Dân bạt mạng như mày, biết gì về văn chương mà dám phê bình.  Cứ như mày nói thì coi báo Playboy hay xem xi nê sướng hơn…
Trung cười hì hì:
-Dĩ nhiên rồi, tao chỉ thích đọc Playboy.  Mày dắt đào hay đĩ về phòng, cả hai cùng trùm mền lại đọc Playboy chung rồi làm tình sướng lắm…
Sao quát lên:
-Mày cho tao can, đây là chỗ quán xá, thiên hạ nghe được thì kỳ lắm, người ta sẽ bảo Không Quân mình là phường dâm tặc thô bỉ.
-Kỳ… cái con mẹ.  Tao lại thích dâm tặc và thô bỉ.  Mà hỏi thật mày, mày coi có thấy thằng Không Quân nào mà mặt mũi không dâm tặc không?  Thằng nào cũng râu ria xồm xoàng, nhìn thấy đàn bà con gái thì mắt sáng lên như mèo thấy mở.  Mẹ kiếp, sống mà không ăn-gioi, mai mốt chết rồi mới thấy tiếc.
Mọi người im bặt khi Phượng mang cà phê và bia ra.  Trung bảo:
-Em cho anh thêm một chai bia nữa.
Bảo nói ngay:
-Thưa, em chỉ xin một cốc nhỏ thôi ạ.
-Đừng lo, em uống không hết để đó cho anh…
Trung nói như thế và cũng mong vậy, bởi vì nếu thằng nhóc uống nhiều quá thì tiền đâu mà trả…
Trung khui bia, rót ra hai cái ly, rồi nâng ly, làm cạn sạch, xong lại khà ra một phát thật to:
-Đù mẹ đã quá.
Bảo cũng nâng ly, nhưng chỉ nhăn mặt làm một hớp nhỏ.  Sao bắt chuyện:
-Em đang còn đi học hả.
-Vâng, em học đệ nhất B Trung Học Tổng Hợp Pleiku.
Máu nhà giáo trong người Sao nổi lên:
-Coi chừng, chương trình đệ nhất nặng lắm đấy nhé.
-Vâng, anh nói đúng.  Chúng em học ngày học đêm mà vẫn không bắt kịp.
-Có tính vào đại học không?
-Không, thưa anh.  Em tính thi vào Võ Bị hoặc vào Không Quân.
Sao tư lự nhìn ra ngoài cửa như nhớ tiếc khung trời cũ của những sân trường, những lớp học, bảng đen, cục phấn.
Từ bên trong, bỗng vẳng lên tiếng nhạc của cái máy Akai.  Hình như, cả nước Việt Nam bây giờ, chắc có lẽ đã quen với tiếng súng tiếng đạn cho nên tai người nào cũng hơi bị điếc, tiếng nhạc mở ra còn to hơn cả tiếng gầm của đại pháo.  Tiếng nhạc lớn quá, đập vào tai mọi người, ai nấy đều giật mình.  Tệ hơn, cái giọng hát lại là của con mẹ Khánh Ly, quát gầm lên: “Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm…”
Trung nhăn mặt lại, nói vào trong:
-Cô Phượng, cô Trang ơi, đổi nhạc đi, và mở nhỏ lại…
Phượng hỏi lớn từ phía bên trong, mọi người đều nghe:
-Thế anh muốn nghe nhạc gì?
Trung cũng trả lời lớn tiếng:
-Nhạc gì cũng được, miễn là khỏi phải nghe thằng phản chiến Trịnh Công Sơn.  Lính và dân chết hàng ngàn người mỗi ngày tại bọn CS xâm lược mà nó cứ oang oang là “Nội Chiến”.   Tôi đang vui không muốn … chửi thề…
Tiếng nhạc tắt liền lập tức.  Nhiều tiếng ồn ào nổi lên ủng hộ những gì Trung vừa nói.  Nhưng Sao lại nói:
-Mày không muốn nghe thì để người khác nghe, làm gì mà phải la lối om xòm quá vậy?
-Nói như mày thì thế giới này làm gì có chiến tranh?  Mẹ kiếp, cái gì ông không thích thì ông chửi, thằng nào thích thì thì thích, không thích thì xin cút xéo.
-Con lạy ông.  Hèn gì mỗi lần mày đi nhậu thì thường có oánh lộn tùm lum.  Tao nói trước, nếu tí nữa thiên hạ xúm vào oánh mày, tao còn xúi cho chúng nó đánh mạnh thêm.
-Mẹ, thằng nào muốn chết thì cứ xông vào đây.  Còn cây 38 đây để làm gì.
-Thôi, thôi, cho tao xin.  Chúng mình tới đây để nhậu, không phải để kiếm chuyện.
-Tao đây chẳng muốn kiếm chuyện với ai cả, nhưng thằng nào muốn chuyện thì tao cho liền.
-Con lạy bố, mày câm đi có được không.  Đừng có làm phiền tao quá, tao bỏ về bây giờ đây.
Nghe như thế thì Trung đổi giọng ngay:
-Ok, Ok, con cũng lạy bố, bố đừng có phá đám…
Nhạc lại nổi lên.  Ngạc nhiên thay, lại là tiếng gầm rú của chiếc A1 Skyraider rồi tiếng dạo đàn mà ai cũng biết là bắt đầu cho bản “Truyết Trắng”.
Bản này chính tay Phượng thay băng, quay đến bản nhạc rồi mở lên để làm vui lòng hai ông phi công.  Từ ngoài nhìn vào, Trung nhận ra Phượng cũng đang nhìn mình.  Trung cười, đưa một ngón tay lên trời.  Phượng cũng cười đáp lễ.  Một lúc sau, nàng bước ra, tới gần bạn nhậu.
Trung nói ngay:
-Cám ơn cô Phượng đã cho chúng tôi nghe bản Tuyết trắng.
-Không có chi anh.  Phượng rất thích nghe bản này, nên mở cho các anh nghe luôn.  Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh thật là tuyệt…
Sao tiếp lời bạn, khoe:
-Bản này ông ta làm trên một chuyến bay từ Pleiku về Nha Trang trên một chiếc Cessna của phi đoàn tôi, 114.  Hôm ấy đường bay bị mây phủ mờ.  Bay trên một tiếng đồng hồ trên mây trắng, ông lấy giấy bút ra ghi ghi chép chép rồi đáp xuống phi trường, vào câu lạc bộ, hát cho anh em phi công nghe ngay…
Phượng tròn mắt:
-Phượng không ngờ, thật là tuyệt diệu, nếu anh không nói thì Phượng đâu biết…
Bỗng có một chiếc xe díp nhà binh dừng lại trước quán, đậu sát chiếc xe của Không Quân.  Bước xuống xe đầu tiên là một người lính, sau đó là hai ông quan của sư đoàn 23 bộ binh, mang lon đại úy đen thùi trên cổ áo và dây ba chạc cùng súng ống đầy người.  Các quan bộ binh cỡi “phụ tùng” quẳng lên xe, dặn dò gì đó với người lính rồi lửng thửng bước vào.
Mọi người trong quán nhìn ra.  Coi họ thấy oai hùng quá, đúng là dân bộ binh tác chiến, dầy dạn gió sương và lửa đạn.
Bỗng Trung quay sang Sao, reo nhỏ lên:
-Đù mẹ, khỏe rổi, tụi mình khỏi cần phải cầm đồng hồ…
Sao chưa kịp nói gì thì Trung tiếp:
-Cha đại úy trên xe mới bước xuống là bạn học tao, tên là An.  Cách đây 3 tháng, tao bay cho nó ở trận giải tỏa Chu Pao, đánh cho nó mấy phi tuần, tụi nó chiếm được Chu-Pao, hẹn gặp nhau dưới đất mà chưa bao giờ gặp.  Bây giờ tao phải đòi nợ.  Tụi bộ binh luôn luôn khá hơn bọn mình…
Bộ mặt trung uý Sao liền sáng lên.  Không sáng sao được khi không phải mất cái đồng hồ Omega quý giá không biết bao giờ mới lấy lại được.
Từ phía bên ngoài, đại úy An cũng nhận ra Trung.  Thế là sau màn bắt tay bắt chân vớ vẩn, bàn rượu bắt đầu thay đổi.  Thằng Bảo xin phép rút lui.  Rượu, bia và thịt chó từ từ cũng được sắp đầy bàn, âm thanh cũng từ từ ồn hơn, tiếng chửi thề cũng nhiều hơn, lớn hơn.  Chuyện này dễ hiểu.
Chừng tiếng đồng hồ sau thì ngoại trừ Sao, còn ai nấy, dù lính bộ binh hay lính Không Quân thì cũng như đang bay trên mây cả.  Chuyện xưa trường cũ nổ lên như pháo rang.  Đến một lúc, Trung hỏi:
-Mày lang thang đâu mà về đây?
-Tao nắm tiểu đoàn trưởng đã mấy tháng, giờ mới về đây điều chỉnh vài thủ tục giấy tờ.
Trung quát lên:
-Đù mẹ, cỡ như mày mà người ta cũng cho làm tiểu đoàn trưởng?  Quân đội chắc hết người rồi.
An cười nhẹ, nhún vai khề khà:
-Thì cũng như mày mà người ta cho lái tàu bay thôi.
Mọi người cùng cười…
Những người lính trên trời và dưới đất gặp nhau trong một đất nước ngập tràn binh lửa, ai cũng tưởng họ sẽ khui chuyện đánh đấm, chuyện bom rơi máu đổ mà họ đang sống từng ngày, từng giờ ra để bàn luận.  Nhưng không.  Chẳng ai đề cập đến những chuyện này.  Họ chỉ nói chuyện ngày xưa còn đi học, chuyện những ngôi trường cũ và những kỹ niệm buồn vui tuổi học trò, như chuyện ông giáo sư này khó tính, con nhỏ kia kênh kiệu vân vân.  Tuyệt nhiên, không hề có chút chiến tranh, chút máu nào cả dù rằng áo quần của họ đã nhiều lần đẫm máu của cả quân thù lẫn máu anh em đồng đội.  Rồi câu chuyện đi dần sang văn chương, rồi đến Kinh Dịch và Tử Vi Tướng Số.  Hình như, họ muốn thoát ly ra khỏi cái thế giới chiến tranh đầy máu lửa mà họ đang bị bao vây.  Thoát được hay không, chỉ có trời biết.  Nhưng trong những giây phút anh em tương phùng quý báu này, họ thật sự chỉ muốn thoát ly, muốn đi xa, xa thật xa khỏi cái cõi trời âm u bập bùng lửa đạn này.  Nghĩ cũng tội nghiệp cho những con người Việt Nam trẻ tuổi này.
Khoảng vài tháng sau đó, một buổi sáng mà thời tiết rất âm u, Trung và Sao ra quay máy một chiếc L-19 ở biệt đội Pleiku.  Hai người đã dậy từ lúc 6 giờ sáng để chuẩn bị cho phi vụ này vì ngay từ tối qua, tin tức dồn dập đưa về là 2 tiểu đoàn của trung đoàn 45 bộ binh vừa bị đụng nặng lắm ở phía Bắc Kontum.  Nhưng thời tiết xấu quá, mãi đến 9 giờ họ mới ôm được nón bay và dù ra phi cơ được.
Tuy bầu trời vẫn còn phủ nhiều mây, và cứ như bình thường thì Trung đã chẳng cất cánh.  Nhưng tình hình nặng lắm, nếu không có L-19 lên để hướng dẫn khu trục, quân ta sẽ bị ta-pi.  Vừa quay máy xong, lấy hết được tin tức chiến sự thì mây từ đâu không biết cứ ùn ùn kéo về, làm như muốn phủ kín phi trường Cù Hanh Pleiku.  Càng lúc, triễn vọng cất cánh càng ít đi.
Tàu bay vẫn còn nằm trong ụ, người cơ khí dưới đất đang nhìn Trung chờ dấu hiệu rút chèn bánh.  Nhưng Trung còn lưỡng lự, chưa thèm ra dấu.  Rồi chàng cắt ga chiếc tàu bay xuống 700 vòng phút, đạp mạnh thắng, ngửa mặt nhìn lên trời, lo lắng nói với Sao qua Intercom:
-Trời xấu quá, không biết có đục thủng nổi mấy đám mây Stratus này mà tới vùng hành quân không?  Mày nghĩ sao?
Khí tượng thế giới chia mây ra làm 9 loại, từ nhỏ nhất, bay cao nhất và đẹp nhất là Cirrus cho đến loại chết người nhất là Cumilonimbus, tất cả mọi phi công đều được dạy dỗ kỹ và phải thuộc lòng.  Không thuộc thì… dễ chết hơn, bởi trong những đám Cumilonimbus khủng khiếp, nhiều khi còn có cả điện mấy triệu Volt và có cả… nước đá.  Tàu bay và điện cao thế hay nước đá gặp nhau thì nhất định là không có tốt cho sức khỏe của nhân viên phi hành…
Sao đang bận rộn liên lạc với bộ binh nên trả lời vắn tắt:
-Tao không có thì giờ liên lạc với khí tượng, nhưng quân đoàn cho biết đã mất liên lạc với con cái.  Họ cần mình có mặt gấp.  Chỉ cần cho con cái nghe được tiếng tàu bay thôi cũng được… Mình phải lên gấp.
Trung nghiến răng lại, đưa hai tay lên làm dấu cho người cơ khí rút chèn bánh:
-Thế thì mình cất cánh…
Chàng đổi sang tần số đài kiểm soát Pleiku:
-Pleiku đây Mustang Alpha, xin ra phi đạo cất cánh một L-19 bạn…
- Mustang Alpha, đây đài kiểm soát Pleiku.  Thời tiết phi trường mây overcast 4000 bộ, cao đến 6000 bộ, broken ở 7000 bộ… Gió Đông Bắc 3 dặm, áp xuất phi trường 30.01…
Ông đài kiểm soát bô bô vài câu về mây về gió theo đúng thủ tục rồi kết luận:
-Bạn ra cất cánh phi đạo XX, gọi lại khi sẵn sàng.
Giống như Trung, nhiều chiếc phi cơ khác trong phi trường cũng bắt đầu nhộn nhịp quay máy chuẩn bị ào ra phi đạo…
Trung mớm nhẹ tay ga cho chiếc phi cơ nhẹ nhàng bò ra khỏi bãi đậu, đạp nhẹ thắng phải cho tàu bay từ từ  quay đầu.  Tiếng gọi của Sao từ phía sau vẫn tiếp tục nhưng chẳng hề nghe tiếng trả lời.  Chàng lắc đầu mấy cái.  Mẹ, chưa cất cánh mà đã biết ngay là đã có chuyện không ổn rồi.  Trung không dám nghĩ đến hai chữ mà chàng biết có thể đang xảy ra, “Tan hàng”.
Thử máy và cho rút chốt rocket xong, Trung xin phép cất cánh.
-Mustang Alpha, clear for take off.  Cẩn thận, phía bắc phi trường có 3 chiếc làm vòng bay thấp chuẩn bị đáp…
Tàu bay vừa hỏng mặt đất chưa được bao lâu, vào cánh cản xong thì Trung đã đâm vào mây.  Mới đầu thì từng cụm nhỏ nhưng càng lúc thì càng lớn dần.  Chàng cảm thấy tàu bay rung nhẹ lên từng khúc khi đụng mây.  Trung bung một tiếng chửi thề.  Mẹ kiếp, như thế là có chiến tranh rồi.  Chàng biết những nguy hiểm đang chờ đợi mình.  Pleiku là một vùng rửng núi hiểm độc, thời tiết vào những tháng này lại thay đổi bất thường.  Chuyện rớt phi cơ hay tai nạn là một chuyện xảy ra thường ngày.  Chàng có 2 lựa chọn.  Một là bay trên mây, nhưng như thế thì rất khó nhận ra mục tiêu để làm việc.  Hai là bay dưới mây nhưng lại sợ cái khác:  Phòng không địch. Và tệ hơn, có thể bị bít đường nếu gặp phải mây xuống quá, bị núi che phủ.
Trung có quyết định liền.  Chàng liền cắt ga, chúi mũi tàu bay xuống và quẹo gắt, nói với Sao:
-Phải bay dưới trần mây rồi.
-Trên dưới cũng được, để tao yên để tao còn liên lạc với bộ binh.
Trung đảo một vòng và nhìn thấy con quốc lộ dẫn đến Kontum, liền quẹo tàu tới.  Chàng giữ tàu bay chỉ gần dưới chân mây chừng vài trăm bộ, đi theo con quốc lộ.  Con quốc lộ này sẽ dẫn chàng tới KonTum, và từ đó, chàng sẽ kiếm đường tới vùng làm việc…
Bay chừng vài phút thì chàng nhận ra mây càng ngày càng thấp dần, tàu bay cứ xuống thấp mãi.  Chẳng bao lâu, bánh máy bay sẽ chạm mặt đường nhựa.  Khốn nạn thật.
Cứ như bình thường thì Trung đã quay tàu về đáp rồi, nhưng chuyến bay này không phải là một chuyến bay bình thường.  Quân đoàn đã dặn dò:  “Chỉ cần cho con cái nghe tiếng tàu bay thôi cũng được…”
Sao vẫn tiếp tục bận rộn vô tuyến, không nói năng gì.  Tàu bay tiếp tục xuống thấp và đến một lúc nào đó, khoảng vài chục dặm trước một ngọn núi, chàng phải tống hết ga, nghiêng trái kéo tàu lên, làm một cái Spiral.
Tàu lại vào mây, chẳng còn trời, chẳng còn đất, chung quanh chỉ trắng xóa một vùng.  Tiếng mây và gió đập vào thân tàu nghe rung rinh từng khúc.  Trung lật vội tấm bản đổ kẹp ở đùi mình, ráng ghi nhận điểm đứng, theo dõi từng độ cao của những hòn núi gần đó.  Mình đang còn an toàn…
Tàu lên đến 6 rồi 7 rồi 8 ngàn bộ, một độ cao an toàn để chàng có thể tới mục tiêu mà không sợ đụng núi.  Chung quanh vẫn còn mây trắng xóa nhưng Trung không muốn cho bay cao hơn.  Theo sự tính toán của Trung, khoảng 15 phút nữa chàng sẽ đến mục tiêu…
Trung mở tần số của ALO KonTum, gọi sĩ quan liên lạc điều không:
-Mustang Alpha 01 đây bạn, đang tiến tới vùng, thời tiết KonTum như thế nào bạn?
-Thời tiết xấu, tôi đã đuổi mấy phi tuần của Tây từ Hàng Không Mẫu Hạm về rôi.  Mây overcast trắng xóa bầu trời.
-Bạn chạy ra ngoài xem thử có cái lỗ nào không bạn?
-Negative…  Bạn có chun xuống cũng không làm ăn gì được.
-Tôi đang ở trên mây, bạn có nghe tiếng tôi không?
-Chờ chút coi…
Một lúc sau:
-Có nghe tiếng phi cơ, nhưng nhỏ lắm…
-Vậy là tốt rồi, tôi ráng tới mục tiêu nhưng chắc không làm gì được.  Cám ơn bạn.
Sao vẫn tiếp tục gọi cho quân bạn dưới đất.  Tần số này không được, chàng lại gọi về sư đoàn xin tần số khác.  Vẫn chẳng có tiếng trả lời…
Trung ráng giữ tàu theo hướng tới mục tiêu, nhưng lòng chàng chùng xuống.  Đã lăn lộn chiến trường nhiều năm, chàng biết những gì đã xảy ra dưới đất.  Theo những gì chàng nhận xét thì quân ta bị đánh tan hàng rồi.  Bọn CS biết lợi dụng thời tiết.  Hễ chúng nó tấn công là luôn luôn vào những ngày trời mây u ám, Không Quân không thể can thiệp được…
Cuối cùng thì Trung cũng chui ra khỏi mây ở trên 8000 bộ.  Ở trên Trung là trời xanh thăm thẳm, dưới chân là một trần mây bao phủ kín đến tận chân trời.
Sau hai tiếng đồng hồ trên trần mây, không thể nào xuống dưới, không nhìn thấy gì cả, Sao xin phép về đáp và quân đoàn đồng ý.  Suốt đường về, hai người ngồi im lặng, không ai nói với ai lời nào.  Đầu óc họ còn bàng hoàng đau đớn về chuyến bay vừa rồi.
Bỗng Trung nảy ra một ý kiến, bấm intercom:
-Mày gọi dưới đất hỏi tên tuổi mấy người chỉ huy vừa bị mất liên lạc được không?
-Tên tuổi họ có nhằm nhò gì tới mình, sao mày hỏi.
-Mày có nhớ cái tiệc rượu thịt chó ở “Nai Đồng Quê” cách đây mấy tháng không?
-Nhớ chứ, mày say quá, chở mày về mà cứ sợ mày lọt ra ngoài…
-Không hiểu tại sao, tao có cái cảm giác kỳ kỳ, không nói được, và bỗng thấy lo.  Tao đang vật lộn với cái bản đồ.  Mày gọi cho tao
Sao đổi tần số, làm việc một lúc.  Chập sau, Trung nghe được tiếng của Sao trong intercome:
-Tên của một ông tiểu đoàn trưởng mất tích là đại úy Trần Thanh An…  Có phải An bạn mầy không?
Trung tái mặt lại, nấc nhẹ lên một tiếng, trả lời, giọng run run:
-Đúng rồi, Trần Thanh An là bạn tao.  Mất tích à?
-Họ chỉ biết có bấy nhiêu.  Theo tao nghĩ thì bị tan hàng rồi.  Có thể mình còn biết rõ hơn vì mình gọi đâu có được đâu.
Phải khó khăn lắm Trung mới tìm hướng về lại được phi trường Pleiku.  Chàng tắt máy, leo xuống tàu bay, bước đi như người không hồn.  Mưa bắt đầu kéo tới.  Trung bước đi, chẳng cần che, chẳng cần né, mặt mày nhạt nhòa.  Mưa bên ngoài làm sao bằng bão trong lòng được.  Bao nhiêu kỹ niệm niệm xưa tràn về…
Rồi Trung nghĩ đến bố của An, một công chức bưu điện còm cõi, ngày ngày vẫn còn tiếp tục đi làm ở thành phố Ban Mê Thuột.  Không biết ông có biết con ông vừa bị mất tích hay không.  Giờ này, ông đang làm gì.  Chắc có lẽ đang ở trong sở hay đang ở nhà, lui cui với những chuyện thường ngày.  Chàng cũng chẳng biết An có vợ con gì chưa.  Từ ngày chia tay nhau đến bây giờ đã 6, 7 năm, vì chinh chiến, mỗi người một nơi, chẳng ai biết nhiều về ai.  Gặp nhau được vài tiếng đồng hồ thì chén thù chén tạc để cùng nhau say ngất ngưởng, chẳng ai có thì giờ đi hỏi... vợ con của ai.
Tự dưng, chàng bỗng thấy mình có tội.  Có tội vì đã còn sống được khi bạn mình bị mất tích trên chiến trường.
Trung nói với Sao:
-Đù mẹ, mình phải ra “Nai Đồng Quê”.  Tao muốn kể cho Phượng nghe chuyện này.  Mày có đi không thì nói, còn không thì tao đi một mình…
Sao giật mình khi nghe như thế.  Sau buổi nhậu hôm đó ở quán Nai Đồng Quê, không biết hai đứa có tơ tình gì với nhau không nhưng Sao để ý nó hay ra quán một mình, có khi đến sáng hôm sau mới về.  Nhưng chàng chẳng bao giờ hỏi.  Sao nhăn mặt lại:
-Đù mẹ làm gì mà lại ép nhau thế.  Tao đi nhưng với một điều kiện?
-Điều kiện gì?
-Mày không được gây gổ oánh lộn, bắn phá tùm lum.
Chuyện nhỏ, Trung gật gù cái đầu:
-Tao đồng ý, hứa danh dự với mày…
-Xin lỗi, nói mày đừng buồn, lời hứa danh dự của mày chẳng có nghĩa lý gì cả.  Chỉ có đàn bà con gái nhẹ dạ mới nghe lời mày, còn tao thì không thể nào tin lời mày được.  Mày phải cỡi dây súng, để ở nhà thì tao mới đi với mày, còn không thì mày cứ đi một mình như lời mày nói.  Tao sợ mày lắm rồi…
Trung không biết phải nói sao, đành vung miệng chửi:
-Đù mẹ bạn bè mà chơi như c., chỉ chuyên môn làm khó nhau…
-Chẳng khó khăn gì cả, nếu mày muốn tao đi với mày thì cỡi dây súng ra, đưa đây ngay...
Nửa tiếng đồng hồ sau, hai người dừng xe trước Nai Đồng Quê.  Trời mưa càng lúc càng nặng hạt, đánh rầm rầm xuống tấm bạt mui xe.  Hai ông phi công chờ một lúc rồi bước xuống.  Mưa rũ xuống người họ làm ướt đẫm hai chiếc áo bay, nhưng chẳng ai vội vã.  Họ tà tà bước vào quán.
Quán vắng tiêu điều trong một chiều mưa càng làm cho cảnh vật trở nên buồn bả thê lương.  Hai người vào tuốt phía trong, gần quầy tính tiền, ngồi xuống.  Sao ngạc nhiên khi nghe Phượng nói với Trung từ sau quầy hàng:
-Sao mặt mày anh hôm nay buồn thế anh…
Chỉ một câu hỏi đơn giản thôi nhưng Sao nghe qua thì cũng biết ngay là hai người đã thân thiết nhau lắm.  Chàng chỉ thắc mắc không hiểu tại sao một cô gái như Phượng lại thích một thằng du côn như là Trung.  Thằng này đi đâu cũng gây “tội ác.”
Trung không trả lời mà lại nói:
-Cho anh một xị rượu đế, bạn anh một ly cà phê đen…
-Anh không nhắm gì sao?
-Không, hôm nay buồn quá, chẳng muốn ăn uống gì cả, chỉ muốn ra đây gặp em tâm sự cho đỡ buồn.  Cho anh một con khô mực nhai cho vui cũng được…
Hết xị rượu thứ nhất thì Phượng đem đĩa khô mực ra.  Nàng kéo ghế ngồi xuống bên Trung, hỏi:
-Hôm nay anh có chuyện buồn?  Kể cho Phượng nghe được không?
Trung im lặng một lúc rồi mới hỏi:
-Em có nhớ ông đại úy bộ binh của sư đoàn 23 hôm mình gặp nhau không?
-NhớAnh ấy là bạn học của anh ngày xưa ở trung học.
Trung thở dài nảo ruột, giọng rả rời:
-Tiểu đoàn ổng nắm mới mất tích tối hôm qua.  Chẳng còn liên lạc được với ai.  Chẳng ai biết sống chết thế nào…
Phượng đưa tay nắm lấy tay Trung ở trên bàn, xiết chặt, không nói gì.  Sao nói nhẹ:
-Chỉ hy vọng là anh ấy không chết.  Có thể bị bắt làm tù binh nhưng rồi thế nào cũng được thả…  Vấn đề chỉ là thời gian thôi…
Bên ngoài, mưa tiếp tục đổ xuống.  Từ bên trong lời hát của bài “Hai Mùa Mưa” nhẹ nhàng và êm ả, réo rắc và thống thiết:
 
Vì thương quê hương anh lặng lẽ bước chân đi
Vì yêu non sông tôi gạt nước mắt phân ly
Từng cơn mưa vẫn rơi não nề
Anh nói một năm nữa anh về…
 
 
Trường Sơn Lê Xuân Nhị