Monday, September 8, 2025

Đại Lộ Kinh Hoàng


 
“VC đã ra phim Mưa Đỏ để tuyên truyền cho việc xâm lăng của chúng tại Quảng Trị năm xưa. Hãy tin rằng tất cả những phim liên quan đến chiến tranh trước 1975 đều luôn nhằm tuyên truyền và sai lệch sự thật, không nên mất thời gian và tiền bạc để xem các phim như thế, các bạn của HQ nhé.”


Ngy Thanh và “Đại lộ Kinh hoàng”
(Những ngày này, nhiều người quan tâm tới trận chiến ở thành cổ Quảng Trị vào năm 1972 vì bộ phim “Mưa đỏ” đã đạt doanh thu phòng vé 500 tỷ đồng. Nhưng nhiều người đã quên, không nhắc tới biến cố có liên quan tới cuộc tấn công của bộ đội miền Bắc ở Quảng Trị là cuộc di tản bi thảm trên con đường ven biển Quảng Trị được mệnh danh là “Đại lộ Kinh hoàng”)
Bài đăng trên Trí Việt News:
Quảng Trị là tỉnh giới tuyến giữa miền Nam và miền Bắc và không ai nghĩ là sẽ có ngày bộ đội Bắc Việt vượt lằn ranh giới tuyến quy ước (sông Bến Hải-cầu Hiền Lương) để công khai tấn công miền Nam.
GS K. W. Taylor viết: “Vào mùa xuân năm 1972, Hà Nội huy động toàn bộ tiềm năng quân sự để mở một cuộc tổng tấn công ở miền Nam với hy vọng giành chiến thắng ngay tức khắc. Quân lực Việt Nam Cộng hoà đã đánh bại cuộc tấn công của bộ đội miền Bắc với sự hỗ trợ về hậu cần và sự yểm trợ của không quân Mỹ” (A History of the Vietnamese).
Trong tác phẩm “Vietnam, a history” (1983), nhà báo Stanley Karnow đã viết về cuộc chiến mùa hè năm 1972 và trận chiến ở thành cổ Quảng Trị: “Những người Cộng sản có nhiều lý do khi chuẩn bị cuộc tấn công vào đầu năm 1972. Họ hy vọng có thể ảnh hưởng tới chiến dịch tranh cử tổng thống ở Mỹ và khi đã khởi đầu chiến dịch quân sự, họ hy vọng sẽ được Trung Quốc và Liên Xô tiếp tục hỗ trợ khi họ đã chứng minh khả năng chiến đấu của mình. Nhưng trên tất cả, động lực mới liên quan tới một vấn đề cốt yếu: thế quân bình lực lượng giữa hai phía sẽ ảnh hưởng ra sao tới những cuộc đàm phán với Mỹ. Và một lần nữa, nó lại cho thấy niềm tin của những người Cộng sản rằng chiến thắng quân sự quyết định thành công trong ngoại giao. Nếu họ giáng được một đòn trí mạng cho quân đội Saigon, họ sẽ cho thấy sự thất bại của chủ trương Việt Nam hoá chiến tranh và thuyết phục Mỹ tin rằng chỉ có thỏa thuận đạt được theo những điều kiện họ đưa ra là lối thoát duy nhất để chấm dứt cuộc chiến. Báo Tiền Phong khẳng định rằng những chiến thắng trên chiến trường là “chìa khoá để đạt được sự dàn xếp về chính trị. Khi cái đầu qua được thì cái đuôi sẽ lọt”.
Vào ngày 30 tháng 3 năm 1972, những người Cộng sản mở 3 đợt tấn công liên tiếp, huy động 120.000 bộ đội chính quy miền Bắc và mấy ngàn binh lính Mặt trận Giải phóng miền Nam: đợt tấn công thứ nhất nhắm vào các tỉnh phía Bắc của miền Nam Việt Nam; đợt tấn công thứ hai nhắm vào các tỉnh cao nguyên và vùng duyên hải; đợt tấn công thứ ba nhắm vào Saigon và các vùng phụ cận. Dù đã có nhiều thông tin tình báo, các chỉ huy Mỹ và Nam Việt Nam thật sự sửng sốt trước mức độ ác liệt và sự dài lâu của các cuộc tấn công, và cú sốc này lan tới cả các viên chức cao cấp ở Washington. 5 tuần trước đó, Bộ trưởng Quốc phòng Melvin Laird nói với các dân biểu Hạ viện Mỹ rằng “những cuộc tấn công của Bắc Việt và Việt Cộng trên khắp miền Nam là điều bất khả”. Những trận đánh ác liệt chưa từng thấy ở một số nơi sẽ kéo dài tới tháng 6, gây ra thương vong rất lớn cho binh lính hai phía và các thường dân.
Quân đội Bắc Việt tập trung nỗ lực tấn công mạnh mẽ ở tỉnh phía Bắc của miền Nam Việt Nam. Được trang bị trọng pháo của Liên Xô, rốc két và xe tăng, 15.000 binh lính Bắc Việt tấn công từ 3 mũi: phía Đông từ Lào, từ Cambodia qua thung lũng Ashau và từ phía Bắc qua vùng phi quân sự. Bộ đội Bắc Việt chiếm được thành cổ Quảng Trị vào ngày 1 tháng 5 và giữ được cho tới tháng 9. Họ không muốn tiến về phía thành phố Huế, một phần vì hậu cần không cho phép họ thực hiện điều ấy và một phần cũng vì cuộc tấn công của họ chỉ nhằm mục đích chính trị.
Mất tỉnh Quảng Trị vào tay bộ đội Bắc Việt, chính quyền Việt Nam Cộng hoà ngay sau đó đã thay thế 2 viên tướng Hoàng Xuân Lãm (Tư lệnh Quân đoàn 1) và Lê Nguyên Khang (Tư lệnh Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến) bằng tướng Ngô Quang Trưởng và tướng Bùi Thế Lân và tăng cường thêm lực lượng Lữ đoàn 2 Nhảy dù, Liên Đoàn 1 Biệt Động Quân rồi sau đó thêm Lữ đoàn 3 Nhảy dù và Trung đoàn 4 thuộc Sư đoàn 2 Bộ binh để phản công tái chiếm các vùng đất đã mất.
Từ ngày 11 tháng 7, dưới sự chỉ huy của trung tướng Ngô Quang Trưởng, Quân đoàn 1 được tăng cường Lực lượng Tổng trừ bị của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và được yểm trợ từ xa bởi Đệ thất Hạm đội của Mỹ ở ngoài khơi và không quân Mỹ đã bắt dầu cuộc phản công tái chiếm Quảng Trị.
Các kế hoạch phản công của quân đội Việt Nam Cộng hoà đã hình thành nhanh chóng, tái chiếm được một số căn cứ cũ như Bastogne, Checkmate và chợ Quảng Trị, Ty Y tế, Ngân Khố, Tòa Án… để cuối cùng đánh bật bộ đội Bắc Việt ra khỏi thành cổ Đinh Công Tráng ở Quảng Trị (ngày 16 tháng 9) sau 81 ngày đêm họ cố thủ tại đây.
Tác giả Max Hastings cho biết: “Kết cuộc của những trận đánh lớn trong năm 1972 là chiến thắng về chiến thuật của Việt Nam Cộng hoà, với cái giá phải trả là 11.000 người lính tử trận, có lẽ có cả thảy 50.000 người lính bị thương. Phần lớn trong số 300 lính Mỹ tử trận trong năm 1972 là những người lính tử trận trong cuộc tấn công của Bắc Việt khởi đầu vào mùa xuân. Bắc Việt có khoảng 100.000 lính tử trận; họ mất phân nửa lực lượng thiết giáp – ít nhất là 250 xe tăng – và gần như toàn bộ vũ khí hạng nặng. 25.000 thường dân đã chết, thương vong ở cả hai phía cực lớn dù xét theo tiêu chí của Việt Nam” (Vietnam, an epic history of a tragic war, Max Hastings, tr. 550).
“Đại lộ kinh hoàng” là tên mà nhà báo Ngy Thanh, đặc phái viên của báo Sóng Thần vào thời điểm ấy, đặt cho đoạn đường chỉ dài đúng 5.274 mét (cầu Bến Đá ở vị trí 784.210, còn cầu Trường Phước, tức Cầu Dài 2, ở vị trí 778.936 mét tính từ Ải Nam Quan) ở quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, nơi mà dân chúng cùng binh lính Việt Nam Cộng hòa rút chạy về hướng Nam trong những ngày cuối tháng 4 năm 1972 dưới làn đạn pháo của bộ đội Bắc Việt. Đoạn đường này nằm giữa các đụn cát trắng, không có nhà cửa, không có cây cao, chỉ có các lùm cỏ bụi nên dễ dàng nằm trong tầm ngắm của các tiền sát viên của bộ đội Bắc Việt khi gọi pháo 122 ly, 130 ly, cối 160 ly của họ từ hướng rừng Trường Sơn nã vào dòng người di tản.
Trung tướng Ngô Quang Trưởng kể: “Trên Quốc lộ 1, cơn sóng thần người tị nạn xen kẽ với binh lính tiếp tục di chuyển về phía Nam. Con đường biến thành một cảnh tượng huỷ diệt đáng kinh ngạc. Xe cộ các loại, xe tải, xe bọc thép, xe đò dân sự và xe hơi bốc cháy lèn kín mặt đường cao tốc buộc dòng giao thông phải tách khỏi mặt nhựa trong khi khối người đang run sợ trở thành mục tiêu tập trung pháo của địch. Đến cuối buổi chiều ngày hôm sau, cuộc tàn sát đã kết thúc. Kết quả hàng ngàn người dân vô tội đã nhận lấy cái chết bi thảm trên đoạn đường dài của Quốc lộ 1 mà về sau được báo chí gọi là “Đại lộ Kinh hoàng”. Cú sốc và chấn thương của thảm kịch này, giống như vụ thảm sát năm 1968 ở Huế, trở thành nỗi ám ảnh người dân các địa phương phía Bắc Quốc lộ 1 trong một thời gian rất dài” (Đại lộ Kinh hoàng, Ngy Thanh, tr. 62, 63).
Ước tính có gần 2.000 người chết (chỉ thu gom được 1.841 xác người gần như còn nguyên vẹn) và hơn 500 xe cộ các loại của dân chúng và quân đội bị phá hủy trong trận pháo thảm sát trên đoạn đường này.
Tác giả Max Hastings kể: “300 thương binh Việt Nam Cộng hoà cuối cùng ở Quảng Trị được chở bằng đoàn xe đã bị mắc kẹt trên quốc lộ 1 giữa một đám đông người di tản và xe cộ bị hư hỏng. Phạm Viết Tú, một bác sĩ quân y của Thủy quân lục chiến, nói về số phận của các thường dân: “Có mấy trăm chiếc xe hơi, xe tải, xe đạp và xe gắn máy bị trúng đạn và pháo của quân đội Bắc Việt, nhiều chiếc còn đang cháy thành tro than. Các bộ xương người nằm dọc theo hai bên đường. Hình ảnh làm tôi thương cảm hơn hết là bộ xương một đứa trẻ khoảng 2 tuổi nằm trong một cái thau bằng nhôm, bên cạnh thau còn có đôi dép nhựa nhỏ xíu gần bộ xương của người mẹ” (Vietnam, an epic history of a tragic war, Max Hastings, tr. 537).
Lời kể của nhà báo Ngy Thanh về “Đại lộ Kinh hoàng”
Năm ấy tôi 23 tuổi, mặc đồ lính mới được một năm, chịu trách nhiệm phòng nhiếp ảnh của Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 10 Chiến Tranh Chính Trị, KBC 3463, đóng tại bờ biển Thanh Bình, Đà Nẵng. Với số tuổi oắt con của thời chiến sau khi vừa rời quân trường chỉ một năm, tôi còn ngu ngốc lắm, lại ham vui, và hiếu thắng, ngày nào không ra mặt trận để chiều về làm bản tin hành quân, là một hổ thẹn với tất cả đạo quân phóng viên nằm tại Huế, một thành phố lỏng lẻo vì phần lớn thường dân và vợ con lính đã chạy vào Đà Nẵng, sau kinh nghiệm “di tản chiến thuật” khỏi Quảng Trị – Đông Hà.
Bấy giờ, phía Nhảy Dù vẫn giữ cánh trái giữa Quốc Lộ 1 trải dài lên phía Động Ông Đô và căn cứ Barbara, đánh cuốn chiếu ra từ sông Mỹ Chánh. Thủy Quân Lục Chiến cặp sườn QL1 bên trái giăng hàng ngang theo sông Mỹ Chánh ra tới các làng Mỹ Thủy, Gia Đẳng ở trên bờ biển, cùng nhắm hướng tây bắc.
Hôm mồng 1 tháng 7 năm 1972, đám phóng viên chiến trường “ăn cơm tháng ở quán ăn trước khách sạn Hương Giang Huế” không đi tập trung như mọi ngày, mà tản mác theo các đơn vị Nhảy Dù và TQLC bố phòng hơn là theo các mũi dùi tấn công chính trên đường đánh về Quảng Trị. Cái ngày rất dễ nhớ vì vừa chẵn hai tháng sau khi ông anh họ tôi ném trái CBU-55 xuống cầu Đông Hà để diệt sống đoàn xe tăng T-54 đang qua cầu để tấn công phía sau lưng của quân Việt Nam Cộng Hoà đang “di tản chiến thuật”, bỏ ngỏ phần đất tỉnh Quảng Trị, và tái bố trí ở bờ sông Mỹ Chánh. Hôm ấy tôi đi chung với Đoàn Kế Tường, cả hai chúng tôi là phóng viên chiến trường của báo Sóng Thần. Bên cạnh tình bạn, Đoàn Kế Tường là người Quảng Trị, anh cũng là quân nhân của một đơn vị pháo binh Sư Đoàn 3 Bộ Binh, nên rành rẽ đường đi nước bước trong thành phố, nếu chúng tôi có may mắn lọt vào được thành phố tái chiếm trong tư cách là phóng viên đầu tiên – nhưng chuyện ấy sau mới xảy ra trên đường Lê Huấn.
Khoảng 10 giờ sáng, đầu cầu Bến Đá vắng lặng và không có lính trấn thủ khi chúng tôi đến: những mũi dùi tấn công của Nhảy Dù và TQLC đã được trực thăng vận vượt sông đánh lên quá sông Trường Phước. Bến Đá bấy giờ có hai cầu. Cầu xe hơi trên QL1 bị phá sập hoàn toàn, không qua được. Chiếc cầu sắt xe lửa nằm ở phía núi gãy gục đoạn giữa cắm xuống sông thành hình chữ V, khu đất đầu cầu do quân VNCH trấn giữ trước đó đã được cài nhiều mìn chống chiến xa.
Thấy yên lặng và không có người, cả ta lẫn địch, hai chúng tôi bò theo khung cầu sắt gãy qua bên bờ Bắc, len lách giữa đám mìn chống chiến xa, để quay trở lại QL1. Trước mắt chúng tôi, ngay trên bề mặt QL1, là xác xe, chiếc ngược, chiếc ngang, phần lớn giở mui không biết vì lý do gì. Trong nhiều xe cứu thương đã bị bắn cháy nhưng còn đọc được phù hiệu Hồng Thập Tự hai bên hông, chúng tôi nhìn vào cánh cửa xe hé mở và thấy xác thương binh chết nằm, chết ngồi trong đó, mùi tử khí đã dịu thành mùi thối, thay vì mùi tanh nồng của xác người như khi mới chết ít hơn hai tuần. Chúng tôi tiếp tục lội xuống bãi cát hai bên đường, bãi phía biển có nhiều xác chết hơn bãi phía núi, có lẽ vì khi bị tàn sát, người ta có khuynh hướng chạy ra phía Đông là khu vực có thể có người tiếp cứu mình, trong khi phía núi chỉ là vùng hoang vu, không có ai sinh sống. Trên bãi cát này chúng tôi thấy xác người lớn và xác trẻ em, xác quân nhân và xác thường dân, cảnh sát. Nhiều xác úp mặt chồng lên nhau, có lẽ bị bắn chết khi đang chạy tới để thoát hiểm và bị bắn từ sau lưng.
Vì không có xe cộ lưu thông, hai chúng tôi luẩn quẩn dọc đoạn đường xác người này trong vòng khoảng non cây số. Chúng tôi đã chụp (bằng phim) rất nhiều ảnh của đoạn quốc lộ này, khi công binh VNCH chưa bắc cầu dã chiến qua sông Bến Đá, nên hình chúng tôi chụp còn nguyên vẹn bãi chiến trường. Tấm ảnh duy nhất còn lại hiện được lưu giữ.
Vào xế trưa, công binh bắc xong cầu và mang xe ủi qua, gạt các xác xe dạt xuống hai bên vệ đường, mở một lối đi nhỏ trên mặt nhựa cho các xe tiếp tế đạn dược lên phía Quảng Trị cũng như lấy thương binh và xác tử sĩ về. Do đó, ngoài hình ảnh của chúng tôi, những hình chụp sau khi xe ủi qua, đã không còn cảnh nguyên thủy của nét kinh hoàng.
Buổi tối về tới Huế, như mọi khi, tôi gọi cho anh Đỗ Quý Toàn bên Phú Nhuận để nhờ anh ghi lại tin tức về hoạt động của chúng tôi trong ngày, để sau đó anh ấy chuyển cho anh Đỗ Ngọc Yến, là người ngồi cạnh anh Uyên Thao, tổng thư ký tòa soạn, và các anh Trương Cam Vĩnh, Đường Thiên Lý để làm tin và chọn tin. Anh Yến vẫn chuyển tin của chúng tôi tới anh Uyên Thao như thế mỗi ngày. “Đại Lộ Kinh Hoàng” là cái tên tôi chọn làm đề tựa bài viết ngày hôm ấy. Chọn “Đại Lộ Kinh Hoàng” thật ra cũng chỉ do một lúc ngẫu hứng thôi như một vế cho câu đối “Con Phố Buồn Thiu” (La rue sans joie) mà Bernard Fall đặt cho hương lộ 555 chạy dọc bờ biển Quảng Trị, cách đó vài cây số, trong thời kỳ chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946-1954).
Vài tuần sau, chị chủ nhiệm Trùng Dương và anh chị em Sóng Thần tổ chức chiến dịch thu lượm xác người trên “Đại Lộ Kinh Hoàng”. Tòa báo bỏ chi phí ra làm việc này.Đích thân chủ nhiệm từ Saigon ra ăn chay nằm đất với chúng tôi, hàng ngày kết hợp với anh Nguyễn Kinh Châu, trưởng văn phòng đại diện Sóng Thần Huế, và các thân hữu, chúng tôi liên tục tới hiện trường thu nhặt xác chết gói vào từng bao nylon, trước khi bỏ vào quan tài bằng gỗ thô sơ, mai táng ở một khu đất xin được ở phía Đông của QL1, ở làng Mỹ Chánh. Khi làm việc này, chúng tôi không treo băng dựng bảng để khoe công. Tấm bảng thật lớn cắm ở đầu cầu bên trái sau khi qua khỏi cầu Bến Đá (trước ngày mất nước) là do lệnh của Tổng thống Thiệu. 4 chữ “Đại Lộ Kinh Hoàng” là chữ của tôi, nhưng bên dưới tấm bảng ghi là “Tổng thống Nguyễn văn Thiệu”.
Ngy Thanh
(Houston, tháng 9 năm 2009)
Ảnh: Nhà báo Ngy Thanh và “Đại lộ Kinh hoàng” (những ngày này anh Ngy Thang lại đóng trang Facebook nên không thể gắn thẻ cho anh)
***********************************************************************
Diễn tiến trận đánh

Quảng Trị là tỉnh giới tuyến giữa miền Nam và miền Bắc và không ai nghĩ là sẽ có ngày bộ đội Bắc Việt vượt lằn ranh giới tuyến quy ước (sông Bến Hải-cầu Hiền Lương) để công khai tấn công miền Nam nên chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã để Sư đoàn 3 Bộ binh phòng thủ miền giới tuyến này. Sư đoàn 3 Bộ binh (Tư lệnh là chuẩn tướng Vũ Văn Giai) là một sư đoàn tân lập (vào tháng 10 năm 1971) gồm 3 trung đoàn (2, 56 và 57). Trong 3 trung đoàn này, chỉ trung đoàn 2 là có nhiều kinh nghiệm chiến trường vì đã được tách ra từ Sư đoàn 1 Bộ binh và hai trung đoàn 56, 57 còn lại thì yếu kém về huấn luyện và kinh nghiệm tác chiến (có các thành phần gốc đào binh trong đơn vị). Chính vì vậy, tỉnh Quảng Trị được chính quyền VIệt Nam Cộng hòa tăng phái thêm 2 Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến (147 và 258) để bảo vệ mặt phía Tây của tỉnh giáp với nước Lào.

Ngày 30 tháng 3 năm 1972 đúng 12 giờ trưa, 2 Sư đoàn 304 và 308 bộ đội Bắc Việt (khoảng 30.000 quân) với sự hỗ trợ của các trung đoàn xe tăng và pháo binh từ Vĩnh Linh, cùng với 150.000 cán binh Việt Cộng ở miền Nam đã vượt qua giới tuyến quy ước (cầu Hiền Lương-sông Bến Hải) để khởi sự trận chiến mà họ gọi là “Chiến dịch Nguyễn Huệ”. Thêm vào đó, từ phía Tây của tỉnh Quảng Trị, Sư đoàn 324B với xe tăng T 54, T 55, PT 76 hỗ trợ, theo đường 9 từ nước Lào vượt qua Khe Sanh, tiến vào thung lũng sông Thạch Hãn. Áp lực quá mạnh của các sư đoàn bộ đội Bắc Việt đã gây bất ngờ cho quân phòng thủ của Việt Nam Cộng hoà. Các trận pháo ác liệt của bộ đội Bắc Việt (gồm pháo tầm xa 122 ly, 130 ly, pháo phòng không 37 ly, 57 ly và đặc biệt hỏa tiễn chống chiến xa AT-3 Sagger cùng hỏa tiễn địa không tầm nhiệt SA-7 Strela) lại thêm thời tiết xấu, phải giảm thiểu sự yểm trợ của không quân Việt Nam Cộng hoà và Hoa Kỳ đã khiến cho 11 căn cứ hỏa lực của quân đội Việt Nam Cộng hoà thất thủ (căn cứ Bá Hô, Holcomb, Sarge, Fuller, 2, Khe Gió, Carrol, Mai Lộc, Ái Tử…).

Trước áp lực quá mạnh của bộ đội Bắc Việt và Việt Cộng trên địa bàn Quảng Trị, ngày 30 tháng 4, chuẩn tướng Vũ Văn Giai mở phiên họp với các đơn vị trưởng thuộc quyền để bàn kế hoạch lui binh và việc lui binh đang khởi sự thì tướng Tư lệnh Quân Đoàn 1 Hoàng Xuân Lãm lại ra chỉ thị tử thủ Quảng Trị. Lệnh và phản lệnh giữa quân đoàn và sư đoàn khiến các đơn vị trưởng đã bất tuân thượng lệnh và chính vì vậy mà hệ thống phòng thủ Quảng Trị đã bị gãy đổ, các đơn vị tự động rời bỏ vị trí đóng quân để rút lui về hướng Nam. Chuẩn tướng Vũ Văn Giai (cùng Bộ tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh) được trực thăng vận từ thành cổ Đinh Công Tráng về Đà Nẵng (ngày 2 tháng 5). Thành cổ Đinh Công Tráng gần như bỏ ngỏ nên bộ đội Bắc Việt cùng Việt Cộng đã chiếm đoạt dễ dàng cứ địa này và sau đó là toàn bộ tỉnh Quảng Trị.

Mất tỉnh Quảng Trị vào tay bộ đội Bắc Việt, chính quyền Việt Nam Cộng hoà ngay sau đó đã thay thế 2 viên tướng Hoàng Xuân Lãm (Tư lệnh Quân đoàn 1) và Lê Nguyên Khang (Tư lệnh Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến) bằng tướng Ngô Quang Trưởng và tướng Bùi Thế Lân và tăng cường thêm lực lượng Lữ đoàn 2 Nhảy dù, Liên Đoàn 1 Biệt Động Quân rồi sau đó thêm Lữ đoàn 3 Nhảy dù và Trung đoàn 4 thuộc Sư đoàn 2 Bộ binh để phản công tái chiếm các vùng đất đã mất. Các kế hoạch phản công của quân đội Việt Nam Cộng hoà đã hình thành nhanh chóng, tái chiếm được một số căn cứ cũ như Bastogne, Checkmate và chợ Quảng Trị, Ty Y tế, Ngân Khố, Tòa Án… để sau cùng là đánh bật bộ đội Bắc Việt và Việt Cộng ra khỏi thành cổ Đinh Công Tráng ở Quảng Trị (ngày 16 tháng 9) sau 81 ngày họ cố thủ tại đây.

Tác giả Max Hastings cho biết: “Kết cuộc của những trận đánh lớn trong năm 1972 là chiến thắng về chiến thuật của Việt Nam Cộng hoà, với cái giá phải trả là 11.000 người lính tử trận, có lẽ có cả thảy 50.000 người lính bị thương. Phần lớn trong số 300 lính Mỹ tử trận trong năm 1972 là những người lính tử trận trong cuộc tấn công của Bắc Việt khởi đầu vào mùa xuân. Bắc Việt có khoảng 100.000 lính tử trận; họ mất phân nửa lực lượng thiết giáp – ít nhất là 250 xe tăng – và gần như toàn bộ vũ khí hạng nặng. 25.000 thường dân đã chết, thương vong ở cả hai phía cực lớn dù xét theo tiêu chí của Việt Nam” (Vietnam, an epic history of a tragic war, Max Hastings, tr. 550).

”Đại lộ kinh hoàng” là tên mà nhà báo Ngy Thanh, đặc phái viên của báo Sóng Thần vào thời điểm ấy, đặt cho đoạn đường chỉ dài đúng 5.274 mét (cầu Bến Đá ở vị trí 784.210, còn cầu Trường Phước, tức Cầu Dài 2, ở vị trí 778.936 mét tính từ Ải Nam Quan) ở quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, nơi mà dân chúng cùng binh lính Việt Nam Cộng hòa rút chạy về hướng Nam trong những ngày cuối tháng 4 năm 1972 dưới làn đạn pháo của bộ đội Bắc Việt. Đoạn đường này nằm giữa các đụn cát trắng, không có nhà cửa, không có cây cao, chỉ có các lùm cỏ bụi nên dễ dàng nằm trong tầm ngắm của các tiền sát viên của bộ đội Bắc Việt khi gọi pháo 122 ly, 130 ly, cối 160 ly của họ từ hướng rừng Trường Sơn nã vào dòng người di tản. Ước tính có gần 2.000 người chết (chỉ thu gom được 1.841 xác người gần như còn nguyên vẹn) và hơn 500 xe cộ các loại của dân chúng và quân đội bị phá hủy trong trận pháo thảm sát trên đoạn đường này.

Tác giả Max Hastings kể: “300 thương binh Việt Nam Cộng hoà cuối cùng ở Quảng Trị được chở bằng đoàn xe đã bị mắc kẹt trên quốc lộ 1 giữa một đám đông người di tản và xe cộ bị hư hỏng. Phạm Viết Tú, một bác sĩ quân y của Thủy quân lục chiến, nói về số phận của các thường dân: “Có mấy trăm chiếc xe hơi, xe tải, xe đạp và xe gắn máy bị trúng đạn và pháo của quân đội Bắc Việt, nhiều chiếc còn đang cháy thành tro than. Các bộ xương người nằm dọc theo hai bên đường. Hình ảnh làm tôi thương cảm hơn hết là bộ xương một đứa trẻ khoảng 2 tuổi nằm trong một cái thau bằng nhôm, bên cạnh thau còn có đôi dép nhựa nhỏ xíu bên cạnh bộ xương của người mẹ” (Vietnam, an epic history of a tragic war, Max Hastings, tr. 537).

Tác phẩm “Battle of Quang Tri, 1972” của Matt Jackson: https://drive.google.com/…/1fSuVr185EZiwKaDu3Zd…/view…
Tác phẩm “Vietnam, an epic tragedy 1945-1975”:
HUỲNH DUY LỘC giới thiệu

**********************************************************************
Phần 2 

Năm ấy tôi 23 tuổi, mặc đồ lính mới được một năm, chịu trách nhiệm phòng nhiếp ảnh của Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 10 Chiến Tranh Chính Trị, KBC 3463, đóng tại bờ biển Thanh Bình, Đà Nẵng. Với số tuổi oắt con của thời chiến sau khi vừa rời quân trường chỉ một năm, tôi còn ngu ngốc lắm, lại ham vui, và hiếu thắng, ngày nào không ra mặt trận để chiều về làm bản tin hành quân, là một hổ thẹn với tất cả đạo quân phóng viên nằm tại Huế, một thành phố lỏng lẻo vì phần lớn thường dân và vợ con lính đã chạy vào Đà Nẵng, sau kinh nghiệm “di tản chiến thuật” khỏi Quảng Trị – Đông Hà.

Bấy giờ, phía Nhảy Dù vẫn giữ cánh trái giữa Quốc Lộ 1 trải dài lên phía Động Ông Đô và căn cứ Barbara, đánh cuốn chiếu ra từ sông Mỹ Chánh. Thủy Quân Lục Chiến cặp sườn QL1 bên trái giăng hàng ngang theo sông Mỹ Chánh ra tới các làng Mỹ Thủy, Gia Đẳng ở trên bờ biển, cùng nhắm hướng tây bắc.

Hôm mồng 1 tháng 7 năm 1972, đám phóng viên chiến trường “ăn cơm tháng ở quán ăn trước khách sạn Hương Giang Huế” không đi tập trung như mọi ngày, mà tản mác theo các đơn vị Nhảy Dù và TQLC bố phòng hơn là theo các mũi dùi tấn công chính trên đường đánh về Quảng Trị. Cái ngày rất dễ nhớ vì vừa chẵn hai tháng sau khi ông anh họ tôi ném trái CBU-55 xuống cầu Đông Hà để diệt sống đoàn xe tăng T-54 đang qua cầu để tấn công phía sau lưng của quân Việt Nam Cộng Hoà đang “di tản chiến thuật”, bỏ ngỏ phần đất tỉnh Quảng Trị, và tái bố trí ở bờ sông Mỹ Chánh. Hôm ấy tôi đi chung với Đoàn Kế Tường, cả hai chúng tôi là phóng viên chiến trường của báo Sóng Thần. Bên cạnh tình bạn, Đoàn Kế Tường là người Quảng Trị, anh cũng là quân nhân của một đơn vị pháo binh Sư Đoàn 3 Bộ Binh, nên rành rẽ đường đi nước bước trong thành phố, nếu chúng tôi có may mắn lọt vào được thành phố tái chiếm trong tư cách là phóng viên đầu tiên – nhưng chuyện ấy sau mới xẩy ra trên đường Lê Huấn.

Khoảng 10 giờ sáng, đầu cầu Bến Đá vắng lặng và không có lính trấn thủ khi chúng tôi đến: những mũi dùi tấn công của Nhảy Dù và TQLC đã được trực thăng vận vượt sông đánh lên quá sông Trường Phước. Bến Đá bấy giờ có hai cầu. Cầu xe hơi trên QL1 bị phá sập, hoàn toàn không qua được. Chiếc cầu sắt xe lửa nằm ở phía núi gãy gục đoạn giữa cắm xuống sông thành hình chữ V, khu đất đầu cầu do quân VNCH trấn giữ trước đó đã được cài nhiều mìn chống chiến xa.

Thấy yên lặng và không có người, cả ta lẫn địch, hai chúng tôi bò theo khung cầu sắt gẫy qua bên bờ Bắc, len lách giữa đám mìn chống chiến xa, để quay trở lại QL1. Trước mắt chúng tôi, ngay trên bề mặt QL1, là xác xe chiếc ngược chiếc ngang, phần lớn giở mui không biết vì lý do gì. Trong nhiều xe cứu thương đã bị bắn cháy nhưng còn đọc được phù hiệu Hồng Thập Tự hai bên hông, chúng tôi nhìn vào cánh cửa xe hé mở và thấy xác thương binh chết nằm chết ngồi trong đó, mùi tử khí đã dịu thành mùi thối, thay vì mùi tanh nồng của xác người như khi mới chết ít hơn hai tuần. Chúng tôi tiếp tục lội xuống bãi cát hai bên đường, bãi phía biển có nhiều xác chết hơn bãi phía núi, có lẽ vì khi bị tàn sát, người ta có khuynh hướng chạy ra phía Đông là khu vực có thể có người tiếp cứu mình, trong khi phía núi chỉ là vùng hoang vu, không có ai sinh sống. Trên bãi cát nầy chúng tôi thấy xác người lớn và xác trẻ em, xác quân nhân và xác thường dân, cảnh sát. Nhiều xác úp mặt chồng lên nhau, có lẽ bị bắn chết khi đang chạy tới để thoát hiểm và bị bắn từ sau lưng.

Vì không có xe cộ lưu thông, hai chúng tôi luẩn quẩn dọc đoạn đường xác người nầy trong vòng khoảng non cây số. Chúng tôi đã chụp (bằng phim) rất nhiều ảnh của đoạn quốc lộ nầy, khi công binh VNCH chưa bắc cầu dã chiến qua sông Bến Đá, nên hình chúng tôi chụp còn nguyên vẹn bãi chiến trường. Tấm ảnh duy nhất còn lại hiện được lưu giữ tại:

Vào xế trưa, công binh bắc xong cầu, và mang xe ủi qua, gạt các xác xe dạt xuống hai bên vệ đường, mở một lối đi nhỏ trên mặt nhựa cho các xe tiếp tế đạn dược lên phía Quảng Trị, cũng như lấy thương binh và xác tử sĩ về. Do đó, ngoài hình ảnh của chúng tôi, những hình chụp sau khi xe ủi qua, đã không còn cảnh nguyên thủy của nét kinh hoàng.

Buổi tối về tới Huế, như mọi khi, tôi gọi cho anh Đỗ Quý Toàn bên Phú Nhuận để nhờ anh ghi lại tin tức về hoạt động của chúng tôi trong ngày, để sau đó anh ấy chuyển cho anh Đỗ Ngọc Yến, là người ngồi cạnh anh Uyên Thao, tổng thư ký tòa soạn. và các anh Trương Cam Vĩnh, Đường Thiên Lý để làm tin và chọn tin. Anh Yến vẫn chuyển tin của chúng tôi tới anh Uyên Thao như thế mỗi ngày. “Đại Lộ Kinh Hoàng” là cái tên tôi chọn làm đề tựa bài viết ngày hôm ấy. Chọn “Đại Lộ Kinh Hoàng” thật ra cũng chỉ do một lúc ngẩu hứng thôi, như một vế cho câu đối “Con Phố Buồn Thiu” (La rue sans joie) mà Bernard Fall đặt cho hương lộ 555 chạy dọc bờ biển Quảng Trị, cách đó vài cây số, trong thời kỳ chiến tranh Đông Dương Lần thứ nhất, 1946-1954.

Vài tuần sau, chị chủ nhiệm Trùng Dương và anh chị em Sóng Thần tổ chức chiến dịch thu lượm xác người trên “Đại Lộ Kinh Hoàng”. Tòa báo bỏ chi phí ra làm việc nầy. Đích thân chủ nhiệm từ Saigon ra ăn chay nằm đất với chúng tôi, hàng ngày kết hợp với anh Nguyễn Kinh Châu, trưởng văn phòng đại diện Sóng Thần Huế, và các thân hữu, chúng tôi liên tục tới hiện trường thu nhặt xác chết gói vào từng bao nylon, trước khi bỏ vào quan tài bằng gỗ thô sơ, mai táng ở một khu đất xin được ở phía đông của QL1, ở làng Mỹ Chánh. Khi làm việc nầy, chúng tôi không treo băng dựng bảng để khoe công. Tấm bảng thật lớn cắm ở đầu cầu bên trái sau khi qua khỏi cầu Bến Đá (trước ngày mất nước) là do lệnh của Tổng thống Thiệu. Bốn chữ “Đại Lộ Kinh Hoàng” là chữ của tôi, nhưng bên dưới tấm bảng ghi là “Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu”.

(Houston, Tháng 9, 2009)

No comments:

Post a Comment