Thursday, May 29, 2025
VŨ VĂN MẪU: KẺ KHÔN QUÁ HOÁ NGU
Giáo sư Vũ Văn Mẫu có bằng Thạc sĩ Tư Pháp, được chính phủ Ngô Đình Diệm cho làm Khoa Trưởng Trường Đại Học Luật Khoa Sài Gòn, sau cất nhắc lên làm Bộ Trưởng Ngoại Giao từ 1955 đến 1963. Trên cương vị Bộ Trưởng Ngoại Giao, nhờ nội bộ ổn định và nhất là bằng vào uy tín của chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa và cá nhân TT Ngô Đình Diệm, Giáo sư Vũ Văn Mẫu nghiễm nhiên trở thành một trong những khuôn mặt sáng giá của chế độ. Trong thời gian làm Bộ Trưởng Ngoại Giao, Giáo sư Vũ Văn Mẫu vẫn được tiếp tục giảng dạy tại Đại Học Luật Khoa các lớp ban Cử Nhân và ban Cao Học.
Đặc biệt, các sách giáo khoa (Cours) do Giáo sư biên soạn như Dân Luật Khái Luận, Dân Luật Lược Khảo, vân vân đã được các sinh viên đón mua cách nồng nhiệt, và đó cũng là món huê lợi không phải là nhỏ. Chức vụ, quyền hành và lợi lộc tưởng chưa mấy nhân vật nào được ưu đãi hơn.
Theo Giáo sư Vũ Quốc Thúc, TT Ngô Đình Diệm tỏ ra rất nể trọng GS Vũ Văn Mẫu và GS Vũ Quốc Thúc. Cả hai ông đều được TT Ngô Đình Diệm trân trọng kêu bằng “Ngài”. Vậy mà sau khi được Mỹ móc nối và hứa hẹn, GS. Vũ Văn Mẫu đã trở mặt, quay đúng 180 độ ngay sau biến cố Phật Giáo cũng do CIA Mỹ đạo diễn, cạo đầu, xin từ chức và xin đi hành hương Ấn Độ. Việc làm của GS Vũ Văn Mẫu dĩ nhiên như đổ thêm dầu vào lửa sau vụ “bị thiêu sống” của TT Thích Quảng Đức làm cho tình hình bang giao Việt - Mỹ đang căng thẳng, trở nên gay cấn hơn, tạo thêm lý do để Mỹ xúi giục bọn tướng lãnh phản bội chuẩn bị ra tay. Tưởng rằng sau đảo chánh 1-11 thành công, GS. Vũ Văn Mẫu sẽ nắm vai trò quan trọng như chức vụ Thủ Tướng, nào ngờ được bố thí cho chức Đại Sứ tại Anh Quốc. Nhưng chưa đầy 4 tháng thì cuộc Chỉnh Lý của Nguyễn Khánh xầy ra khiến Giáo sư mất luôn chức Đại sứ để trở về Trương Luật dạy học kiếm ăn.
Sau một thời gian thậm thụt đi theo phe Phật Giáo Ấn Quang không ăn cái giải vì đám sư này quyết liệt tẩy chay mọi hoạt động của Chính quyền VNCH thì sự nghiệp chính trị của GS Vũ Văn Mẫu kể như kết thúc.
Nhưng đột nhiên, đám sư sãi Phật Giáo Ấn Quang nghĩ lại nếu cứ tiếp tục tẩy chay chính quyền thì tự cô lập mình và phe Phật Giáo Việt Nam Quốc Tự của TT Thích Tâm Châu được chính quyền công nhận sẽ thắng thế. Phật Giáo Ân Quang liền tung ra Liên Danh Hoa Sen ứng cử vào Thượng Nghị Viên 1973 do GS. Vũ Văn Mẫu đứng Thụ Uỷ cùng một số nhân vật như Bác sĩ Nguyễn Duy Tài, Tôn Thất Niệm, Tôn Ắi Liêng, Trần Quang Thuận, vân vân đồng thời ủng hộ Dương Văn Minh ra tranh cử Tổng Thống.
Nhưng khi thắng cử vào Thượng Nghị Viện rồi, Liên danh Hoa Sen cũng vẫn chỉ là thiểu số không nắm được một chức vị nào cả. Đã vậy, Nghị sĩ Nguyễn Duy Tài trong Liên danh Hoa Sen lại trở cờ chạy theo phe thân chính quyền, được chức Chủ Tịch Ủy ban Ngoại Giao Thượng Viện. Suối gần 2 năm trời ở Thượng Viện, Liên danh Hoa sen và NS Vũ Văn Mẫu chẳng làm nên trò trống gì.
Qua năm 1975, tình hình mỗi ngày thêm biến đổi, ông được phe Ấn Quang cử làm Chủ Tịch Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc mà Văn phòng đặt tại Khối Dân Tộc Xã Hội Hạ Nghị Viện. Nghị sĩ Vũ Văn Mẫu theo chỉ đạo của Ấn Quang đang nhắm đóng vai trò đại diện “Thành thành phần thứ ba” trong Chính Phủ ba thành phần.
Nhưng vì thiển cận không nhìn xa trông rộng, không thấy được nước cờ Hoa Kỳ và đối phương đang đi nên cuối cùng trở thành công cụ hốt rác cho Mỹ. Ngày 28-04-1975, vừa mới nhậm chức, thì cùng với Dương Văn Minh, ông nhân danh là Thủ Tướng Chính Phủ tuyên bố: “Yêu cầu Mỹ rút khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ” không phải để có “Chính Phủ Hòa Hợp Hòa Giải” mà là đầu hàng cách nhục nhã Cộng Sản ngày 30-04-1975.
Nhiều nhân vật cho biết, vào những giờ phút cuối, khi Dương Văn Minh bị áp lực của Việt Cộng sắp sửa tuyên bố đầu hàng, “Thủ Tướng một ngày” Vũ Văn Mẫu đã tỏ ra hoảng sợ cũng muốn tìm đường chạy trốn nhưng quá muộn, đành phải cúi đầu theo Dương Văn Minh vào Dinh Độc Lập đón tiếp bọn ăn cướp!
Bị kẹt lại Việt Nam, Vũ Văn Mẫu cũng như Dương Văn Minh, nhờ “công lao hãn mã đầu hàng vô điều kiện” nên Cộng Sản tha cho khỏi phải đi “học tập cải tạo” trong các trại tù như bao Quân Dân Cán Chính VNCH khác, mà chỉ bị học tập tại chỗ. Mấy năm sau, khi tìmh hình ổn định, Việt Cộng cho ông qua Pháp định cư.
Năm 1988, ông viết Hồi Ký “Sáu Tháng Pháp Nạn của Minh Không Vũ Văn Mẫu” để kể tội chế độ Ngô Đình Diệm, một chế độ đã đối xử rất tử tế với ông: cử làm Bộ Trưởng Ngoại Giao suốt từ 1955 dến 1963, một Bộ Trưởng ở lâu nhất trong chức vụ.
Đọc bài giới thiệu Hồi Ký “Sáu Tháng Pháp Nạn” của GS. Vũ Văn Mẫu do Giao Điểm xuất bản năm 2003 trên Internet, người ta thấy ông chê bôi, chỉ trích chế độ Ngô Đình Diệm và các nhân vật trong gia đình Tổng Thống Diệm một cách gay gắt không tiếc lời. Chưa hết, ông tấn công Dụ Số 10 do Bảo Đại đưa ra nhưng lại đổ tội cho TT Ngô Đình Diệm là “thủ phạm vì nó mà gây nên Pháp nạn.
Người viết tự hỏi: Giáo Sư Vũ Văn Mẫu, một nhân vật chính trị lớn, một nhà ngoại giao có tầm vóc, một Luật gia nổi tiếng, một Kẻ Sĩ thời đại tại sao lại có hành động như vậy?
Đáng lý ra với tư cách là một Luật gia nổi tiếng, một nhân vật lớn của chế độ (Bộ Trưởng Ngoại giao), một tín đồ Phật Giáo thuận thành với “Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi”, một kẻ sĩ thời đại “Phú quý bất năng dâm, Bần tiện bất năng di, Uy vũ bất năng khuất”, đã được chế độ ưu đãi trân trọng, thì nếu có những gì sai trái xẩy ra, phải có bổn phận lên tiếng can ngăn, cảnh giác, trình bày điều hơn lẽ thiệt để sửa đổi và để cứu nguy chết độ, chớ sao lại bỏ ngang chơi trò “cạo đầu”, đổ thêm dầu vào lửa, đâm sau lưng Lãnh Tụ?
Là một nhân vật được Tổng Thống rất nể trọng, tại sao ông không có can đảm đặt thẳng vấn đề với Tổng Thống khi họp Hội Đồng Nội Các hay lúc gặp gỡ riêng liên hệ đến lãnh vực ngoại giao? Vậy mà ông ngậm tăm, không làm gì cả ! Có phải vì ông cũng là thứ người hèn nhát, chỉ biết gọi dạ bảo vâng?
Nếu quả tình GS Vũ Văn Mẫu xứng đáng với những danh xưng đó, thì những ai chịu suy nghĩ cũng khó mà tìm được lời giải đáp. Vì cho đến giờ phút này, vẫn chưa có ai chứng mình được rằng Dụ Số 10 đã gây thiệt hại những gì cho Phật Giáo, ngoại trừ luận điệu xuyên tạc chế độ Ngô Đình Diệm là “gia đình trị” và “kỳ thị tôn giáo”.
Nói cho cùng, Dụ số 10 chỉ là cái cớ để mấy nhà sư tranh đấu lợi dụng nhằm gây bất mãn cho mục tiêu lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Còn trên thực tế, vì nhu cầu tổ chức của chính phủ Quốc Gia Việt Nam, vua Bảo Đại ban hành Dụ số 10 để cơ quan hành chánh căn cứ vào đó mà làm việc với các tổ chức đoàn thể.
Trên nguyên tắc, Phật Giáo là một tổ chức thì cũng phải ghi tên, đăng ký như các đoàn thể tổ chức khác. Nhưng cũng trên thực tế là Chính quyền của TT Ngô Đình Diệm không hề áp dụng Dụ số 10 với Phật Giáo. Chẳng những thế, chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa còn tỏ ra trân trọng giúp đỡ tận tình Phật Giáo xây Chùa, cho sư tăng xuất ngoại du học, vân vân và có thể nói đó là thời Phật Giáo phát triển mạnh nhất.
Xin hỏi lại mấy ông sư tranh đấu: Ai cho tiền xây Chùa Xá Lợi? Ai cho đất để xây Chùa Vĩnh Nghiêm? Ai cho các vị sư nổi tiếng như Thích Quang Liên, Thích Thiên Ân, Thích Nhất Hạnh, vân vân du học ngoại quốc? Có phải là chính Phủ Ngô Đình Diệm hay ai khác? Hỏi tức là trả lời. Vậy mà chính phủ Ngô Đình Diệm chỉ vì Chủ quyền Quốc gia, chống đối lại việc Mỹ muốn đưa quân vào Việt Nam đã bị hàm oan và trở thành nạn nhân?
Luận điệu nói rằng chính phủ Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo cũng sai. Tầm cỡ như TT Ngô Đình Diệm hay ông Cô vấn Ngô Đình Nhu đâu có ngu xuẩn hay dại dột làm những điều tệ hại như thế. Còn đối với Giáo Hội Công Giáo thì vì chưa được Tòa Thánh Vatican coi là trưởng thành, nên vẫn còn nằm dưới sự quản trị của Hội Thừa Sai Paris tức là MEP (Mission Étrangère de Paris) chớ chẳng phải ưu đãi gì. Vậy mà mấy ông đã “vọng ngữ” tức là nói láo rằng Chính phủ Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo, thật không thể tưởng tượng được mồm ép của mấy ông “sư hổ mang”! Các ông đả kích Chính quyền Ngô Đình Diệm về Dụ số 10 để rồi lại gửi văn thư 13-01-1964 xin phép Bộ Nội Vụ của Chính quyền quân phiệt ban hành Nghị định cho phép thành lập Giáo Hội, công nhận Hiến Chương của mấy ông thì có khác gì “nhổ ra rồi lại nuốt vô”!
Bởi thế, càng hô hào thống nhất lại càng chia rẽ! Thống nhất rồi mới tự chia ra hai phe: Việt Nam Quốc Tự và Ấn Quang! Vì có Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất nên ngày nay mới có Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (quốc doanh). Gieo nhân nào thì gặt quả nấy. Đó cũng là luật nhân quả của nhà Phật!
Pháp nạn ở đâu mà ra? Pháp nạn nằm trong lòng mấy ông đó! Nhưng Dụ Số 10 thì vẫn còn giá trị pháp lý và nó vẫn chưa hề bị hủy bỏ, ít ra là cho đến ngày 30-04-1975 .
Trở lại trường hợp GS Vũ Văn Mẫu, quả thật làm Kẻ Sĩ không phải dễ. Có học vị cao, có chức tước lớn cũng chưa bảo đảm hành động tốt và có đạo lý làm người. Khi đã tối mắt vì quyền lợi và chức tước thì Đạo Lý cũng sẽ bị giục vô thùng rác, dù đó là thùng rác của lịch sử. Tất cả những hành động của GS Vũ Văn Mẩu kể từ khi cạo đầu đã lột trần bản chất con người ông. Càng về sau thì sự thật con người của ông càng lộ ra những cái mà người có lương tri, đạo lý phải lắc đầu: một tên hoạt đầu chính trị!
Nhân danh là một trí thức, một nhà ngoại giao lớn, một chính trị gia có hạng, một luật gia nổi tiếng, vậy mà ông Vũ Văn Mẫu đã nghe lời dụ dỗ của ngoại bang, cạo đầu chống đối chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa, một chế độ hợp hiến, hợp pháp, hợp đạo lý để làm tay sai cho Dương Văn Minh, một tên tướng tham, hèn, ngu dâng nốt Miền Nam cho Cộng Sản.
Người ta nói: “Làm đầy tớ cho thằng khôn hơn làm thầy thằng ngu.” GS Vũ Văn Mẫu, thay vì làm thầy thằng khôn, lại dại dột đi làm đầy tớ cho thằng ngu, không phải một lần (1963) mà tới hai lần (1975) cho tên tướng tham, hèn, ngu Dương Văn Minh nên thân bại danh liệt là cái chắc.
Thời thế biến chuyển. Lòng người thay đổi. Chỉ vị lợi lộc và thiếu suy nghĩ, những kẻ võ biền như bọn tướng lãnh đâm thuê chém muớn xuất hiện. Những trí thức nửa mùa hoạt đầu như Hoàng Cơ Thụy, Phan Quang Đán, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Xuân Oánh, và sau cùng như Vũ Văn Mẫu nổi lên a dua cũng không thiếu.
Người ta nói: “Khôn ba năm dại một giờ”. Bọn chính khách hoạt đầu điếm đàng này thì “khôn ba năm, dại một đời”. Cái dại chẳng những làm hại chính bản thân nó mà làm hại cả một dân tộc!
Mẫu đã tiếp tay cho Dương Văn Minh phá sập nền Đệ Nhất Cộng Hoà. Mẫu lại tiếp tay cho Dương Văn Minh phá sập luôn nền Đệ Nhị Cộng Hoà.
Điều đáng nói là Mẫu không có gì để bất mãn. Mẫu được trọng dụng, được ưu đãi, nhưng Mẫu vừa hèn nhát vừa có tham vọng, lại muốn vừa làm thủ tướng của Việt Nam Cộng Hoà, vừa làm bạn với giặc cộng.
Rốt cuộc, Mẫu được làm thủ tướng hai ngày, và được giặc cộng sai khiến một thời gian.
Trường hợp Giáo sư Vũ Văn Mẫu: kẻ khôn làm đầy tớ thằng ngu hai lần!
PHẠM QUANG TRÌNH
Friday, May 23, 2025
Người Nữ Tù Binh duy nhất tại Hỏa Lò Hà Nội trong chiến tranh Việt Nam
Thursday, May 22, 2025
Câu chuyện thật về “Cô gái Napalm” Một lão già gắt gỏng từng làm việc tại Việt Nam CARL ROBINSON
Tôi đã mang câu chuyện thực sự đó trong lương tâm suốt hơn 50 năm. Một chuyến tàu lượn siêu tốc đầy cảm xúc về sự đồng lõa và cảm giác tội lỗi của chính tôi. Những đêm dài mãi không ngủ được. Những giấc mơ. Tôi cảm thấy tồi tệ mỗi khi nhìn thấy bức ảnh. Nhưng tôi luôn được xoa dịu bởi Kim-Dung thông thái, người nói rằng hãy để mọi thứ như vậy. Hãy để Đức Phật là người phán xét cuối cùng.
Tôi cố gắng tiếp tục sống, nhưng kỷ niệm của bức ảnh lại khuấy động mọi thứ một lần nữa. Một lần nữa, bức ảnh "Cô bé Napalm" được ca ngợi vì đã chấm dứt Chiến tranh Việt Nam, bỏ qua sự thật rằng hầu hết quân đội Mỹ đã rời đi và Hiệp định Hòa bình Paris chỉ còn vài tháng nữa là được ký kết. Qua mỗi lần kể, câu chuyện lại được tô vẽ thêm. Tôi hầu như không thể xem hay nghe.
Làm thế nào tôi có thể chống lại một huyền thoại đã ăn sâu đến vậy? Ai sẽ tin tôi? Đáng ngạc nhiên là hầu hết các đồng nghiệp cũ thời chiến mà tôi tâm sự đều nói tôi nên quên đi—tôi sẽ mất quá nhiều tình bạn. Một số người còn có thái độ khá đe dọa. Tôi gần như đã tiết lộ sự thật trong hồi ký năm 2020 của tôi, The Bite of the Lotus, nhưng đã kiềm chế, lo sợ hậu quả pháp lý và không muốn câu chuyện này làm lu mờ những năm tháng còn lại tôi sống ở Việt Nam.
Cuối cùng, tôi quyết định không đưa câu chuyện thực sự về bức ảnh "Cô bé Napalm" vào The Bite of the Lotus: Hồi ký thân mật về Chiến tranh Việt Nam, sau khi nhận được những lời đe dọa kiện tụng. Nhưng quan trọng hơn cả, tôi không muốn nó làm lu mờ tất cả những điều khác tôi đã làm từ năm 1964 đến 1975 khi sống và làm việc ở miền Nam Việt Nam.
Ngây thơ thay, tôi luôn tin vào sự thật của chính mình, thậm chí đã chia sẻ nó riêng tư qua nhiều năm. Nhưng khi bạn bè hỏi ai là nhiếp ảnh gia thực sự, tất cả những gì tôi có thể nói chỉ là: "Ồ, một người cộng tác tự do." Nhiều người Việt tại AP và NBC bên cạnh đều biết ai thực sự chụp bức ảnh đó; đó là một bí mật ai cũng biết. Năm 2015, cựu nhiếp ảnh gia AP, Đặng Văn Phước, nói với tôi rằng tên anh ấy là Nghệ, và anh ấy là tài xế của NBC, đồng thời là anh rể của kỹ thuật viên âm thanh TB Than. Nghệ đã trở thành người tị nạn ở Mỹ vào năm 1975 nhưng sau đó trở về Việt Nam sau khi vợ qua đời.
Giờ đây, tôi tình cờ tìm thấy một bức ảnh khác về "Cô bé Napalm", và tôi đoán người đàn ông mặc áo sơ mi trắng, áo ghi lê đen là Nghệ. Và chẳng phải đó là kỹ thuật viên âm thanh, anh rể của anh ấy, đứng bên cạnh sao? Cả NBC và ITN của Anh sau đó đều có hình ảnh những đứa trẻ chạy qua với góc nghiêng của Kim Phúc, nhưng không ai công bố ảnh khỏa thân toàn cảnh như AP.
Tháng 8 năm 2022, hậu Covid, chúng tôi quay lại Việt Nam. Tôi không còn muốn chiến đấu với câu chuyện đã được chấp nhận rộng rãi nữa; tôi chỉ muốn tìm Nghệ và—dù nghe có vẻ yếu đuối—giải thích những gì đã xảy ra và xin lỗi anh ấy. Nhưng Phước không cung cấp thêm thông tin về Nghệ.
Sau ba năm xa cách, tôi trở lại Việt Nam với niềm vui. Tôi tham gia một chuyến đi phượt bằng xe máy cùng 12 người Việt, nơi tôi gặp nhà báo đã nghỉ hưu Ngọc Vinh, người giới thiệu tôi với Lê Văn, một phóng viên trẻ. Cô ấy viết một bài báo về mối liên hệ lâu dài của tôi với Việt Nam, và chúng tôi nhanh chóng trở thành bạn bè. Thời gian trôi qua êm đềm với những chuyến du ngoạn quanh Đồng bằng sông Cửu Long và đảo Phú Quốc, nhưng tôi vẫn chưa biết làm sao tìm Nghệ.
Rồi một sự kiện xảy ra đã làm tôi quyết tâm vạch trần sự thật. Jim Laurie, người từng ở lại với NBC vào năm 1975 sau sự kiện Sài Gòn thất thủ, liên lạc với tôi. Ông ấy đang giảng bài trên một du thuyền sang trọng, sự kiện nổi bật là Nick Ut và Kim Phúc quay lại Trảng Bàng "cùng nhau lần đầu tiên sau 50 năm". Ông nhớ rằng tôi đã đề cập đến mối nghi ngờ của mình về bức ảnh trước đây, và hỏi tôi nhắc lại những gì tôi từng kể.
Trong một email dài, tôi nhớ lại những gì đã xảy ra ngày hôm đó ở AP và cách tên Ut được gán cho bức ảnh. Tôi cũng chia sẻ danh tính của Nghệ và mối liên hệ với NBC, cũng như bức ảnh tôi tin rằng chụp anh ấy tại Trảng Bàng. Tôi không nghe thêm gì nữa. Chỉ có một câu chuyện nhỏ từ bạn tôi ở Hà Nội về việc Ut được đón nhận vào Hội Nhà báo Việt Nam.
Cuối cùng, tôi quyết định nói ra sự thật. Tôi tìm đến bạn tôi, nhà báo Văn, và kể cho cô ấy câu chuyện thực về bức ảnh "Cô bé Napalm". Đó là khởi đầu của một cuộc hợp tác hai năm với Văn, một phóng viên cứng cỏi bậc nhất. Cô ấy báo cáo với các biên tập viên của Thanh Niên, tờ báo có lượng phát hành lớn thứ hai Việt Nam, nhưng họ muốn tôi cung cấp bằng chứng, một thứ gì đó công khai.
Khi du thuyền của Ut đến Sài Gòn, tôi nhờ Văn liên hệ với Jim Laurie. Sự kiện tại Trảng Bàng với Nick Ut và Kim Phúc hôm sau là riêng tư, không có phóng viên. Nhưng Jim tin câu chuyện của tôi và đồng ý nói chuyện với Ut. Khi ông nhắc đến tên tôi trong bữa sáng ở Siem Reap, Campuchia, Ut giận dữ gạt đi, gọi tôi là "kẻ điên" rồi bỏ đi. Jim chỉ bình luận lạnh lùng: "Sự thật sẽ chết cùng những người già."
Nhưng ít nhất, Văn đã vào cuộc. Cô tiếp cận Ut trong một lần anh ấy dạo phố và nói rằng cô đang nghiên cứu về những nhiếp ảnh gia khác có mặt tại Trảng Bàng hôm đó. Ut khẳng định anh ta là người duy nhất, nói rằng mọi người khác đều hết phim hoặc bỏ lỡ khoảnh khắc. Khi Văn nhắc đến tên Nghệ, anh ta nhanh chóng đáp: "Có lẽ anh ta đã chết." Anh ta cũng lặp lại tuyên bố rằng mình đã tự lái xe đưa Kim Phúc đến bệnh viện. Sau đó, Ut hứa sẽ gặp lại Văn sau khi khai mạc triển lãm Leica tại Singapore, nhưng không bao giờ liên lạc lại.
*********************************************************************
Van và tôi đồng ý rằng tìm được Nghệ là điều quan trọng. Bất chấp những nỗ lực của cô ấy, các biên tập viên đã từ chối đăng câu chuyện "Tìm kiếm ông Nghệ". Nhưng tôi cũng biết rằng, trong thế giới tin đồn của các biên tập viên Việt Nam, sự nghi ngờ về tác giả của bức ảnh nổi tiếng "Cô bé Napalm" đã xuất hiện. Tôi cũng may mắn khi liên hệ được với cựu kỹ thuật viên buồng tối của AP, Lưu Xá, ở California, người xác nhận rằng Nghệ mới là nhiếp ảnh gia thực sự, từng sống gần đó nhưng đã quay trở lại Việt Nam để tái hôn, và anh ấy luôn cảm thấy đau lòng về bức ảnh "Cô bé Napalm". Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn không thể tìm thấy anh ấy.
Trong khi Van tiếp tục tìm kiếm ở Sài Gòn, tôi xem lại những email cũ và nhớ ra điều mà Mort Rosenblum, một đồng nghiệp của AP, từng đề cập khi câu chuyện về "Cô bé Napalm" xuất hiện trong nhóm Google "Vietnam Old Hacks" sau cuộc hội ngộ năm 2015 tại Sài Gòn. Trong một cuộc tranh luận gay gắt sau khi ai đó nhắc đến câu chuyện của tôi, cựu phóng viên AP Peter Arnett xúc phạm tôi và đe dọa hành động pháp lý. Thực tế, tôi đã liên hệ với Arnett và kể sự thật vào năm 2009, không lâu sau khi thành lập nhóm "Vietnam Old Hacks", ngây thơ mong nhận được sự đồng cảm, nhưng anh ta ngay lập tức phản ứng phòng thủ. Và vào năm 2015, anh ta vẫn bảo vệ câu chuyện một cách mù quáng như vậy. Nhóm trực tuyến gồm các đồng nghiệp thời chiến không còn như trước sau vụ tranh cãi đó.
Rosenblum đã gửi email riêng cho tôi, băn khoăn về một câu chuyện đã lan truyền trong nhiều năm rằng Nick Ut không phải là người chụp bức ảnh. Hơn nữa, trong một chuyến đi qua Việt Nam năm 2011, ông ấy đã chia sẻ thông tin đó với nhà báo ảnh người Anh Gary Knight, người rất ngạc nhiên và đã nghĩ đến việc viết một bài báo vào thời điểm đó. Tôi quyết định gửi email cho Knight, và anh ấy ngay lập tức đồng ý phỏng vấn tôi để tìm hiểu thêm.
Vợ của Knight, Fiona Turner, và Terri Lichstein, cả hai đều là nhà sản xuất truyền hình đoạt giải Emmy, đã tham gia vào một dự án phim tài liệu do đạo diễn người Mỹ gốc Việt Bảo Nguyễn thực hiện, tiếp tục điều tra của Knight. Sau cuộc phỏng vấn đầu tiên với tôi, họ đã thuê Van ở Sài Gòn.
Nghệ vẫn cần được tìm thấy, nhưng không ai biết đầy đủ tên của anh ấy, chứ đừng nói đến quê hương của anh ở Việt Nam. Các nhiếp ảnh gia Việt Nam thời chiến, những người không làm việc cho NBC hay AP mà Van liên hệ ở Sài Gòn, vẫn tin rằng Nick Ut đã chụp bức ảnh "Cô bé Napalm", một người thậm chí còn tuyên bố rằng anh ta đã chụp ảnh từ xa bằng ống kính 500mm. Họ thậm chí chưa từng nghe thấy tin đồn nào trái ngược.
Tháng 3 năm 2023, Knight đến Việt Nam cùng với nhiếp ảnh gia chiến tranh nổi tiếng James Nachtwey và, trùng hợp ngẫu nhiên, Nick Ut, để tham dự một hội thảo nhiếp ảnh ở Hà Nội. Cùng lúc đó, Turner đề nghị tôi bay đến Sài Gòn để có một cuộc phỏng vấn mở rộng ghi lại câu chuyện của tôi. “Không đời nào Kim-Dung lại để tôi đi lên đó một mình,” tôi nói. Tôi đề nghị cả hai cùng đi. Vợ tôi do dự—cô ấy sợ sự chỉ trích và phản ứng tiêu cực chắc chắn sẽ theo sau, và không muốn công khai—nhưng cuối cùng đã đồng ý.
Tháng 4 năm 2023, chúng tôi quay lại Sài Gòn. Tôi được yêu cầu giữ bí mật về chuyến đi của mình và tránh trung tâm thành phố, nơi Nick Ut có thể đang đi dạo. Buổi quay phim diễn ra tốt đẹp: một cuộc phỏng vấn ba giờ với Knight, một giờ với Kim-Dung, và cảnh quay bổ sung ở trung tâm Sài Gòn—tôi trên xe máy, một ngôi chùa yêu thích, và một bữa tối với phở tại nhà. Sau khi Knight trở lại Mỹ, tôi có một cuộc họp chiến lược với hai nhà sản xuất Turner và Lichstein, Van và Kim-Dung.
Nhóm vẫn cần tìm Nghệ. Một nguồn tin không thể làm nên một câu chuyện. Nhưng anh ấy đang ở đâu? Và sau câu nói thoáng qua của Nick Ut, anh ấy thậm chí còn sống không? Turner và Lichstein có một danh sách các phóng viên nước ngoài tại Trảng Bàng và sẽ phỏng vấn họ, nhưng nhiều manh mối hóa ra lại vô ích. Nhà quay phim của NBC, Lê Phúc Dinh, và anh em huyền thoại Võ đã qua đời. Chúng tôi hy vọng sẽ tìm thấy tên đầy đủ của Nghệ trong danh sách các nhà báo Việt Nam từng làm việc với các hãng tin Mỹ trong “chiến dịch không vận bí mật” trước khi Sài Gòn thất thủ.
Van được giao nhiệm vụ theo dấu Hoàng Văn Danh (hoặc Doanh), người đã chụp bức ảnh quan trọng tại Trảng Bàng, cho thấy người mà tôi tin là Nghệ. Ông ấy cũng là một người tị nạn nhưng sau đó đã trở lại Việt Nam để mở một doanh nghiệp sản xuất đồ nội thất, sau này đã thất bại. Chúng tôi nghĩ đến việc thử tìm các linh mục địa phương ở Hồ Nai, nơi nhiều người Công giáo miền Bắc di cư năm 1954 có thể biết về ông ấy, nhưng mọi manh mối đều như ngõ cụt.
Tôi đã gặp nhà báo đã nghỉ hưu Ngọc Vinh (người thứ hai từ bên phải) trong một chuyến đi xe máy dài 750 km cùng 12 người Việt vào vùng đồi ruộng bậc thang phía Tây Hà Nội vào tháng 9 năm 2022. Ông ấy giới thiệu tôi với nhà báo Lê Văn, người đã viết một bài báo về một người nước ngoài 80 tuổi trên xe máy và mối liên hệ lâu dài của tôi với Việt Nam. Chúng tôi nhanh chóng trở thành bạn bè, và sau đó tôi đã tâm sự với cô ấy về câu chuyện thực sự đằng sau bức ảnh "Cô bé Napalm", nhờ cô giúp tìm ông Nghệ. Cô ấy sau đó đã làm việc chặt chẽ với các nhà sản xuất phim tài liệu The Stringer để đưa sự thật ra ánh sáng.
Sau đó, Kim-Dung gợi ý hỏi Ngọc Vinh, người bạn đi xe máy của tôi từ chuyến đi phía Bắc năm trước, cũng là người hướng dẫn báo chí của Văn. Với hơn 20.000 người theo dõi trên Facebook thường xuyên theo dõi những bài viết mạnh mẽ của ông về tham nhũng, có lẽ ông có thể giúp tìm Nghệ? Turner và Lichstein đồng ý rằng đây là một ý tưởng hay. Khi họ bay đi vào ngày hôm sau, Vinh—người đã gặp và phỏng vấn Nick Ut nhiều năm trước—đến nhà và đồng ý giúp. Tôi đã viết một bài đăng với ba bức ảnh cho trang Facebook của Vinh để tìm kiếm Nghệ.
Chỉ còn vài ngày nữa trước khi tôi rời đi, tôi gặp Văn vào sáng sớm để uống cà phê trong một khu nhà thời chiến đông đúc gần đó. Một bà mẹ đơn thân ngoài ba mươi tuổi, Văn lớn lên ở tỉnh Thanh Hóa, miền Bắc Việt Nam. Cha cô ấy là một nhà báo từng đưa tin về cuộc chiến của mình—cuộc xâm lược và chiếm đóng Campuchia của Việt Nam vào những năm 1980. Văn là một cộng sự quyết tâm, luôn mang theo từ điển trực tuyến Việt-Anh để tra những từ chưa quen thuộc. Cô ấy gọi tôi là "Chú Năm", theo số thứ tự trong gia đình của vợ tôi. Tôi đang dạy cô ấy về cuộc sống và công việc ở Sài Gòn trong chiến tranh, một ký ức công chúng đang dần mờ nhạt và bị lãng quên.
Hai ngày sau bài đăng trên Facebook của Vinh, điện thoại của Văn reo lên khi chúng tôi uống ly cà phê sữa đá quen thuộc. Đó là Vinh. Đôi mắt Văn sáng lên, nhìn tôi và chỉ vào điện thoại của cô ấy. Sau khi kết thúc cuộc gọi, cô ấy hít một hơi sâu rồi tuyên bố: “Chúng ta đã tìm thấy Nghệ!”
Nghệ đã gọi cho Vinh sau khi một người bạn ở Mỹ thấy bài đăng trên Facebook. Tôi tràn ngập cảm xúc, gần như bật khóc. Nghệ đang ở Vĩnh Long, cách đó khoảng ba giờ về phía Bắc Đồng bằng sông Cửu Long. Văn lập tức thuê xe cùng Vinh để thực hiện chuyến đi. Quá vui mừng, tôi trở về nhà và đánh thức Kim-Dung để chia sẻ tin tức. Cuối cùng, chúng tôi đã tìm thấy ông ấy!
Tôi lập tức gửi email cho Knight, Turner và Lichstein—tất cả đều đang bị ảnh hưởng bởi sự lệch múi giờ sau chuyến bay về nhà—và sau đó gọi Zoom cho họ. “Bây giờ chúng ta có một câu chuyện thực sự,” Gary nói. Họ quyết định quay lại Việt Nam, vì vậy tôi đã hủy chuyến bay về Úc. Một cảm giác mãn nguyện thực sự tràn ngập trong tôi. Sáng hôm sau, tôi đến chùa Quốc Gia để lặng lẽ cảm tạ Quan Âm, vị Bồ Tát của Lòng Từ Bi, rồi ngồi trong bóng râm cảm nhận làn gió nhẹ thoảng qua. Tôi cảm thấy sự bình yên tuyệt đối.
Văn và Vinh đến nhà tôi để báo cáo sau chuyến đi muộn về từ Vĩnh Long. Văn đã gửi hình ảnh chụp cùng Nghệ—và đúng vậy, đó chắc chắn là ông ấy, với vầng trán đặc trưng giống trong bức ảnh của Danh. Họ đã ăn trưa cùng nhau và ghé thăm ngôi nhà mà Nghệ chia sẻ với bạn gái Yến, sau khi người vợ thứ hai của ông lấy đi mọi thứ. Hiện đang sống ở miền Nam California với con gái, ông chỉ trở lại Việt Nam để giải quyết vụ ly hôn.
Tên đầy đủ của Nghệ là Nguyễn Thanh Nghệ; ông sinh tại Vĩnh Long năm 1937, tức 86 tuổi. Ông là một quay phim của ARVN, từng làm việc tự do cho các hãng tin phương Tây nhưng không phải là tài xế của NBC—hôm đó ông chỉ điền vào vị trí trống. Ông thực sự là nhiếp ảnh gia đã chụp bức ảnh "Cô bé Napalm". Đó chính là ông, đứng cạnh đoàn làm phim, trong chiếc áo sơ mi trắng và áo ghi lê đen.
Ông có giận dữ và cay đắng không? Không, ông nói—sau khi Sài Gòn thất thủ, ông tiếp tục cuộc sống của mình vì còn phải lo cho gia đình, hơn nữa, ông là một người tị nạn và không có cách nào đối đầu với AP. Không ai chú ý đến ông cho đến tận bây giờ. “Tôi không còn bằng chứng nào nữa,” ông nói với Văn. “Tôi là con số không. Trong khi đó, Huỳnh Công [Nick] Ut là anh hùng. Điều này thật bất công.”
Ngày hôm sau, khi tôi đang làm việc trên lầu và Kim-Dung đang xem TV gần đó, điện thoại của cô ấy reo lên. Văn có tin xấu: Nghệ vừa bị đột quỵ và đang được chuyển đến một bệnh viện ở Cần Thơ, cách 60km. Tin tức càng lúc càng nghiêm trọng—hai lần xuất huyết não; Nghệ đang trong tình trạng nguy kịch. Thật là một cú sốc sau niềm vui vỡ òa của ngày hôm trước.
Sau khi Turner và nhóm cân nhắc việc quay trở lại, họ lo ngại rằng ngay cả khi Nghệ sống sót, khả năng nói của ông ấy vẫn chưa chắc chắn. Tôi lại cầu nguyện Quan Âm, lần này trong sự tuyệt vọng.
Sáng hôm sau bắt đầu với một trận mưa lớn—vẫn còn quá sớm cho mùa mưa, nhưng tôi nghĩ đó là một dấu hiệu. Trời đang khóc thương cho Nghệ. Tôi lại uống cà phê với Văn, tâm trí tôi giờ đây chỉ nghĩ đến việc có thể tham dự một đám tang. Ít nhất, tôi thề sẽ đặt một bản sao của bức ảnh "Cô bé Napalm" nổi tiếng vào trong quan tài của Nghệ, nơi nó thực sự thuộc về. Tâm trạng chúng tôi rất nặng nề.
Kim-Dung đang ngồi ở bàn ăn khi điện thoại của cô ấy reo lên. Lại là Văn. Nghệ đã tỉnh, không còn hôn mê và có thể nói chuyện, nghe và cử động tất cả các chi. Ông ấy vẫn chưa thể ăn vì có ống dẫn trong cổ họng, nhưng đó là một phép màu! Một đoạn video cho thấy ông ấy vẫy tay, và tinh thần của chúng tôi bay cao trở lại. Gia đình ông từ Mỹ đã đến, và đội làm phim lại tiếp tục kế hoạch.
Với nhóm quay trở lại trước một tuần, Kim-Dung và tôi dành chút thời gian nghỉ ngơi tại tỉnh Đồng Tháp ở phía Tây đồng bằng sông Cửu Long. Chúng tôi tận hưởng bốn ngày thư giãn với những chuyến chạy xe máy dọc sông Mekong. Sau đó, chúng tôi đến Cần Thơ để cuối cùng gặp Nghệ vào đêm trước Ngày Anzac 2023.
Đội làm phim đã phỏng vấn Nghệ tại bệnh viện cùng con gái ông, Jenny, vừa từ Mỹ bay sang. Họ xác nhận rằng ông chính là nhiếp ảnh gia thực sự của bức ảnh "Cô bé Napalm". Ông đang nằm liệt giường sau cơn đột quỵ, giọng nói yếu ớt nhưng vẫn được ghi âm tốt. Lượt phỏng vấn của tôi sẽ diễn ra vào sáng hôm sau.
Kim-Dung và tôi đã bắt đầu chuyện tình của mình tại Cần Thơ năm 1967, khi cô ấy tham gia một khóa học thư ký cho USAID. Sau đó, tôi từ chức trong giận dữ vì cuộc Tổng Tiến Công Tết, khi một nửa thành phố bị tàn phá. Bệnh viện SIS 10 tầng chuyên điều trị đột quỵ khiến chúng tôi kinh ngạc khi đi lên tầng và chuẩn bị trong khu vực chờ nhỏ bên ngoài phòng họp, với bức tượng Hồ Chí Minh quen thuộc ở một góc.
Gặp và xin lỗi Nghệ là một trong những khoảnh khắc xúc động nhất cuộc đời tôi.
Sau một lúc, Nghệ được đưa vào bằng xe lăn, và chúng tôi được để lại một mình đối diện nhau. Tôi biết ông ấy có thể nói và hiểu tiếng Anh, nên tôi chậm rãi tự giới thiệu, giải thích rằng tôi từng là biên tập viên ảnh của AP vào năm 1972 và đã bị buộc phải gán tên Nick Ut lên bức ảnh. Từ phía sau cánh cửa đóng kín của phòng họp bên cạnh, đột nhiên có tiếng hét lên từ con gái ông, Jenny, khi cô ấy gục xuống trong nước mắt, la hét và khóc lóc. Tôi gần như không thể kết thúc lời xin lỗi của mình về những gì đã xảy ra nhiều năm trước. Nước mắt lăn dài trên má Nghệ khi tôi nói lời xin lỗi.
Kim-Dung và tôi cùng với Nghệ và con gái ông, Jenny, người đã bay từ Mỹ sang sau cuộc hội ngộ tại bệnh viện đột quỵ ở Cần Thơ, thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Ông ấy đã hồi phục một cách kỳ diệu.
Với cơn đột quỵ, tôi gần như không thể hiểu hết những gì Nghệ nói, nhưng ký ức rõ nét nhất của tôi về cuộc gặp gỡ ấy là phản ứng đầy cảm xúc của con gái ông. Cùng với anh trai mình, Jenny đã sống cả đời với câu chuyện về cha cô. Không lâu sau, Jenny bước ra, ôm tôi và gọi tôi là "thiên thần" của gia đình cô ấy. Cuối cùng tôi đã sửa chữa một sai lầm kinh khủng.
Giờ đây, đã có hai người—như một hình ảnh phản chiếu—và tất cả được ghi lại trên phim cho thế giới chứng kiến. Cuối cùng, công lý và sự công nhận đã được trao cho nhiếp ảnh gia thực sự của bức ảnh "Cô bé Napalm".
Giờ đây, bộ phim tài liệu đã sẵn sàng để đưa câu chuyện ra thế giới, sử dụng một đoạn từ bức ảnh giúp tìm ra Nghệ.
Carl Robinson, người Mỹ, đã sống ở Úc kể từ sau Chiến tranh Việt Nam. Ông cùng Nghệ tham dự buổi công chiếu The Stringer tại Liên hoan phim Sundance vào ngày 25 tháng 1. Trước buổi công chiếu, AP đã xuất bản một báo cáo bác bỏ tuyên bố rằng Nick Ut không phải là người chụp bức ảnh "Cô bé Napalm". Khi được tạp chí này hỏi liệu họ có tiếp tục ghi nhận Ut là tác giả bức ảnh không, AP trả lời: “Chúng tôi cam kết duy trì sự thật lịch sử về bức ảnh và vẫn đang thu thập thông tin để điều tra... Chúng tôi sẽ cập nhật khi có cơ hội xem xét đầy đủ bộ phim và các tài liệu bổ sung.”
Quan điểm của biên tập viên ảnh: 'Câu hỏi đặt ra là, chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo?'
Sốc. Đó là cảm giác của tôi khi đọc lời chứng của Carl Robinson về khoảng thời gian ông làm việc tại AP và những hành động của ông liên quan đến bức ảnh "Cô bé Napalm". Hình ảnh này nổi tiếng đến mức ngay lập tức trong tâm trí tôi, nó gắn liền với tên Nick Ut.
Công việc truyền thông đầu tiên của tôi là tại AAP, nơi độc quyền cung cấp hình ảnh của AP ở Úc. Tôi từng có đặc quyền truy cập vào kho lưu trữ ảnh và nguồn dữ liệu hằng ngày của họ. Độ chính xác trong tin tức và chú thích ảnh là nền tảng của sự tin cậy. Tôi thấy khó chịu ngay cả khi chỉ vô tình đưa ra một lỗi chính tả trong phần tác giả ảnh. Bức ảnh "Cô bé Napalm" không chỉ giúp AP và Nick Ut giành giải Pulitzer, mà còn góp phần chấm dứt một cuộc chiến và tạo dựng một huyền thoại. Giờ đây, hơn 50 năm sau, có người tuyên bố rằng Nguyễn Thanh Nghệ—một tài xế của NBC vào ngày hôm đó—thực sự là người đã chụp bức ảnh.
Giống như nhiều nhiếp ảnh gia, tôi đã dành những năm đầu trong nghề trong phòng tối. Vì vậy, câu hỏi lớn nhất của tôi là: chuyện gì đã xảy ra với các tấm phim âm bản—bằng chứng vật lý có thể giải quyết bí ẩn này? Có danh sách tiếp xúc ảnh không? AP đã lưu trữ hồ sơ như thế nào?
Bộ phim tài liệu The Stringer giải thích quy trình lưu trữ hồ sơ của AP. Hóa ra các tài liệu quan trọng đã bị thất lạc từ lâu. Nhưng vẫn có bằng chứng khác. Ngày hôm đó có đội quay phim truyền hình tại hiện trường, vậy nên có cả tư liệu video lẫn ảnh chụp. Các nhà làm phim đã thuê một công ty pháp y của Pháp để tái dựng các sự kiện diễn ra trên con đường ở Trảng Bàng. Cùng với những lời chứng khác, bao gồm từ con cái của Nghệ (những người có bản sao gốc của bức ảnh "Cô bé Napalm" tại nhà của họ), tất cả đều rất thuyết phục. Khi không có bằng chứng đối trọng mạnh mẽ ủng hộ câu chuyện của AP, thật khó để phủ nhận những gì đã được tiết lộ.
Gary Knight, người phỏng vấn trong phim, đã sử dụng cụm từ "những sự thật khó chịu." Một sự thật như vậy được khám phá trong phim là các phóng viên, nhiếp ảnh gia và đội quay phim có thể làm việc trong vùng chiến sự nhưng họ có đặc quyền sống bên trên nó, giữa cộng đồng đồng nghiệp của họ. Là biên tập viên ảnh của AP tại Sài Gòn, Robinson cũng có đặc quyền đó—nhưng ông ấy cũng là một người bản địa, với vợ và con Việt Nam phải chu cấp. Ông ấy không cảm thấy tự do để phản đối cấp trên tại AP. Khi một nhiếp ảnh gia tự do mang cuộn phim đến văn phòng AP, họ nhận được một khoản tiền mặt, một cuộn phim mới và giao dịch kết thúc; họ phần lớn vẫn là những người ngoài cuộc. Ngược lại, Nick Ut, với tư cách là nhiếp ảnh gia chính thức, thuộc đội ngũ của AP. Và có những lý do khác khiến một biên tập viên sẽ quan tâm đến anh ta, điều này được giải thích trong phim.
Robinson biết rằng các nhiếp ảnh gia tự do không có tiếng nói đủ mạnh để lên tiếng. Có lẽ đó là lý do khiến những hành động của ông ám ảnh ông suốt bao năm. Sự bất công. Việc không có cơ hội để đòi lại công bằng. Chỉ có ông ấy mới có thể vén màn bí mật này. Phải có sự can đảm để thách thức câu chuyện của một huyền thoại sống và một trong những tổ chức tin tức uy tín nhất thế giới.
Câu hỏi lớn lúc này là, chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo?
******************************************************