Thursday, May 29, 2025

VŨ VĂN MẪU: KẺ KHÔN QUÁ HOÁ NGU

Khi Mỹ âm mưu lật đổ TT Ngô Đình Diệm và nền Đệ Nhất Cộng Hòa bằng việc mua chuộc một số tướng lãnh đóng vai trò chủ chốt thì mặt khác, Mỹ cũng liên hệ và mua chuộc những nhân vật dân sự bằng những hứa hẹn quyền lợi và chức tước. Những nhận vật đó gồm: Ông bà Đại sứ Trần Văn Chương ở Hoa Kỳ, Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ Trưởng Phủ Tống Thống Nguyễn Đình Thuần, Chánh Văn Phòng Phủ Tổng Thống Võ Văn Hải và đặc biệt là Bộ Trưởng Ngoại Giao Vũ Văn Mẫu... Người viết muốn nhấn mạnh đến nhân vật Vũ Văn Mẫu ở đây.

Giáo sư Vũ Văn Mẫu có bằng Thạc sĩ Tư Pháp, được chính phủ Ngô Đình Diệm cho làm Khoa Trưởng Trường Đại Học Luật Khoa Sài Gòn, sau cất nhắc lên làm Bộ Trưởng Ngoại Giao từ 1955 đến 1963. Trên cương vị Bộ Trưởng Ngoại Giao, nhờ nội bộ ổn định và nhất là bằng vào uy tín của chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa và cá nhân TT Ngô Đình Diệm, Giáo sư Vũ Văn Mẫu nghiễm nhiên trở thành một trong những khuôn mặt sáng giá của chế độ. Trong thời gian làm Bộ Trưởng Ngoại Giao, Giáo sư Vũ Văn Mẫu vẫn được tiếp tục giảng dạy tại Đại Học Luật Khoa các lớp ban Cử Nhân và ban Cao Học.

Đặc biệt, các sách giáo khoa (Cours) do Giáo sư biên soạn như Dân Luật Khái Luận, Dân Luật Lược Khảo, vân vân đã được các sinh viên đón mua cách nồng nhiệt, và đó cũng là món huê lợi không phải là nhỏ. Chức vụ, quyền hành và lợi lộc tưởng chưa mấy nhân vật nào được ưu đãi hơn.

Theo Giáo sư Vũ Quốc Thúc, TT Ngô Đình Diệm tỏ ra rất nể trọng GS Vũ Văn Mẫu và GS Vũ Quốc Thúc. Cả hai ông đều được TT Ngô Đình Diệm trân trọng kêu bằng “Ngài”. Vậy mà sau khi được Mỹ móc nối và hứa hẹn, GS. Vũ Văn Mẫu đã trở mặt, quay đúng 180 độ ngay sau biến cố Phật Giáo cũng do CIA Mỹ đạo diễn, cạo đầu, xin từ chức và xin đi hành hương Ấn Độ. Việc làm của GS Vũ Văn Mẫu dĩ nhiên như đổ thêm dầu vào lửa sau vụ “bị thiêu sống” của TT Thích Quảng Đức làm cho tình hình bang giao Việt - Mỹ đang căng thẳng, trở nên gay cấn hơn, tạo thêm lý do để Mỹ xúi giục bọn tướng lãnh phản bội chuẩn bị ra tay. Tưởng rằng sau đảo chánh 1-11 thành công, GS. Vũ Văn Mẫu sẽ nắm vai trò quan trọng như chức vụ Thủ Tướng, nào ngờ được bố thí cho chức Đại Sứ tại Anh Quốc. Nhưng chưa đầy 4 tháng thì cuộc Chỉnh Lý của Nguyễn Khánh xầy ra khiến Giáo sư mất luôn chức Đại sứ để trở về Trương Luật dạy học kiếm ăn.

Sau một thời gian thậm thụt đi theo phe Phật Giáo Ấn Quang không ăn cái giải vì đám sư này quyết liệt tẩy chay mọi hoạt động của Chính quyền VNCH thì sự nghiệp chính trị của GS Vũ Văn Mẫu kể như kết thúc.

Nhưng đột nhiên, đám sư sãi Phật Giáo Ấn Quang nghĩ lại nếu cứ tiếp tục tẩy chay chính quyền thì tự cô lập mình và phe Phật Giáo Việt Nam Quốc Tự của TT Thích Tâm Châu được chính quyền công nhận sẽ thắng thế. Phật Giáo Ân Quang liền tung ra Liên Danh Hoa Sen ứng cử vào Thượng Nghị Viên 1973 do GS. Vũ Văn Mẫu đứng Thụ Uỷ cùng một số nhân vật như Bác sĩ Nguyễn Duy Tài, Tôn Thất Niệm, Tôn Ắi Liêng, Trần Quang Thuận, vân vân đồng thời ủng hộ Dương Văn Minh ra tranh cử Tổng Thống.

Nhưng khi thắng cử vào Thượng Nghị Viện rồi, Liên danh Hoa Sen cũng vẫn chỉ là thiểu số không nắm được một chức vị nào cả. Đã vậy, Nghị sĩ Nguyễn Duy Tài trong Liên danh Hoa Sen lại trở cờ chạy theo phe thân chính quyền, được chức Chủ Tịch Ủy ban Ngoại Giao Thượng Viện. Suối gần 2 năm trời ở Thượng Viện, Liên danh Hoa sen và NS Vũ Văn Mẫu chẳng làm nên trò trống gì.

Qua năm 1975, tình hình mỗi ngày thêm biến đổi, ông được phe Ấn Quang cử làm Chủ Tịch Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc mà Văn phòng đặt tại Khối Dân Tộc Xã Hội Hạ Nghị Viện. Nghị sĩ Vũ Văn Mẫu theo chỉ đạo của Ấn Quang đang nhắm đóng vai trò đại diện “Thành thành phần thứ ba” trong Chính Phủ ba thành phần.

Nhưng vì thiển cận không nhìn xa trông rộng, không thấy được nước cờ Hoa Kỳ và đối phương đang đi nên cuối cùng trở thành công cụ hốt rác cho Mỹ. Ngày 28-04-1975, vừa mới nhậm chức, thì cùng với Dương Văn Minh, ông nhân danh là Thủ Tướng Chính Phủ tuyên bố: “Yêu cầu Mỹ rút khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ” không phải để có “Chính Phủ Hòa Hợp Hòa Giải” mà là đầu hàng cách nhục nhã Cộng Sản ngày 30-04-1975.

Nhiều nhân vật cho biết, vào những giờ phút cuối, khi Dương Văn Minh bị áp lực của Việt Cộng sắp sửa tuyên bố đầu hàng, “Thủ Tướng một ngày” Vũ Văn Mẫu đã tỏ ra hoảng sợ cũng muốn tìm đường chạy trốn nhưng quá muộn, đành phải cúi đầu theo Dương Văn Minh vào Dinh Độc Lập đón tiếp bọn ăn cướp!

Bị kẹt lại Việt Nam, Vũ Văn Mẫu cũng như Dương Văn Minh, nhờ “công lao hãn mã đầu hàng vô điều kiện” nên Cộng Sản tha cho khỏi phải đi “học tập cải tạo” trong các trại tù như bao Quân Dân Cán Chính VNCH khác, mà chỉ bị học tập tại chỗ. Mấy năm sau, khi tìmh hình ổn định, Việt Cộng cho ông qua Pháp định cư.

Năm 1988, ông viết Hồi Ký “Sáu Tháng Pháp Nạn của Minh Không Vũ Văn Mẫu” để kể tội chế độ Ngô Đình Diệm, một chế độ đã đối xử rất tử tế với ông: cử làm Bộ Trưởng Ngoại Giao suốt từ 1955 dến 1963, một Bộ Trưởng ở lâu nhất trong chức vụ.

Đọc bài giới thiệu Hồi Ký “Sáu Tháng Pháp Nạn” của GS. Vũ Văn Mẫu do Giao Điểm xuất bản năm 2003 trên Internet, người ta thấy ông chê bôi, chỉ trích chế độ Ngô Đình Diệm và các nhân vật trong gia đình Tổng Thống Diệm một cách gay gắt không tiếc lời. Chưa hết, ông tấn công Dụ Số 10 do Bảo Đại đưa ra nhưng lại đổ tội cho TT Ngô Đình Diệm là “thủ phạm vì nó mà gây nên Pháp nạn.

Người viết tự hỏi: Giáo Sư Vũ Văn Mẫu, một nhân vật chính trị lớn, một nhà ngoại giao có tầm vóc, một Luật gia nổi tiếng, một Kẻ Sĩ thời đại tại sao lại có hành động như vậy?

Đáng lý ra với tư cách là một Luật gia nổi tiếng, một nhân vật lớn của chế độ (Bộ Trưởng Ngoại giao), một tín đồ Phật Giáo thuận thành với “Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi”, một kẻ sĩ thời đại “Phú quý bất năng dâm, Bần tiện bất năng di, Uy vũ bất năng khuất”, đã được chế độ ưu đãi trân trọng, thì nếu có những gì sai trái xẩy ra, phải có bổn phận lên tiếng can ngăn, cảnh giác, trình bày điều hơn lẽ thiệt để sửa đổi và để cứu nguy chết độ, chớ sao lại bỏ ngang chơi trò “cạo đầu”, đổ thêm dầu vào lửa, đâm sau lưng Lãnh Tụ?

Là một nhân vật được Tổng Thống rất nể trọng, tại sao ông không có can đảm đặt thẳng vấn đề với Tổng Thống khi họp Hội Đồng Nội Các hay lúc gặp gỡ riêng liên hệ đến lãnh vực ngoại giao? Vậy mà ông ngậm tăm, không làm gì cả ! Có phải vì ông cũng là thứ người hèn nhát, chỉ biết gọi dạ bảo vâng?

Nếu quả tình GS Vũ Văn Mẫu xứng đáng với những danh xưng đó, thì những ai chịu suy nghĩ cũng khó mà tìm được lời giải đáp. Vì cho đến giờ phút này, vẫn chưa có ai chứng mình được rằng Dụ Số 10 đã gây thiệt hại những gì cho Phật Giáo, ngoại trừ luận điệu xuyên tạc chế độ Ngô Đình Diệm là “gia đình trị” và “kỳ thị tôn giáo”.

Nói cho cùng, Dụ số 10 chỉ là cái cớ để mấy nhà sư tranh đấu lợi dụng nhằm gây bất mãn cho mục tiêu lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Còn trên thực tế, vì nhu cầu tổ chức của chính phủ Quốc Gia Việt Nam, vua Bảo Đại ban hành Dụ số 10 để cơ quan hành chánh căn cứ vào đó mà làm việc với các tổ chức đoàn thể.

Trên nguyên tắc, Phật Giáo là một tổ chức thì cũng phải ghi tên, đăng ký như các đoàn thể tổ chức khác. Nhưng cũng trên thực tế là Chính quyền của TT Ngô Đình Diệm không hề áp dụng Dụ số 10 với Phật Giáo. Chẳng những thế, chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa còn tỏ ra trân trọng giúp đỡ tận tình Phật Giáo xây Chùa, cho sư tăng xuất ngoại du học, vân vân và có thể nói đó là thời Phật Giáo phát triển mạnh nhất.

Xin hỏi lại mấy ông sư tranh đấu: Ai cho tiền xây Chùa Xá Lợi? Ai cho đất để xây Chùa Vĩnh Nghiêm? Ai cho các vị sư nổi tiếng như Thích Quang Liên, Thích Thiên Ân, Thích Nhất Hạnh, vân vân du học ngoại quốc? Có phải là chính Phủ Ngô Đình Diệm hay ai khác? Hỏi tức là trả lời. Vậy mà chính phủ Ngô Đình Diệm chỉ vì Chủ quyền Quốc gia, chống đối lại việc Mỹ muốn đưa quân vào Việt Nam đã bị hàm oan và trở thành nạn nhân?

Luận điệu nói rằng chính phủ Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo cũng sai. Tầm cỡ như TT Ngô Đình Diệm hay ông Cô vấn Ngô Đình Nhu đâu có ngu xuẩn hay dại dột làm những điều tệ hại như thế. Còn đối với Giáo Hội Công Giáo thì vì chưa được Tòa Thánh Vatican coi là trưởng thành, nên vẫn còn nằm dưới sự quản trị của Hội Thừa Sai Paris tức là MEP (Mission Étrangère de Paris) chớ chẳng phải ưu đãi gì. Vậy mà mấy ông đã “vọng ngữ” tức là nói láo rằng Chính phủ Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo, thật không thể tưởng tượng được mồm ép của mấy ông “sư hổ mang”! Các ông đả kích Chính quyền Ngô Đình Diệm về Dụ số 10 để rồi lại gửi văn thư 13-01-1964 xin phép Bộ Nội Vụ của Chính quyền quân phiệt ban hành Nghị định cho phép thành lập Giáo Hội, công nhận Hiến Chương của mấy ông thì có khác gì “nhổ ra rồi lại nuốt vô”!

Bởi thế, càng hô hào thống nhất lại càng chia rẽ! Thống nhất rồi mới tự chia ra hai phe: Việt Nam Quốc Tự và Ấn Quang! Vì có Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất nên ngày nay mới có Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (quốc doanh). Gieo nhân nào thì gặt quả nấy. Đó cũng là luật nhân quả của nhà Phật!

Pháp nạn ở đâu mà ra? Pháp nạn nằm trong lòng mấy ông đó! Nhưng Dụ Số 10 thì vẫn còn giá trị pháp lý và nó vẫn chưa hề bị hủy bỏ, ít ra là cho đến ngày 30-04-1975 .

Trở lại trường hợp GS Vũ Văn Mẫu, quả thật làm Kẻ Sĩ không phải dễ. Có học vị cao, có chức tước lớn cũng chưa bảo đảm hành động tốt và có đạo lý làm người. Khi đã tối mắt vì quyền lợi và chức tước thì Đạo Lý cũng sẽ bị giục vô thùng rác, dù đó là thùng rác của lịch sử. Tất cả những hành động của GS Vũ Văn Mẩu kể từ khi cạo đầu đã lột trần bản chất con người ông. Càng về sau thì sự thật con người của ông càng lộ ra những cái mà người có lương tri, đạo lý phải lắc đầu: một tên hoạt đầu chính trị!

Nhân danh là một trí thức, một nhà ngoại giao lớn, một chính trị gia có hạng, một luật gia nổi tiếng, vậy mà ông Vũ Văn Mẫu đã nghe lời dụ dỗ của ngoại bang, cạo đầu chống đối chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa, một chế độ hợp hiến, hợp pháp, hợp đạo lý để làm tay sai cho Dương Văn Minh, một tên tướng tham, hèn, ngu dâng nốt Miền Nam cho Cộng Sản.

Người ta nói: “Làm đầy tớ cho thằng khôn hơn làm thầy thằng ngu.” GS Vũ Văn Mẫu, thay vì làm thầy thằng khôn, lại dại dột đi làm đầy tớ cho thằng ngu, không phải một lần (1963) mà tới hai lần (1975) cho tên tướng tham, hèn, ngu Dương Văn Minh nên thân bại danh liệt là cái chắc.

Thời thế biến chuyển. Lòng người thay đổi. Chỉ vị lợi lộc và thiếu suy nghĩ, những kẻ võ biền như bọn tướng lãnh đâm thuê chém muớn xuất hiện. Những trí thức nửa mùa hoạt đầu như Hoàng Cơ Thụy, Phan Quang Đán, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Xuân Oánh, và sau cùng như Vũ Văn Mẫu nổi lên a dua cũng không thiếu.

Người ta nói: “Khôn ba năm dại một giờ”. Bọn chính khách hoạt đầu điếm đàng này thì “khôn ba năm, dại một đời”. Cái dại chẳng những làm hại chính bản thân nó mà làm hại cả một dân tộc!

Mẫu đã tiếp tay cho Dương Văn Minh phá sập nền Đệ Nhất Cộng Hoà. Mẫu lại tiếp tay cho Dương Văn Minh phá sập luôn nền Đệ Nhị Cộng Hoà.

Điều đáng nói là Mẫu không có gì để bất mãn. Mẫu được trọng dụng, được ưu đãi, nhưng Mẫu vừa hèn nhát vừa có tham vọng, lại muốn vừa làm thủ tướng của Việt Nam Cộng Hoà, vừa làm bạn với giặc cộng.

Rốt cuộc, Mẫu được làm thủ tướng hai ngày, và được giặc cộng sai khiến một thời gian.
Trường hợp Giáo sư Vũ Văn Mẫu: kẻ khôn làm đầy tớ thằng ngu hai lần!

PHẠM QUANG TRÌNH

Friday, May 23, 2025

Người Nữ Tù Binh duy nhất tại Hỏa Lò Hà Nội trong chiến tranh Việt Nam

 

Nữ y tá Đức Monika Schwinn, 31 tuổi, sau gần 4 năm tù bị giam cầm đã mừng rỡ khi đặt chân trở lại quê hương hồi 07/03/1973

Từ 05/08/1964 đến 29/03/1973 trong thời chiến tranh Việt Nam, nhà tù Hỏa Lò tại Hà Nội là nơi giam giữ hàng trăm tù binh Mỹ, đặc biệt ít người biết trong số tù binh ở nhà tù Hỏa Lò có một nữ tù binh duy nhất. Nữ tù binh này không phải là người Mỹ, mà cũng chẳng phải là lính Mỹ. Nữ tù nhân này là một y tá người Đức (Tây Đức), tên là Monika Schwinn, sang Đà Nẵng làm việc thiện nguyện giúp nạn nhân chiến tranh. Sau gần 4 năm bị bắt giam, mặc dù không phải là người Mỹ và lính Mỹ, nhưng cô Monika Schwinn được thả ra khỏi nhà tù Hỏa Lò chung với những tù binh Mỹ ngay sau khi Hiệp định Paris 1973 được ký kết.

Năm 1967, một con tầu của hy vọng sơn mầu trắng, đến thả neo ở Ðà Nẵng. Ðó là con tầu y tế “Helgoland” của Tây Đức, còn được gọi là bệnh viện nổi, phục vụ cứu trợ nhân đạo cho các nạn nhân chiến tranh do Hồng Thập Tự của Tây Đức thực hiện. Cùng hoạt động trong thành phố ấy còn có các toán y tế thuộc tổ chức Malteser Hilfsdienst, một tổ chức từ thiện Thiên chúa giáo tại Tây Đức, gồm các bác sĩ, nữ y tá và các nhân viên khác. Đây là các chương trình cứu trợ nạn nhân chiến tranh của CHLB Ðức, họ đã chữa trị cho cả hàng trăm ngàn thường dân Việt Nam, không phân biệt người theo cộng sản hay quốc gia.

Trong khi con tàu y tế “Helgoland” của Hồng Thập Tự chỉ hoạt động ở Việt Nam trong một thời gian ngắn khoảng 1 năm, thì tổ chức Malteser Hilfsdienst thực hiện công việc thiện nguyện suốt gần 9 năm trời, từ 07/09/1966 đến 10/04/1975, với tổng cộng 303 nhân viên gồm bác sĩ, y tá và người săn sóc bệnh nhân v.v. phục vụ chăm sóc y tế cho người dân Việt Nam – đặc biệt là ở Đà Nẵng, An Hòa và Hội An.

“Ðến nhờ chúng tôi chữa trị có những người lớn tay chân bị đứt lìa, và cả những đứa bé bụng bị rách toang…” khi Walter Ruhland kể lại về thời gian phục vụ của mình ở Việt Nam như vậy thì trên ánh mắt anh vẫn còn đầy vẻ khiếp sợ về những hình ảnh ấy. Anh là thợ cơ khí xe tải, tham dự chương trình cứu trợ Malteser Hilfsdienst hơn 40 năm trước đây, lúc ấy bỗng nhiên thấy mình hiện diện trong một cuộc chiến rất “khốc liệt và tàn bạo“.

Đối với cô Monika Schwinn ở Lebach thuộc bang Saarland, giúp đỡ những người gặp khó khăn là điều tự nhiên. “Cô ta luôn luôn hết sức sẳn lòng giúp đỡ“, anh họ Adolf Spaniol nhớ lại. Ban đầu, người phụ nữ trẻ ở Lebach này học nghề thợ làm tóc. Nhưng nghề thực sự cô yêu thích lại là y tá chăm sóc trẻ em. Không có gì ngạc nhiên với gia đình cô rằng vào năm 1968, lúc 26 tuổi, cô đã đáp ứng theo lời kêu gọi của tổ chức thiện nguyện Malteser Hilfsdienstes: Cần các bác sĩ và y tá phục vụ cho các bệnh viện ở Nam Việt Nam để giúp đỡ dân chúng, nạn nhân của cuộc chiến kéo dài không hồi kết. Cô Monika Schwinn hạnh phúc khi cô làm việc tại khoa nhi ở bệnh viện Đà Nẵng.
Bác sĩ và y tá của tổ chức cứu trợ Đức Malteser Hilfsdienst đang khám bệnh một em bé Việt Nam
Năm nhân viên Malteser Hilfsdienst bị Việt Cộng bắt cóc

Nhưng một ngày nghỉ cuối tuần 27/04/1969 đã trở thành một ngày định mệnh đối với cô Monika Schwinn. Cô ấy cùng với nữ đồng nghiệp Marie-Louise Kerber từ Nohfelden-Türkismühle cũng thuộc tiểu  bang Saarland, anh Bernhard Diehl 21 tuổi và hai y tá khác: 
cô Hindrika Kortmann và anh Georg Bartsch, họ đi một chuyến dã ngoại tưởng như bình thường, nhưng sau đó họ rơi vào một cuộc phục kích bên một cánh đồng lúa, bỗng nhiên xuất hiện mười lăm tay súng Việt Cộng, lăm lăm chĩa mũi súng vào họ. Khi được đưa vào làng, cả năm người đều hết sức tìm cách “chứng minh” mình chỉ là nhân viên y tế, mà là người “Đức”, chứ không phải người Mỹ! Vô hiệu quả! Nhóm Việt Cộng luôn đe dọa “cắt đầu”. Vài giờ sau khi bị bắt cóc, có lúc Bernhard Diehl đã quay sang nói với các đồng nạn nhân của mình, trong đó có cô Marie Luise Kerben, mới 19 tuổi: “Nguy quá, chắc phải mất ít nhất một năm để chúng mình mới được can thiệp cho trở về nhà”.
“Đây thực sự là chiến tranh“, Bernhard Diehl ngạc nhiên nhận thấy, khi anh ta đến Việt Nam năm anh 21 tuổi. Trong thời gian đi nghĩa vụ quân sự, anh đã được đào tạo như một nhân viên y tế, giờ đây tại Việt Nam anh là người đứng đầu đội y tá Malteser ở An Hòa gần Đà Nẵng. Ban ngày vùng này được coi là an toàn. Nhưng ban đêm, đó là “khu vực tranh chấp“, một khu vực nơi quân du kích Việt Cộng đang cố gắng mở rộng ảnh hưởng. Anh Bernhard Diehl và đội y tá của anh ta chăm sóc các thương binh ở cả hai phía và dân chúng.

Năm nhân viên của tổ chức thiện nguyện Malteser Hilfsdienst đã bị Việt Cộng bắt giữ ngày 27/04/1969
Nguyên do tại sao 5 nhân viên cứu trợ y tế của Tây Đức bị Việt Cộng bắt cóc?
Trong chiến tranh Việt Nam, CHLB Đức không đáp ứng yêu cầu của đồng minh Mỹ đưa quân đội vào tham chiến tại Việt Nam, để bù lại CHLB Ðức hiện diện tại miền Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng hòa) với vai trò đóng góp nhiều về viện trợ kinh tế, giáo dục, cứu trợ y tế, cứu trợ nạn nhân chiến tranh v.v.
Vậy tại sao 5 nhân viên người Tây Đức làm nhiệm vụ cứu trợ y tế của tổ chức thiện nguyện Malteser Hilfsdienst lại bị Việt Cộng bắt cóc?
Lý do là vì Cộng hòa Dân chủ Đức đã sử dụng Chiến tranh Việt Nam cho một chiến dịch tuyên truyền chống Tây Đức. Đây là một chiến dịch tuyên truyền rất là thâm độc của Ðông Bá Linh! Các nhân viên tuyên truyền kích động của CHDC Ðức dựng lên hình ảnh một nước Tây Ðức gây chiến và Cộng hòa Liên bang Đức là chư hầu của Mỹ, những người Tây Đức tình nguyện mặc áo bác sĩ chỉ là ngụy trang, họ chính là những người trợ giúp quân sự cho Nam Việt Nam.
Đồng thời họ ngụy tạo tin quân đội CHLB Ðức gởi một đội quân bí mật sang Việt Nam dưới cái tên là “Legion Vietnam” (Binh đoàn lê dương Đức tại Việt Nam)! Báo “Neues Deutschland” (Nước Ðức Mới) của Đảng Cộng sản Đông Đức (SED) mô tả con tàu y tế “Helgoland” trong bức tranh biếm họa như một tàu chiến, với hình khắc trên boong mũi là một người lính.
Ngoài ra, ông Albert Norden, lãnh đạo tuyên truyền trong Bộ Chính trị đảng SED (SED là tên viết tắt của Ðảng Xã hội Thống nhất Ðức) ngụy tạo ra một số người làm “nhân chứng” về việc có chiến đấu võ trang trong các toán công tác cứu trợ của CHLB Ðức!
Sự dối trá ấy đưa đến một tác động ghê gớm ngay. Nhân viên cứu trợ bỗng nhiên bị đánh đồng, coi như là “tay sai của Ðế Quốc Mỹ”, và thế là mạng sống của họ bị rơi ngay vào hiểm nguy thường xuyên của cuộc chiến. Các nhân viên cứu trợ Tây Ðức bị đưa vào “sổ đen” của Việt Cộng.
Tiến sĩ Hermann von Richthofen, hiện cư ngụ tại Berlin, hồi đó được gửi đến Đại sứ quán CHLB Đức tại Sài Gòn với tư cách là một cố vấn trẻ trong ngoại giao đoàn, sau này cũng làm việc ở Đông Berlin, ông đã nói vắn tắt về mục tiêu tuyên truyền của CHDC Ðức như sau: “Tôi nghĩ rằng, Ðông Ðức chỉ muốn bằng mọi cách làm Tây Ðức chúng ta bị suy yếu, không chỉ trên bình diện quốc tế, mà cả trong nội bộ nước CHLB Ðức. Đó là việc gây ảnh hưởng tác động đến thế hệ 68, họ dễ bị mắc phải vào sự tuyên truyền của Đông Đức. Và bằng cách thức này có thể gây xáo trộn để một chính phủ khác lên cầm quyền“.
Trong số năm y tá Tây Đức bị bắt cóc, chỉ có 2 người còn sống sót trở về.
Sau khi 5 nhân viên của tổ chức thiện nguyện Malteser Hilfsdienst bị Việt Cộng bắt cóc, họ bị áp giải từ Nam ra Bắc, đi bộ dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh. Monika Schwinn và những người cùng khổ của cô phải đi hết khu rừng này đến khu rừng khác. “Đó là một phòng giam nhỏ, rộng khoảng một mét rưỡi và dài hai mét rưỡi. Cái giường là một vài tấm ván nằm trên sàn bê tông ở độ cao từ 20 đến 25 cm. Một nửa mét vuông là dành để cái xô vệ sinh“, Monika Schwinn viết trên tờ Der Spiegel (Tạp chí Tấm gương) sau khi được thả ra hồi năm 1973. Họ bị thẩm vấn, tra tấn, hầu như không được ăn gì. Bệnh tật và bị hạ nhục xảy ra thường xuyên. Ba trong số năm người đã không sống sót nỗi. Cô Marie-Louise Kerber chết lúc bị giam cầm hồi năm 1969, mãi đến năm 1997 mới có thể đưa hài cốt cô về tiểu bang Saarland chôn cất. Monika Schwinn cũng thường cận kề với cái chết hơn là sự sống. Nhưng cô đấu tranh kiên cường, không để bị sỉ nhục. “Cắn vào tôi là họ gãy răng“, cô viết.
Hai y tá Monika Schwinn và Bernhard Diehl sau khi được thả ra khỏi nhà tù Hỏa Lò ngày 05/03/1973 về đến CHLB Đức vào ngày 07/03/1973
Sau 1,346 ngày bị cầm giữ (gần 4 năm dài), trong thời gian cuối bị giam giữ trong nhà tù khét tiếng Hỏa Lò tại Hà Nội, Monika Schwinn và Bernhard Diehl cuối cùng đã được thả ra vào ngày 05/03/1973 sau khi Hiệp định Paris kết thúc cuộc Chiến tranh Việt Nam được ký kết. 
Ngày 07/03/1973 tại sân bay Tây Đức ở Frankfurt am Main, họ được nồng nhiệt chào đón bằng những biểu ngữ. Báo chí và truyền thông chen lấn chung quanh họ. Tạp chí Stern (Ngôi sao) đưa ngay lên trang bìa, làm thành đề tài chính của số báo. Trên tờ Der Spiegel (Tạp chí Tấm gương) Monika Schwinn viết hồi ký về những gian khổ của cô đã trải qua trong gần 4 năm bị giam cầm tại miền Bắc Việt Nam. Thậm chí cô cùng với Bernhard Diehl còn viết một cuốn sách ấn tượng: “Một chút ít tình người“. Tại tiểu bang Saarland, quê hương của cô, cô được Thống đốc Franz-Josef Röder (thuộc đảng CDU) chào đón và được thành phố Lebach vinh danh thành công dân danh dự.
Đến một lúc nào đó những vinh quang lắng dịu, và Monika Schwinn đi làm y tá trở lại tại Lebach, chăm sóc trẻ sơ sinh. Cô cũng giúp những thuyền nhân tị nạn Việt Nam khi họ đến Lebach. Như một điều tất nhiên. “Cô ấy luôn tạo ấn tượng vui vẻ với tôi“, anh họ Adolf Spaniol của cô nói. Nhưng bị giam cầm một thời gian dài trong một điều kiện cực kỳ khắc nghiệt như vậy, cô không thể hồi phục hoàn toàn giống như trước đây được. Cô không lập gia đình và đã nghỉ hưu ở tuổi 55. “Cô ấy thường xuyên bị ốm“, anh họ của cô nói, „ có lẽ điều mà cũng làm cô ấy đau là người ta không còn nhớ đến cô nữa“. Người ta đã quên cái giá mà cô ấy đã trả cho sự sẳn lòng giúp đỡ của cô ta.
Hôm thứ Hai 11/03/2019 Monika Schwinn đã qua đời, thọ 76 tuổi, trong bệnh viện ở Lebach, nơi cô làm việc y tá ở khoa nhi trong một thời gian nhiều năm dài.
Vào thứ Năm ngày 21/03/2019, lúc 1 giờ chiều, buổi tang lễ cầu nguyện cho Monika Schwinn đã diễn ra tại nhà thờ giáo xứ ở Lebach.

Thursday, May 22, 2025

Câu chuyện thật về “Cô gái Napalm” Một lão già gắt gỏng từng làm việc tại Việt Nam CARL ROBINSON

 

Dưới đây là bản dịch tiếng Việt của bài viết của Carl Robinson về câu chuyện thật đằng sau bức ảnh “Cô gái Napalm”:
CARL ROBINSON
Câu chuyện thật về “Cô gái Napalm”
Một lão già gắt gỏng từng làm việc tại Việt Nam
CARL ROBINSON
07/02/2025
Việc tôi viết và xuất bản độc quyền câu chuyện này – một đặc ân thực sự – tại quê hương thứ hai của tôi là Úc, nơi tôi sinh sống kể từ sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975, sau gần 12 năm làm việc tại miền Nam Việt Nam với tư cách là nhân viên viện trợ và sau đó là phóng viên cho hãng thông tấn AP. Nhưng điều đã xảy ra với bức ảnh nổi tiếng ấy luôn ám ảnh trong tâm trí tôi – và giờ đây trở thành chủ đề của bộ phim tài liệu gây tranh cãi The Stringer, ra mắt tại Liên hoan phim Sundance ngày 25 tháng 1 năm 2025.
Và đây là câu chuyện của riêng tôi, rất cá nhân, được minh họa bằng những bức ảnh tôi tự chụp, chứ không phải từ bài đăng trên tạp chí The Weekend Australian Magazine.
Ai là người chụp bức ảnh “Cô gái Napalm”?
Biên tập viên ảnh Carl Robinson khẳng định đó không phải là Nick Ut.
Hình ảnh mang tính biểu tượng của Chiến tranh Việt Nam đã đoạt giải Pulitzer – nhưng giờ đây, cựu biên tập viên ảnh của AP cho rằng ông đã ghi công sai người và quyết định kể lại câu chuyện từ góc nhìn của chính mình.
Có điều gì đó về bức ảnh “Cô gái Napalm” luôn đeo bám tôi. Cảm giác tội lỗi, bất công và hèn nhát về bức ảnh nổi tiếng ấy đè nặng lên tôi suốt nhiều năm – đúng hơn là hàng thập kỷ – cho đến kỷ niệm 50 năm bức ảnh vào năm 2022. Tôi gần 80 tuổi rồi và không thể tiếp tục trốn tránh sự thật được nữa. Tôi buộc phải dừng lại, quay lại đối diện với cơn ác mộng cá nhân ấy.
Tôi bắt đầu thu thập tất cả các bức ảnh từ internet và đồng nghiệp cũ, ghi lại những gì đã xảy ra tại Trảng Bàng, tây bắc Sài Gòn, ngày 8 tháng 6 năm 1972. Cảnh ném bom napalm nhầm bên cạnh ngôi đền Cao Đài nổi bật khiến lũ trẻ hoảng loạn bỏ chạy về phía các phóng viên và quay phim.
Rồi một bức ảnh hiện ra – có thể tôi đã từng thấy nhưng cố gạt ra khỏi tâm trí. Nó chụp Kim Phúc và những đứa trẻ khác ngay sau khi chạy qua hai nhóm quay phim truyền hình. Phía bên phải ảnh, một nhiếp ảnh gia Việt Nam mặc áo sơ mi trắng và áo khoác đen đang chụp hình bằng máy ảnh SLR – tôi biết ngay đó chính là người thật sự chụp bức ảnh nổi tiếng. Không phải Nick Ut.
Bạn thấy đó, Huỳnh Công “Nick” Ut không phải là người đã chụp bức ảnh nổi tiếng ấy. Tôi biết vì hôm đó tôi là biên tập viên ảnh tại văn phòng AP. Tôi sắp đánh tên của một cộng tác viên người Việt vào phần chú thích để gửi đi thì sếp tôi, Horst Faas, ghé vào tai tôi và ra lệnh bằng giọng Đức nặng nề: “Nick Ut. Ghi tên Nick Ut vào.”
Tôi đã làm theo. Dù tôi biết rõ không phải Ut chụp ảnh đó. Tôi không cảm thấy có sự lựa chọn nào khác. Faas là người đã cho tôi công việc này. Tôi có vợ người Việt và hai con nhỏ cần nuôi. Tôi không dám cãi.
Tôi đã sống với sự thật đó trong hơn 50 năm – đầy dằn vặt. Tôi từng suýt tiết lộ trong hồi ký The Bite of the Lotus năm 2020, nhưng lo sợ kiện tụng và không muốn làm lu mờ phần đời còn lại của mình ở Việt Nam.
Người thật sự chụp bức ảnh là ông Nguyễn Thành Nghệ, một người từng làm việc tự do cho các hãng tin nước ngoài. Một người tài năng nhưng không có tiếng nói. Hồi năm 2015, cựu nhiếp ảnh gia AP Đặng Văn Phước nói với tôi rằng ông tên là Nghệ, từng làm tài xế cho NBC, là anh rể của kỹ thuật viên âm thanh TB Thân.
Khi tôi tình cờ phát hiện ra một bức ảnh khác trong chuỗi ảnh Trảng Bàng, tôi biết chắc người đàn ông mặc áo trắng – đứng cạnh đoàn quay phim – chính là ông Nghệ.
Tôi quyết định phải tìm ông và xin lỗi.
Cuối cùng, nhờ sự giúp đỡ của nhà báo trẻ Lê Vân và người bạn mô tô già Ngọc Vinh, chúng tôi đã tìm được ông Nghệ ở Vĩnh Long – nơi ông trở về giải quyết việc ly hôn sau nhiều năm sống ở Mỹ.
Tôi đã gặp ông tại bệnh viện sau khi ông vừa qua cơn đột quỵ. Khi tôi nói lời xin lỗi, nước mắt lăn dài trên má ông. Con gái ông òa khóc phía sau cánh cửa, khi sự thật bị chôn giấu suốt nửa thế kỷ cuối cùng cũng được phơi bày.
Ông Nghệ sinh năm 1937 tại Vĩnh Long. Là một quay phim của quân đội VNCH, từng làm việc tự do cho các hãng tin nước ngoài. Chính ông mới là người chụp bức ảnh “Cô gái Napalm”.
 ⸻
 Tôi biết điều tôi đã làm là sai. Tôi là một người có lương tâm, thậm chí là một Người Phản Đối Có Lương Tâm; tôi đã từ bỏ Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) như một hành động phản đối chiến tranh. Khi phóng viên chiến tranh kỳ cựu Peter Arnett bước tới chúc mừng Nick Ut đang kinh ngạc, tôi hoàn toàn cảm thấy bức xúc. Tôi gọi một đồng nghiệp bên ngoài và kể với anh ấy chuyện đã xảy ra. “Sao anh ta có thể làm vậy?” Nhưng bây giờ chúng tôi cần tìm cô bé, người mà dù sau này Nick Ut có kể những câu chuyện khác đi, thì anh ta cũng không hề đưa cô ấy đến bệnh viện. Khi cả thế giới phản ứng với bức ảnh trong vài ngày tới, tôi đã tìm thấy Kim Phúc ở bệnh viện đầu tiên mà chúng tôi đến, nhờ sự giúp đỡ của Tom Fox, một người nói tiếng Việt trôi chảy, và một nhiếp ảnh gia Việt Nam tên Cuong. Khoảng thời gian duy nhất Nick Ut gặp cô ấy là năm sau, khi anh ta giành giải Pulitzer và AP cần một bức ảnh. Chúng tôi đều biết sự thật.

Tôi đã mang câu chuyện thực sự đó trong lương tâm suốt hơn 50 năm. Một chuyến tàu lượn siêu tốc đầy cảm xúc về sự đồng lõa và cảm giác tội lỗi của chính tôi. Những đêm dài mãi không ngủ được. Những giấc mơ. Tôi cảm thấy tồi tệ mỗi khi nhìn thấy bức ảnh. Nhưng tôi luôn được xoa dịu bởi Kim-Dung thông thái, người nói rằng hãy để mọi thứ như vậy. Hãy để Đức Phật là người phán xét cuối cùng.

Tôi cố gắng tiếp tục sống, nhưng kỷ niệm của bức ảnh lại khuấy động mọi thứ một lần nữa. Một lần nữa, bức ảnh "Cô bé Napalm" được ca ngợi vì đã chấm dứt Chiến tranh Việt Nam, bỏ qua sự thật rằng hầu hết quân đội Mỹ đã rời đi và Hiệp định Hòa bình Paris chỉ còn vài tháng nữa là được ký kết. Qua mỗi lần kể, câu chuyện lại được tô vẽ thêm. Tôi hầu như không thể xem hay nghe.

Làm thế nào tôi có thể chống lại một huyền thoại đã ăn sâu đến vậy? Ai sẽ tin tôi? Đáng ngạc nhiên là hầu hết các đồng nghiệp cũ thời chiến mà tôi tâm sự đều nói tôi nên quên đi—tôi sẽ mất quá nhiều tình bạn. Một số người còn có thái độ khá đe dọa. Tôi gần như đã tiết lộ sự thật trong hồi ký năm 2020 của tôi, The Bite of the Lotus, nhưng đã kiềm chế, lo sợ hậu quả pháp lý và không muốn câu chuyện này làm lu mờ những năm tháng còn lại tôi sống ở Việt Nam.

Cuối cùng, tôi quyết định không đưa câu chuyện thực sự về bức ảnh "Cô bé Napalm" vào The Bite of the Lotus: Hồi ký thân mật về Chiến tranh Việt Nam, sau khi nhận được những lời đe dọa kiện tụng. Nhưng quan trọng hơn cả, tôi không muốn nó làm lu mờ tất cả những điều khác tôi đã làm từ năm 1964 đến 1975 khi sống và làm việc ở miền Nam Việt Nam.

Ngây thơ thay, tôi luôn tin vào sự thật của chính mình, thậm chí đã chia sẻ nó riêng tư qua nhiều năm. Nhưng khi bạn bè hỏi ai là nhiếp ảnh gia thực sự, tất cả những gì tôi có thể nói chỉ là: "Ồ, một người cộng tác tự do." Nhiều người Việt tại AP và NBC bên cạnh đều biết ai thực sự chụp bức ảnh đó; đó là một bí mật ai cũng biết. Năm 2015, cựu nhiếp ảnh gia AP, Đặng Văn Phước, nói với tôi rằng tên anh ấy là Nghệ, và anh ấy là tài xế của NBC, đồng thời là anh rể của kỹ thuật viên âm thanh TB Than. Nghệ đã trở thành người tị nạn ở Mỹ vào năm 1975 nhưng sau đó trở về Việt Nam sau khi vợ qua đời.

Giờ đây, tôi tình cờ tìm thấy một bức ảnh khác về "Cô bé Napalm", và tôi đoán người đàn ông mặc áo sơ mi trắng, áo ghi lê đen là Nghệ. Và chẳng phải đó là kỹ thuật viên âm thanh, anh rể của anh ấy, đứng bên cạnh sao? Cả NBC và ITN của Anh sau đó đều có hình ảnh những đứa trẻ chạy qua với góc nghiêng của Kim Phúc, nhưng không ai công bố ảnh khỏa thân toàn cảnh như AP.

Tháng 8 năm 2022, hậu Covid, chúng tôi quay lại Việt Nam. Tôi không còn muốn chiến đấu với câu chuyện đã được chấp nhận rộng rãi nữa; tôi chỉ muốn tìm Nghệ và—dù nghe có vẻ yếu đuối—giải thích những gì đã xảy ra và xin lỗi anh ấy. Nhưng Phước không cung cấp thêm thông tin về Nghệ.

Sau ba năm xa cách, tôi trở lại Việt Nam với niềm vui. Tôi tham gia một chuyến đi phượt bằng xe máy cùng 12 người Việt, nơi tôi gặp nhà báo đã nghỉ hưu Ngọc Vinh, người giới thiệu tôi với Lê Văn, một phóng viên trẻ. Cô ấy viết một bài báo về mối liên hệ lâu dài của tôi với Việt Nam, và chúng tôi nhanh chóng trở thành bạn bè. Thời gian trôi qua êm đềm với những chuyến du ngoạn quanh Đồng bằng sông Cửu Long và đảo Phú Quốc, nhưng tôi vẫn chưa biết làm sao tìm Nghệ.

Rồi một sự kiện xảy ra đã làm tôi quyết tâm vạch trần sự thật. Jim Laurie, người từng ở lại với NBC vào năm 1975 sau sự kiện Sài Gòn thất thủ, liên lạc với tôi. Ông ấy đang giảng bài trên một du thuyền sang trọng, sự kiện nổi bật là Nick Ut và Kim Phúc quay lại Trảng Bàng "cùng nhau lần đầu tiên sau 50 năm". Ông nhớ rằng tôi đã đề cập đến mối nghi ngờ của mình về bức ảnh trước đây, và hỏi tôi nhắc lại những gì tôi từng kể.

Trong một email dài, tôi nhớ lại những gì đã xảy ra ngày hôm đó ở AP và cách tên Ut được gán cho bức ảnh. Tôi cũng chia sẻ danh tính của Nghệ và mối liên hệ với NBC, cũng như bức ảnh tôi tin rằng chụp anh ấy tại Trảng Bàng. Tôi không nghe thêm gì nữa. Chỉ có một câu chuyện nhỏ từ bạn tôi ở Hà Nội về việc Ut được đón nhận vào Hội Nhà báo Việt Nam.

Cuối cùng, tôi quyết định nói ra sự thật. Tôi tìm đến bạn tôi, nhà báo Văn, và kể cho cô ấy câu chuyện thực về bức ảnh "Cô bé Napalm". Đó là khởi đầu của một cuộc hợp tác hai năm với Văn, một phóng viên cứng cỏi bậc nhất. Cô ấy báo cáo với các biên tập viên của Thanh Niên, tờ báo có lượng phát hành lớn thứ hai Việt Nam, nhưng họ muốn tôi cung cấp bằng chứng, một thứ gì đó công khai.

Khi du thuyền của Ut đến Sài Gòn, tôi nhờ Văn liên hệ với Jim Laurie. Sự kiện tại Trảng Bàng với Nick Ut và Kim Phúc hôm sau là riêng tư, không có phóng viên. Nhưng Jim tin câu chuyện của tôi và đồng ý nói chuyện với Ut. Khi ông nhắc đến tên tôi trong bữa sáng ở Siem Reap, Campuchia, Ut giận dữ gạt đi, gọi tôi là "kẻ điên" rồi bỏ đi. Jim chỉ bình luận lạnh lùng: "Sự thật sẽ chết cùng những người già."

Nhưng ít nhất, Văn đã vào cuộc. Cô tiếp cận Ut trong một lần anh ấy dạo phố và nói rằng cô đang nghiên cứu về những nhiếp ảnh gia khác có mặt tại Trảng Bàng hôm đó. Ut khẳng định anh ta là người duy nhất, nói rằng mọi người khác đều hết phim hoặc bỏ lỡ khoảnh khắc. Khi Văn nhắc đến tên Nghệ, anh ta nhanh chóng đáp: "Có lẽ anh ta đã chết." Anh ta cũng lặp lại tuyên bố rằng mình đã tự lái xe đưa Kim Phúc đến bệnh viện. Sau đó, Ut hứa sẽ gặp lại Văn sau khi khai mạc triển lãm Leica tại Singapore, nhưng không bao giờ liên lạc lại.

*********************************************************************

Van và tôi đồng ý rằng tìm được Nghệ là điều quan trọng. Bất chấp những nỗ lực của cô ấy, các biên tập viên đã từ chối đăng câu chuyện "Tìm kiếm ông Nghệ". Nhưng tôi cũng biết rằng, trong thế giới tin đồn của các biên tập viên Việt Nam, sự nghi ngờ về tác giả của bức ảnh nổi tiếng "Cô bé Napalm" đã xuất hiện. Tôi cũng may mắn khi liên hệ được với cựu kỹ thuật viên buồng tối của AP, Lưu Xá, ở California, người xác nhận rằng Nghệ mới là nhiếp ảnh gia thực sự, từng sống gần đó nhưng đã quay trở lại Việt Nam để tái hôn, và anh ấy luôn cảm thấy đau lòng về bức ảnh "Cô bé Napalm". Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn không thể tìm thấy anh ấy.

Trong khi Van tiếp tục tìm kiếm ở Sài Gòn, tôi xem lại những email cũ và nhớ ra điều mà Mort Rosenblum, một đồng nghiệp của AP, từng đề cập khi câu chuyện về "Cô bé Napalm" xuất hiện trong nhóm Google "Vietnam Old Hacks" sau cuộc hội ngộ năm 2015 tại Sài Gòn. Trong một cuộc tranh luận gay gắt sau khi ai đó nhắc đến câu chuyện của tôi, cựu phóng viên AP Peter Arnett xúc phạm tôi và đe dọa hành động pháp lý. Thực tế, tôi đã liên hệ với Arnett và kể sự thật vào năm 2009, không lâu sau khi thành lập nhóm "Vietnam Old Hacks", ngây thơ mong nhận được sự đồng cảm, nhưng anh ta ngay lập tức phản ứng phòng thủ. Và vào năm 2015, anh ta vẫn bảo vệ câu chuyện một cách mù quáng như vậy. Nhóm trực tuyến gồm các đồng nghiệp thời chiến không còn như trước sau vụ tranh cãi đó.

Rosenblum đã gửi email riêng cho tôi, băn khoăn về một câu chuyện đã lan truyền trong nhiều năm rằng Nick Ut không phải là người chụp bức ảnh. Hơn nữa, trong một chuyến đi qua Việt Nam năm 2011, ông ấy đã chia sẻ thông tin đó với nhà báo ảnh người Anh Gary Knight, người rất ngạc nhiên và đã nghĩ đến việc viết một bài báo vào thời điểm đó. Tôi quyết định gửi email cho Knight, và anh ấy ngay lập tức đồng ý phỏng vấn tôi để tìm hiểu thêm.

Vợ của Knight, Fiona Turner, và Terri Lichstein, cả hai đều là nhà sản xuất truyền hình đoạt giải Emmy, đã tham gia vào một dự án phim tài liệu do đạo diễn người Mỹ gốc Việt Bảo Nguyễn thực hiện, tiếp tục điều tra của Knight. Sau cuộc phỏng vấn đầu tiên với tôi, họ đã thuê Van ở Sài Gòn.

Nghệ vẫn cần được tìm thấy, nhưng không ai biết đầy đủ tên của anh ấy, chứ đừng nói đến quê hương của anh ở Việt Nam. Các nhiếp ảnh gia Việt Nam thời chiến, những người không làm việc cho NBC hay AP mà Van liên hệ ở Sài Gòn, vẫn tin rằng Nick Ut đã chụp bức ảnh "Cô bé Napalm", một người thậm chí còn tuyên bố rằng anh ta đã chụp ảnh từ xa bằng ống kính 500mm. Họ thậm chí chưa từng nghe thấy tin đồn nào trái ngược.

Tháng 3 năm 2023, Knight đến Việt Nam cùng với nhiếp ảnh gia chiến tranh nổi tiếng James Nachtwey và, trùng hợp ngẫu nhiên, Nick Ut, để tham dự một hội thảo nhiếp ảnh ở Hà Nội. Cùng lúc đó, Turner đề nghị tôi bay đến Sài Gòn để có một cuộc phỏng vấn mở rộng ghi lại câu chuyện của tôi. “Không đời nào Kim-Dung lại để tôi đi lên đó một mình,” tôi nói. Tôi đề nghị cả hai cùng đi. Vợ tôi do dự—cô ấy sợ sự chỉ trích và phản ứng tiêu cực chắc chắn sẽ theo sau, và không muốn công khai—nhưng cuối cùng đã đồng ý.

Tháng 4 năm 2023, chúng tôi quay lại Sài Gòn. Tôi được yêu cầu giữ bí mật về chuyến đi của mình và tránh trung tâm thành phố, nơi Nick Ut có thể đang đi dạo. Buổi quay phim diễn ra tốt đẹp: một cuộc phỏng vấn ba giờ với Knight, một giờ với Kim-Dung, và cảnh quay bổ sung ở trung tâm Sài Gòn—tôi trên xe máy, một ngôi chùa yêu thích, và một bữa tối với phở tại nhà. Sau khi Knight trở lại Mỹ, tôi có một cuộc họp chiến lược với hai nhà sản xuất Turner và Lichstein, Van và Kim-Dung.

Nhóm vẫn cần tìm Nghệ. Một nguồn tin không thể làm nên một câu chuyện. Nhưng anh ấy đang ở đâu? Và sau câu nói thoáng qua của Nick Ut, anh ấy thậm chí còn sống không? Turner và Lichstein có một danh sách các phóng viên nước ngoài tại Trảng Bàng và sẽ phỏng vấn họ, nhưng nhiều manh mối hóa ra lại vô ích. Nhà quay phim của NBC, Lê Phúc Dinh, và anh em huyền thoại Võ đã qua đời. Chúng tôi hy vọng sẽ tìm thấy tên đầy đủ của Nghệ trong danh sách các nhà báo Việt Nam từng làm việc với các hãng tin Mỹ trong “chiến dịch không vận bí mật” trước khi Sài Gòn thất thủ.

Van được giao nhiệm vụ theo dấu Hoàng Văn Danh (hoặc Doanh), người đã chụp bức ảnh quan trọng tại Trảng Bàng, cho thấy người mà tôi tin là Nghệ. Ông ấy cũng là một người tị nạn nhưng sau đó đã trở lại Việt Nam để mở một doanh nghiệp sản xuất đồ nội thất, sau này đã thất bại. Chúng tôi nghĩ đến việc thử tìm các linh mục địa phương ở Hồ Nai, nơi nhiều người Công giáo miền Bắc di cư năm 1954 có thể biết về ông ấy, nhưng mọi manh mối đều như ngõ cụt.

 Tôi đã gặp nhà báo đã nghỉ hưu Ngọc Vinh (người thứ hai từ bên phải) trong một chuyến đi xe máy dài 750 km cùng 12 người Việt vào vùng đồi ruộng bậc thang phía Tây Hà Nội vào tháng 9 năm 2022. Ông ấy giới thiệu tôi với nhà báo Lê Văn, người đã viết một bài báo về một người nước ngoài 80 tuổi trên xe máy và mối liên hệ lâu dài của tôi với Việt Nam. Chúng tôi nhanh chóng trở thành bạn bè, và sau đó tôi đã tâm sự với cô ấy về câu chuyện thực sự đằng sau bức ảnh "Cô bé Napalm", nhờ cô giúp tìm ông Nghệ. Cô ấy sau đó đã làm việc chặt chẽ với các nhà sản xuất phim tài liệu The Stringer để đưa sự thật ra ánh sáng.

Sau đó, Kim-Dung gợi ý hỏi Ngọc Vinh, người bạn đi xe máy của tôi từ chuyến đi phía Bắc năm trước, cũng là người hướng dẫn báo chí của Văn. Với hơn 20.000 người theo dõi trên Facebook thường xuyên theo dõi những bài viết mạnh mẽ của ông về tham nhũng, có lẽ ông có thể giúp tìm Nghệ? Turner và Lichstein đồng ý rằng đây là một ý tưởng hay. Khi họ bay đi vào ngày hôm sau, Vinh—người đã gặp và phỏng vấn Nick Ut nhiều năm trước—đến nhà và đồng ý giúp. Tôi đã viết một bài đăng với ba bức ảnh cho trang Facebook của Vinh để tìm kiếm Nghệ.

Chỉ còn vài ngày nữa trước khi tôi rời đi, tôi gặp Văn vào sáng sớm để uống cà phê trong một khu nhà thời chiến đông đúc gần đó. Một bà mẹ đơn thân ngoài ba mươi tuổi, Văn lớn lên ở tỉnh Thanh Hóa, miền Bắc Việt Nam. Cha cô ấy là một nhà báo từng đưa tin về cuộc chiến của mình—cuộc xâm lược và chiếm đóng Campuchia của Việt Nam vào những năm 1980. Văn là một cộng sự quyết tâm, luôn mang theo từ điển trực tuyến Việt-Anh để tra những từ chưa quen thuộc. Cô ấy gọi tôi là "Chú Năm", theo số thứ tự trong gia đình của vợ tôi. Tôi đang dạy cô ấy về cuộc sống và công việc ở Sài Gòn trong chiến tranh, một ký ức công chúng đang dần mờ nhạt và bị lãng quên.

Hai ngày sau bài đăng trên Facebook của Vinh, điện thoại của Văn reo lên khi chúng tôi uống ly cà phê sữa đá quen thuộc. Đó là Vinh. Đôi mắt Văn sáng lên, nhìn tôi và chỉ vào điện thoại của cô ấy. Sau khi kết thúc cuộc gọi, cô ấy hít một hơi sâu rồi tuyên bố: “Chúng ta đã tìm thấy Nghệ!”

Nghệ đã gọi cho Vinh sau khi một người bạn ở Mỹ thấy bài đăng trên Facebook. Tôi tràn ngập cảm xúc, gần như bật khóc. Nghệ đang ở Vĩnh Long, cách đó khoảng ba giờ về phía Bắc Đồng bằng sông Cửu Long. Văn lập tức thuê xe cùng Vinh để thực hiện chuyến đi. Quá vui mừng, tôi trở về nhà và đánh thức Kim-Dung để chia sẻ tin tức. Cuối cùng, chúng tôi đã tìm thấy ông ấy!

Tôi lập tức gửi email cho Knight, Turner và Lichstein—tất cả đều đang bị ảnh hưởng bởi sự lệch múi giờ sau chuyến bay về nhà—và sau đó gọi Zoom cho họ. “Bây giờ chúng ta có một câu chuyện thực sự,” Gary nói. Họ quyết định quay lại Việt Nam, vì vậy tôi đã hủy chuyến bay về Úc. Một cảm giác mãn nguyện thực sự tràn ngập trong tôi. Sáng hôm sau, tôi đến chùa Quốc Gia để lặng lẽ cảm tạ Quan Âm, vị Bồ Tát của Lòng Từ Bi, rồi ngồi trong bóng râm cảm nhận làn gió nhẹ thoảng qua. Tôi cảm thấy sự bình yên tuyệt đối.

Văn và Vinh đến nhà tôi để báo cáo sau chuyến đi muộn về từ Vĩnh Long. Văn đã gửi hình ảnh chụp cùng Nghệ—và đúng vậy, đó chắc chắn là ông ấy, với vầng trán đặc trưng giống trong bức ảnh của Danh. Họ đã ăn trưa cùng nhau và ghé thăm ngôi nhà mà Nghệ chia sẻ với bạn gái Yến, sau khi người vợ thứ hai của ông lấy đi mọi thứ. Hiện đang sống ở miền Nam California với con gái, ông chỉ trở lại Việt Nam để giải quyết vụ ly hôn.

Tên đầy đủ của Nghệ là Nguyễn Thanh Nghệ; ông sinh tại Vĩnh Long năm 1937, tức 86 tuổi. Ông là một quay phim của ARVN, từng làm việc tự do cho các hãng tin phương Tây nhưng không phải là tài xế của NBC—hôm đó ông chỉ điền vào vị trí trống. Ông thực sự là nhiếp ảnh gia đã chụp bức ảnh "Cô bé Napalm". Đó chính là ông, đứng cạnh đoàn làm phim, trong chiếc áo sơ mi trắng và áo ghi lê đen.

Ông có giận dữ và cay đắng không? Không, ông nói—sau khi Sài Gòn thất thủ, ông tiếp tục cuộc sống của mình vì còn phải lo cho gia đình, hơn nữa, ông là một người tị nạn và không có cách nào đối đầu với AP. Không ai chú ý đến ông cho đến tận bây giờ. “Tôi không còn bằng chứng nào nữa,” ông nói với Văn. “Tôi là con số không. Trong khi đó, Huỳnh Công [Nick] Ut là anh hùng. Điều này thật bất công.”

Ngày hôm sau, khi tôi đang làm việc trên lầu và Kim-Dung đang xem TV gần đó, điện thoại của cô ấy reo lên. Văn có tin xấu: Nghệ vừa bị đột quỵ và đang được chuyển đến một bệnh viện ở Cần Thơ, cách 60km. Tin tức càng lúc càng nghiêm trọng—hai lần xuất huyết não; Nghệ đang trong tình trạng nguy kịch. Thật là một cú sốc sau niềm vui vỡ òa của ngày hôm trước.

Sau khi Turner và nhóm cân nhắc việc quay trở lại, họ lo ngại rằng ngay cả khi Nghệ sống sót, khả năng nói của ông ấy vẫn chưa chắc chắn. Tôi lại cầu nguyện Quan Âm, lần này trong sự tuyệt vọng.

Sáng hôm sau bắt đầu với một trận mưa lớn—vẫn còn quá sớm cho mùa mưa, nhưng tôi nghĩ đó là một dấu hiệu. Trời đang khóc thương cho Nghệ. Tôi lại uống cà phê với Văn, tâm trí tôi giờ đây chỉ nghĩ đến việc có thể tham dự một đám tang. Ít nhất, tôi thề sẽ đặt một bản sao của bức ảnh "Cô bé Napalm" nổi tiếng vào trong quan tài của Nghệ, nơi nó thực sự thuộc về. Tâm trạng chúng tôi rất nặng nề.

Kim-Dung đang ngồi ở bàn ăn khi điện thoại của cô ấy reo lên. Lại là Văn. Nghệ đã tỉnh, không còn hôn mê và có thể nói chuyện, nghe và cử động tất cả các chi. Ông ấy vẫn chưa thể ăn vì có ống dẫn trong cổ họng, nhưng đó là một phép màu! Một đoạn video cho thấy ông ấy vẫy tay, và tinh thần của chúng tôi bay cao trở lại. Gia đình ông từ Mỹ đã đến, và đội làm phim lại tiếp tục kế hoạch.

Với nhóm quay trở lại trước một tuần, Kim-Dung và tôi dành chút thời gian nghỉ ngơi tại tỉnh Đồng Tháp ở phía Tây đồng bằng sông Cửu Long. Chúng tôi tận hưởng bốn ngày thư giãn với những chuyến chạy xe máy dọc sông Mekong. Sau đó, chúng tôi đến Cần Thơ để cuối cùng gặp Nghệ vào đêm trước Ngày Anzac 2023.

Đội làm phim đã phỏng vấn Nghệ tại bệnh viện cùng con gái ông, Jenny, vừa từ Mỹ bay sang. Họ xác nhận rằng ông chính là nhiếp ảnh gia thực sự của bức ảnh "Cô bé Napalm". Ông đang nằm liệt giường sau cơn đột quỵ, giọng nói yếu ớt nhưng vẫn được ghi âm tốt. Lượt phỏng vấn của tôi sẽ diễn ra vào sáng hôm sau.

Kim-Dung và tôi đã bắt đầu chuyện tình của mình tại Cần Thơ năm 1967, khi cô ấy tham gia một khóa học thư ký cho USAID. Sau đó, tôi từ chức trong giận dữ vì cuộc Tổng Tiến Công Tết, khi một nửa thành phố bị tàn phá. Bệnh viện SIS 10 tầng chuyên điều trị đột quỵ khiến chúng tôi kinh ngạc khi đi lên tầng và chuẩn bị trong khu vực chờ nhỏ bên ngoài phòng họp, với bức tượng Hồ Chí Minh quen thuộc ở một góc.

Gặp và xin lỗi Nghệ là một trong những khoảnh khắc xúc động nhất cuộc đời tôi.

Sau một lúc, Nghệ được đưa vào bằng xe lăn, và chúng tôi được để lại một mình đối diện nhau. Tôi biết ông ấy có thể nói và hiểu tiếng Anh, nên tôi chậm rãi tự giới thiệu, giải thích rằng tôi từng là biên tập viên ảnh của AP vào năm 1972 và đã bị buộc phải gán tên Nick Ut lên bức ảnh. Từ phía sau cánh cửa đóng kín của phòng họp bên cạnh, đột nhiên có tiếng hét lên từ con gái ông, Jenny, khi cô ấy gục xuống trong nước mắt, la hét và khóc lóc. Tôi gần như không thể kết thúc lời xin lỗi của mình về những gì đã xảy ra nhiều năm trước. Nước mắt lăn dài trên má Nghệ khi tôi nói lời xin lỗi.

Kim-Dung và tôi cùng với Nghệ và con gái ông, Jenny, người đã bay từ Mỹ sang sau cuộc hội ngộ tại bệnh viện đột quỵ ở Cần Thơ, thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Ông ấy đã hồi phục một cách kỳ diệu.

Với cơn đột quỵ, tôi gần như không thể hiểu hết những gì Nghệ nói, nhưng ký ức rõ nét nhất của tôi về cuộc gặp gỡ ấy là phản ứng đầy cảm xúc của con gái ông. Cùng với anh trai mình, Jenny đã sống cả đời với câu chuyện về cha cô. Không lâu sau, Jenny bước ra, ôm tôi và gọi tôi là "thiên thần" của gia đình cô ấy. Cuối cùng tôi đã sửa chữa một sai lầm kinh khủng.

Giờ đây, đã có hai người—như một hình ảnh phản chiếu—và tất cả được ghi lại trên phim cho thế giới chứng kiến. Cuối cùng, công lý và sự công nhận đã được trao cho nhiếp ảnh gia thực sự của bức ảnh "Cô bé Napalm".

Giờ đây, bộ phim tài liệu đã sẵn sàng để đưa câu chuyện ra thế giới, sử dụng một đoạn từ bức ảnh giúp tìm ra Nghệ.

Carl Robinson, người Mỹ, đã sống ở Úc kể từ sau Chiến tranh Việt Nam. Ông cùng Nghệ tham dự buổi công chiếu The Stringer tại Liên hoan phim Sundance vào ngày 25 tháng 1. Trước buổi công chiếu, AP đã xuất bản một báo cáo bác bỏ tuyên bố rằng Nick Ut không phải là người chụp bức ảnh "Cô bé Napalm". Khi được tạp chí này hỏi liệu họ có tiếp tục ghi nhận Ut là tác giả bức ảnh không, AP trả lời: “Chúng tôi cam kết duy trì sự thật lịch sử về bức ảnh và vẫn đang thu thập thông tin để điều tra... Chúng tôi sẽ cập nhật khi có cơ hội xem xét đầy đủ bộ phim và các tài liệu bổ sung.”

Quan điểm của biên tập viên ảnh: 'Câu hỏi đặt ra là, chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo?'

Sốc. Đó là cảm giác của tôi khi đọc lời chứng của Carl Robinson về khoảng thời gian ông làm việc tại AP và những hành động của ông liên quan đến bức ảnh "Cô bé Napalm". Hình ảnh này nổi tiếng đến mức ngay lập tức trong tâm trí tôi, nó gắn liền với tên Nick Ut.

Công việc truyền thông đầu tiên của tôi là tại AAP, nơi độc quyền cung cấp hình ảnh của AP ở Úc. Tôi từng có đặc quyền truy cập vào kho lưu trữ ảnh và nguồn dữ liệu hằng ngày của họ. Độ chính xác trong tin tức và chú thích ảnh là nền tảng của sự tin cậy. Tôi thấy khó chịu ngay cả khi chỉ vô tình đưa ra một lỗi chính tả trong phần tác giả ảnh. Bức ảnh "Cô bé Napalm" không chỉ giúp AP và Nick Ut giành giải Pulitzer, mà còn góp phần chấm dứt một cuộc chiến và tạo dựng một huyền thoại. Giờ đây, hơn 50 năm sau, có người tuyên bố rằng Nguyễn Thanh Nghệ—một tài xế của NBC vào ngày hôm đó—thực sự là người đã chụp bức ảnh.

Giống như nhiều nhiếp ảnh gia, tôi đã dành những năm đầu trong nghề trong phòng tối. Vì vậy, câu hỏi lớn nhất của tôi là: chuyện gì đã xảy ra với các tấm phim âm bản—bằng chứng vật lý có thể giải quyết bí ẩn này? Có danh sách tiếp xúc ảnh không? AP đã lưu trữ hồ sơ như thế nào?

Bộ phim tài liệu The Stringer giải thích quy trình lưu trữ hồ sơ của AP. Hóa ra các tài liệu quan trọng đã bị thất lạc từ lâu. Nhưng vẫn có bằng chứng khác. Ngày hôm đó có đội quay phim truyền hình tại hiện trường, vậy nên có cả tư liệu video lẫn ảnh chụp. Các nhà làm phim đã thuê một công ty pháp y của Pháp để tái dựng các sự kiện diễn ra trên con đường ở Trảng Bàng. Cùng với những lời chứng khác, bao gồm từ con cái của Nghệ (những người có bản sao gốc của bức ảnh "Cô bé Napalm" tại nhà của họ), tất cả đều rất thuyết phục. Khi không có bằng chứng đối trọng mạnh mẽ ủng hộ câu chuyện của AP, thật khó để phủ nhận những gì đã được tiết lộ.

Gary Knight, người phỏng vấn trong phim, đã sử dụng cụm từ "những sự thật khó chịu." Một sự thật như vậy được khám phá trong phim là các phóng viên, nhiếp ảnh gia và đội quay phim có thể làm việc trong vùng chiến sự nhưng họ có đặc quyền sống bên trên nó, giữa cộng đồng đồng nghiệp của họ. Là biên tập viên ảnh của AP tại Sài Gòn, Robinson cũng có đặc quyền đó—nhưng ông ấy cũng là một người bản địa, với vợ và con Việt Nam phải chu cấp. Ông ấy không cảm thấy tự do để phản đối cấp trên tại AP. Khi một nhiếp ảnh gia tự do mang cuộn phim đến văn phòng AP, họ nhận được một khoản tiền mặt, một cuộn phim mới và giao dịch kết thúc; họ phần lớn vẫn là những người ngoài cuộc. Ngược lại, Nick Ut, với tư cách là nhiếp ảnh gia chính thức, thuộc đội ngũ của AP. Và có những lý do khác khiến một biên tập viên sẽ quan tâm đến anh ta, điều này được giải thích trong phim.

Robinson biết rằng các nhiếp ảnh gia tự do không có tiếng nói đủ mạnh để lên tiếng. Có lẽ đó là lý do khiến những hành động của ông ám ảnh ông suốt bao năm. Sự bất công. Việc không có cơ hội để đòi lại công bằng. Chỉ có ông ấy mới có thể vén màn bí mật này. Phải có sự can đảm để thách thức câu chuyện của một huyền thoại sống và một trong những tổ chức tin tức uy tín nhất thế giới.

Câu hỏi lớn lúc này là, chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo?

******************************************************

 
Kết luận
Tôi đã sống với mặc cảm suốt 50 năm. Giờ đây, tôi đã xin lỗi. Mọi chuyện đã được quay phim lại cho bộ phim tài liệu The Stringer. Sự thật cuối cùng đã được tiết lộ.
Carl Robinson – sinh tại Mỹ, hiện sống tại Úc từ sau Chiến tranh Việt Nam. Ông và Nguyễn Thành Nghệ cùng tham dự buổi công chiếu phim The Stringer tại Liên hoan phim Sundance vào ngày 25 tháng 1 năm 2025. Trước đó, hãng tin AP đã bác bỏ cáo buộc Nick Ut không phải người chụp bức ảnh, tuyên bố: “Chúng tôi cam kết với sự thật lịch sử và đang tiếp tục thu thập thông tin để xem xét kỹ lưỡng bộ phim cũng như các tài liệu bổ sung.”
-ChatGPT dịch
===================
CARL ROBINSON
The real 'Napalm Girl' story.
GRUMPY OLD VIETNAM HAND.
CARL ROBINSON
FEB 07, 2025
There’s been quite a build-up to my writing and now this exclusive publication of my story - a privilege, in fact - into my adopted homeland of Australia where, born once upon a time in America, I’ve lived since not long after the end of the Vietnam War in 1975 and started my life again after nearly a dozen years as a civilian in South Vietnam, first as an aid worker and then a journalist with The Associated Press (AP). But what happened with this photo always lingered on my mind and now the subject of the controversial documentary, The Stringer, premiered at the Sundance Film Festival on 25 January 2025.
And here illustrated with my own photos, not those in The Weekend Australian Magazine piece is my own and very personal story:
This Substack is reader-supported. To receive new posts and support my work, consider becoming a free or paid subscriber.
Subscribe
THE WEEKEND AUSTRALIAN MAGAZINE
Who took the ‘Napalm Girl’ photograph? Picture editor Carl Robinson says it was not Nick Ut
This iconic image of the Vietnam War won the Pulitzer Prize but now the former AP picture editor who claims he attributed the photograph to the wrong man tells his side of the story.
By CARL ROBINSON
There was something about the Vietnam War’s iconic Napalm Girl photo that was always on my back. My feelings of guilt, injustice and cowardice about that famous picture weighed heavily for years – no, make that decades – until its 50th anniversary and peak celebrity in 2022. I was now pushing 80 and just couldn’t keep running away from the truth any longer. I finally had to stop, turn around, and look at this private nightmare in the eye.
I started gathering every photo off the internet and from former colleagues documenting what happened at Trang Bang, northwest of Saigon, on June 8, 1972. The sequence. The spectacular and mistaken napalm strike beside the ­distinctive twin spires of a Cao Dai temple that caused children to flee in panic towards a line of photographers, camera operators and correspondents. Everything I could find.
And out popped an image I’d never seen ­before. Or maybe I had, but pushed it out of mind like everything else about this story. This one showed the Napalm Girl – Phan Thi Kim Phuc – and other children just after they ran left past two television crews. With the newsmen cluttering up the background it was a much less striking picture, that’s for sure.
The Other Napalm Girl Photo: From the collection of photographs I gathered after the 50th anniversary of the Napalm Girl in 2022, this was the one that convinced me the real photographer - known only to me as Mr Nghe - had to be the unidentified man on the right white and black vest with a SLR, Single-Lens Reflex, Asahi Pentax. My search proved me right - and led to the making of ‘The Stringer’ documentary released two weeks ago at Sundance.
Just off to the right, an unidentified Vietnamese photographer in a white shirt and black vest had just shot an image of the children with the open road and clearing smoke behind them. Bloomin’ obvious, I immediately thought. That photographer had to be the real ­photographer of the Napalm Girl, not that Pulitzer Prize-winning Associated Press (AP) photographer who for decades has been known as the author.
You see, Huynh Cong “Nick” Ut did not take that famous picture. I know because I was a photo editor on the AP desk on that day in 1972. I was just about to type the name of a Vietnamese stringer (freelancer) on the caption for the photo’s transmission to the world when my boss, Horst Faas, leaned into my right ear and ordered in his harsh German accent, “Nick Ut. Make it Nick Ut.”
Carl Robinson in his days as AP photo editor in Saigon. [Note: this photo was used in the piece.]
And I did it. I put Nick Ut’s name on the photo. Although I’d already checked, and it wasn’t Ut who took it, I didn’t feel I had a choice. Faas had given me my job in ’68 after I’d angrily quit my US government job to stay in South Vietnam with my future wife, Kim-Dung. He started my journalism career. I now had her and two children to support. How could I quit my job? I didn’t even argue.
I knew what I’d done was wrong. I was a ­person of conscience, even a Conscientious ­Objector; I’d quit the US international development agency USAID as an act of ­conscience over the war. As veteran war correspondent Peter Arnett walked up to ­congratulate a ­startled Nick Ut, I was totally upset. I called a colleague outside and told him what had ­happened. “How could he do that?” But now we needed to find the girl who, despite his later ­stories, he did not take to hospital. As the world reacted to the picture over the next couple days, I found Kim Phuc in the very first hospital we visited with the help of fluent Vietnamese speaker Tom Fox and a Vietnamese photographer named Cuong. The only time Nick Ut met her during this period was when he won the Pulitzer Prize the next year and AP needed a photo. We both knew the truth.
I carried that true story on my conscience for over 50 years. An emotional rollercoaster of my own complicity and guilt. Nights taking forever to fall asleep. Dreams. I felt bad every time I saw the picture. But I was always calmed by wise Kim-Dung, who said to just let things be. Let Buddha be the ultimate judge.
I tried to move on, but the photo’s anniversary stirred everything up again. Once again, the Napalm Girl photo was glorified for ending the Vietnam War, ignoring the fact that most US troops had already left and the Paris Peace Agreement was months away. With each telling, the story was embellished further. I could barely watch or listen.
What could I do against such a well-­entrenched legend? Who would believe me? Surprisingly, most old wartime colleagues I’d confided in told me to just forget about it – I would lose too many friendships. A couple were quite threatening. I almost revealed the truth in my 2020 memoir The Bite of the Lotus, but held off, fearing legal action and not wanting to ­distract from the rest of my years in Vietnam.
I decided not to include the true story about the Napalm Girl photo in The Bite of the Lotus: an intimate memoir of the Vietnam War after open threats of legal action, but even more importantly, I’d say, not wanting to distract from all the other things I did from 1964 to 1975 living and working in South Vietnam, as you’ve been reading here in my earlier excerpts.
Naively, I’d always believed my own truth, even shared it privately over the years. But when friends asked who the real photographer was, all I could say was: “Oh, a stringer, a freelancer.” Many Vietnamese at AP and next door at NBC knew who really took that photo; it was an open secret. In 2015, former AP photographer Dang Van Phuoc told me his name was Nghe, and he was a driver with NBC and brother-in-law of sound man TB Than. Nghe became a refugee to the US in ‘75 but returned to Vietnam after his wife’s death.
Now I’d stumbled onto that other Napalm Girl photo, and figured that man in the white shirt and black vest was Nghe. And wasn’t that his brother-in-law sound man next to him? Both NBC and Britain’s ITN later showed the children running past with a side view of the naked Kim Phuc. With more discretion than AP, their full-frontal image of the Napalm Girl had ended up on the cutting room floor.
Post-Covid in August 2022, we were heading back to Vietnam. Forget fighting the established narrative; I now just wanted to find Nghe and – feeble as it sounds – explain what had happened and apologise. But Phuoc wouldn’t provide any more details on Nghe.
After three years away, my return to Vietnam was joyful. I embarked on a motorbike tour with 12 Vietnamese, where I met retired journalist Ngoc Vinh, who introduced me to Le Van, a young reporter. She wrote a feature about my long connection with Vietnam, and we became fast friends. Time passed pleasantly with trips around the Mekong Delta and Phu Quoc Island, but I still had no idea how to find Nghe.
Then an episode occurred that renewed my determination to expose the truth. Jim Laurie, who’d stayed behind with NBC in ’75 after the Fall of Saigon, contacted me. He was lecturing on a luxury cruise, highlighted with Nick Ut and Kim Phuc’s return to Trang Bang “together for the first time in 50 years”. He recalled that I had mentioned my qualms about the photograph before, and asked me to refresh his memory on what I’d previously told him.
In a long email reply, I recalled what happened that day at AP and how Ut’s name went onto the photo. I also shared Nghe’s identity and NBC connection, and how I’d found that photo which I believed showed Nghe at Trang Bang. I didn’t hear anything more. Just a local story from a friend in Hanoi about Ut’s ­welcome into the Vietnam Journalist Association Hall of Fame.
Jim began posting about the cruise on Facebook as they sailed south from Hai Phong, Da Nang, Nha Trang, and finally up the Saigon River into Ho Chi Minh City. Ut’s ship was ­arriving the next day. It was finally time to get my story out and clear my conscience. I reached out to my new journalist friend Van and told her the true story of the Napalm Girl picture. It was the beginning of a two-year long collaboration with Van, as dogged a reporter as one could imagine. She briefed her editors at Thanh Nien, Vietnam’s second largest circulation newspaper, but they wanted my proof, something public from me. First, I suggested finding Ut, asking him point-blank if he really took that photo and ­recording his reaction.
With the ship now in Saigon, I put Van in touch with Jim Laurie. The next day’s tour highlight event at Trang Bang with Nick Ut and Kim Phuc was private with no journalists invited – but Jim believed my story and agreed to talk to Ut. When he mentioned my name at breakfast in Siem Reap in Cambodia at the end of their tour, Ut angrily dismissed me as “crazy” and stormed off. Jim declared laconically, “The truth will die with old men.”
But at least Van [my journalist friend] was now on the case. She ­approached Ut during one of his downtown walkabouts and explained she was researching a story on other Vietnamese photographers at Trang Bang that day. Ut claimed he was the only one, saying everyone else was out of film or missed the shot. When Van mentioned Nghe’s name, he quickly replied, “Maybe he’s dead.” He restated his claim of personally ­taking Kim Phuc to the hospital, driving her there himself in the AP car. He promised to see Van again after opening a Leica exhibition in Singapore, but never got back in touch.
2***********************************************************************
Van and I agreed finding Nghe was crucial. Despite her efforts, her editors rejected running a “Looking for Mr Nghe” story. But I also knew in the gossipy world of Vietnamese editors that authorship doubts now surrounded the famous Napalm Girl photo. I also was fortunate contacting former AP darkroom technician Luu Xay in California, who confirmed Nghe was the true photographer, once lived nearby but had returned to Vietnam to remarry, and was ­always distressed about the Napalm Girl photo. Despite this, we still couldn’t locate him.
While Van continued her search in Saigon, I reviewed old emails and recalled something that Mort Rosenblum, a fellow AP staffer, had mentioned when the Napalm Girl story surfaced in my Google Group “Vietnam Old Hacks” after a 2015 reunion in Saigon. In a heated exchange after someone mentioned my story, former AP reporter Peter Arnett insulted me and threatened legal action. I’d actually reached out and told Arnett the true story back in 2009, not long after starting up the Vietnam Old Hacks group, naively expecting a sympathetic hearing, but he was immediately defensive. And it was the same blindly vehement defence from him in 2015. The online group of old wartime colleagues was never the same after that blow-up.
Rosenblum emailed me privately, musing about a story that had been circulating for years that Nick Ut had not taken the photo. Moreover, on a trip through Vietnam in 2011, he’d shared that information with British photojournalist Gary Knight, who was surprised and thought of writing something at the time. I decided to email Knight, and he immediately agreed to interview me and find out more.
Knight’s wife Fiona Turner and Terri ­Lichstein, both Emmy Award-winning TV ­producers, joined what soon turned into a documentary project with Vietnamese-American director Bao Nguyen following Knight’s investigation. After an initial interview with me, they hired Van back in Saigon.
Nghe still needed to be found, but nobody had his full name, much less his que huong, or homeland, in Vietnam. Wartime Vietnamese photographers who weren’t affiliated with NBC or AP that Van contacted in Saigon all still ­believed Nick Ut had taken the Napalm Girl picture, one even claiming he’d shot the image long-distance with a 500mm lens. They hadn’t even heard rumours to the contrary.
In March 2023, Knight was heading to ­Vietnam with renowned war photographer James Nachtwey and, in something of a coincidence, Nick Ut for a photographer workshop in Hanoi. At the same time, Turner asked me to fly to Saigon for an extended interview to record my story. “Well, no way Kim-Dung’s going to let me go up there by myself,” I said. I suggested that we both go. My wife was reluctant – she was afraid of the bullying and opprobrium that would surely follow, and wasn’t keen on going public – but finally agreed.
In April 2023 we returned to Saigon. I was told to keep my trip secret and avoid downtown, where Nick Ut might be wandering around. The shoot went well: a three-hour interview with Knight, an hour with Kim-Dung, and ­additional footage in downtown Saigon: me on a motorbike, a favourite temple and a pho ­dinner at home. After Knight left for the US, I had a strategy session over lunch with the two producers ­Turner and Lichstein, Van and Kim-Dung.
The crew still needed to find Nghe. One source does not make a story. But where was he? And after Nick Ut’s throwaway line, was he even alive? Turner and Lichstein had a list of foreign media at Trang Bang and would interview them, but many leads turned out to be dead ends. NBC cameraman Le Phuc Dinh and the legendary Vo Brothers had passed away. We hoped to find Nghe’s full name among the Vietnamese journalists who’d worked with US news companies during the “secret airlift” before the Fall of Saigon.
Van was tasked with tracking down Hoang Van Danh (or Doanh), who’d taken that key picture at Trang Bang showing who I believed was Nghe. He was also a refugee but had later returned to Vietnam to start a furniture ­business, which had subsequently failed. We thought of trying local priests in Ho Nai, where many Catholic northerners from 1954’s division of Vietnam might have known him, but all leads seemed like rabbit holes.
************************************************************************
I’d met retired journalist Ngoc Vinh (2nd from right) during a 750-km motorbike trip with 12 Vietnamese into the rice-terraced foothills west of Hanoi in September 2022 who introduced me to journalist Le Van who wrote a story about an 80-year old foreigner on a motorbike and my long connection with Vietnam. We became instant friends and I later confided the real story of the Napalm Girl photo seeking her help to find Mr Nghe. She later worked closely with ‘The Stringer’ documentary producers to bring the truth to the world.
Then Kim-Dung suggested asking Ngoc Vinh, my motorbike friend from the northern trip the previous September, and Van’s journalistic mentor. With more than 20,000 Facebook friends who followed his brave postings on corruption, perhaps he could help search for Nghe? Turner and Lichstein agreed this was a good idea. As they flew out the next day, Vinh – who’d met and interviewed Nick Ut years before – came to the house and agreed to help. I wrote up a post with three pictures for Vinh’s Facebook page, looking for Nghe.
We had only a few days left when I met up with Van for early morning coffee in a crowded wartime housing estate nearby. A single mum in her late thirties, Van was brought up in northern Vietnam’s Thanh Hoa Province; her father was a ­journalist who’d covered his own war, Vietnam’s invasion and occupation of Cambodia in the 1980s. Van was a determined collaborator, her online Vietnamese-English dictionary always handy for unfamiliar words. She called me Chu Nam, or Uncle Five, after my wife’s family number. I was teaching her about life and work in Saigon during the war, a fading and repressed public memory.
Two days after Vinh’s Facebook post, Van’s phone rang as we drank our usual café sua da, or iced coffees. It was Vinh. Van’s eyes lit up and met mine as she pointed at her phone. After signing off, she took a deep breath and ­announced, “We’ve found Nghe!”
Nghe had called Vinh after a friend in America saw the Facebook post. I was overwhelmed with emotion, almost bursting into tears. Nghe was in Vinh Long, about three hours away in the northern Mekong Delta. Van immediately rented a car with Vinh for the trip. Overjoyed, I returned home and woke Kim-Dung to share the news. At last, we had found him!
I immediately emailed Knight, Turner and Lichstein – all jet-lagged from their flights home – and later Zoomed with them. “Now we’ve got a real story,” Gary said. They decided to return to Vietnam, so I cancelled my flight back to Australia. A feeling of true contentment washed over me. The next morning, I visited the National Temple to give quiet thanks to Quan Am, Goddess of Mercy, and sat in the shade feeling a gentle breeze wafting over me. What calmness I felt.
Van and Vinh came around for a debrief after their late return from Vinh Long. Van had sent pictures with Nghe – and yes, it was definitely him with the distinctive forehead in Danh’s photo. They’d had lunch together and visited the house Nghe shared with his girlfriend Yen, after his second wife took everything away. Now living in Southern California with his daughter, he was only back in Vietnam to resolve his divorce.
Nghe’s full name was Nguyen Thanh Nghe; he was born in Vinh Long in 1937, making him 86 years old. He was an ARVN cameraman who freelanced for western news companies but wasn’t an NBC driver, just filling in that day. He was indeed the real photographer of the Napalm Girl picture. That was him alongside the film crew in that white shirt and black vest.
Was he angry and bitter? No, he’d said – after the Fall of Saigon he’d moved on with his life because he had a family to support, and besides, he was a refugee and had no way to confront AP. No one had paid him any attention until now. “I have no more evidence,” he told Van. “I am zero. Meanwhile, Huynh Cong [Nick] Ut is a hero. This is unfair.”
The following day, back at home, I was working upstairs and Kim-Dung was watching TV nearby. Her phone rang. Van had bad news: Nghe had suffered a stroke and was headed for a hospital in Can Tho, 60kms away. The grim news continued with two brain bleeds; Nghe was in a critical condition. What a shock from yesterday’s total elation.
Turner and the team reconsidered their return. Even if Nghe survived, they reasoned, his ability to speak was uncertain. I prayed again to Quan Am, now in desperation.
The next morning began with a huge downpour – it was still too early for the rainy season, but symbolic, I thought. The heavens crying for Nghe. I had coffee with Van again, my mind now on possibly attending a funeral. At a minimum, I vowed to slip a copy of that famous ­Napalm Girl photo inside Nghe’s casket, where it truly belonged. Our mood was grim.
Kim-Dung was at the dining room table when her phone rang. It was Van again. Nghe was awake, not in a coma, and could talk, hear and move all his limbs. He couldn’t eat with a tube still down his throat, but it was a miracle! A video showed him waving, and our spirits soared. His family arrived from America and the documentary team was back on.
With the team returning a week ahead, Kim-Dung and I took a much-needed break in Dong Thap Province in the western Mekong Delta. We enjoyed four relaxing days with motorbike runs along the Mekong River. Then we headed to Can Tho to finally meet Nghe on the eve of Anzac Day 2023.
The film crew had interviewed Nghe in ­hospital with his daughter Jenny, who’d just ­arrived from America, and were satisfied he was indeed the real photographer of the ­Napalm Girl photo. Bedridden from his stroke, his speech was slurred but recorded well. My turn was the next morning.
Kim-Dung and I had started our romance in Can Tho in ’67, when she was on a secretarial course for USAID. I later resigned in anger over the Tet Offensive, with half the city in ruins. Today’s 10-storey SIS Hospital, specialising in stroke treatment, blew us away as we headed upstairs and set up in a small seating area outside a conference room, with the usual bust of Ho Chi Minh at one end.
Meeting and apologising to Nghe was one of the most emotional moments of my life.
After some time, Nghe was brought in in a wheelchair and we were left alone looking at each other. I knew he spoke and understood English, so I introduced myself slowly and clearly, explaining that I’d been the photo editor at AP in 1972 and had been ordered to put Nick Ut’s name on the photo. From behind the closed doors of the adjoining conference room, there was a sudden outburst from his daughter Jenny as she collapsed in tears, screaming and shouting. I could barely finish my apology for what had happened all those years ago. Tears flowed down Nghe’s cheeks as I said sorry.
***********************************************************************
Kim-Dung and myself with Nghe and his daughter Jenny who’d flown in from America after our reunion at a stroke hospital in Can Tho in the Mekong Delta. He made quite miraculous recovery.
With his stroke, I could barely understand Nghe, but my most vivid memory of our ­meeting was that emotional reaction from his daughter who, along with her brother, had lived with their father’s story all their lives. Jenny soon came out, embraced me and called me her family’s angel. I had finally righted a terrible wrong.
Now there were two of us – like a mirror – and it was all on film for the world to see. At last, there was justice and redemption for the real photographer of the Napalm Girl picture.
And now the documentary for the world to see using a clip from that photo that found Nghe.
US-born Carl Robinson has lived in Australia since after the Vietnam War. He and Nghe attended the premiere of The Stringer at the Sundance Film Festival on January 25. Prior to the premiere, AP published a report refuting the claim that Nick Ut did not take the “Napalm Girl” photograph. Asked by this magazine if it will continue to credit Ut with taking the image, AP responded: “We are committed to a truthful history of the photo and are continuing to collect information and investigate … and will follow up once we have the chance to fully review the film and additional materials.”
Our Picture Editor's View: 'The question is, what happens next?'
Shock. That’s what this picture editor felt when reading Carl Robinson’s testimony about his time on the AP photo desk and his actions in relation to the Napalm Girl photo. The image is so famous that it’s automatically linked in my mind to the name Nick Ut.
My first media job was at AAP, which exclusively represented AP images in Australia. It was a privilege to access their archive and daily wire feed. Accuracy in news reporting and photo captions are the bedrock of trust. I cringe at the thought of introducing so much as a typo in the byline on photos where far less is at stake. The Napalm Girl photo didn’t just win a Pulitzer Prize for AP and Nick Ut. It helped to end a war, and built a legend. Now, more than 50 years later, here was someone claiming that Nguyen Thanh Nghe – a driver for NBC that day – in fact took the photo.
Like many photographers, my earliest years in the profession were spent in the darkroom. So my first burning question was: what happened to the negatives – the physical evidence that could solve this mystery? Was there a contact sheet? How were AP’s records catalogued?
The documentary, The Stringer, explains AP’s record-keeping process. It turns out the crucial records are long-lost. But there’s other evidence. There were TV crews on the ground that day, so there’s footage and photos. The filmmakers contracted a French firm to conduct a forensic reconstruction of the events that unfolded on the road at Trang Bang. Along with all the other testimonies, including by Nghe’s children (who had an original copy of the Napalm Girl photo in their home), it’s compelling. In the absence of an equal weight of evidence backing AP’s side of the story, it’s hard to unsee what has been exposed.
Gary Knight, the film’s interviewer, uses the phrase ”uncomfortable truths”. One such truth explored in the doco is that reporters, photographers and TV crews can go to work in a conflict zone but they have the privilege of living above it, among their community of colleagues. As the AP photo editor in Saigon, Robinson shared that privilege – but he was also a local, with a Vietnamese wife and children to support. He didn’t feel free to stand up to his superior at AP. When a local “stringer” (freelancer) turned up at the AP bureau with a roll of film, they were paid some cash, given new film and that was the end of the transaction; they were largely outsiders. On the other hand, Nick Ut, as a staff photographer, was on the AP team. And there are other reasons why an editor would be invested in looking out for him, which are explored in the film.
Robinson knew the stringers didn’t have the clout to speak up. Maybe that’s why his actions have haunted him for years. The injustice. The lack of avenues for recourse. Only he was finally able to lift the lid on this. It took courage to challenge the narrative of a living legend and one of the world’s most reputable news organisations.
The big question now is, what happens next?
8 February 2025 Edition.
This Substack is reader-supported. To receive new posts and support my work, consider becoming a free or paid subscriber.