Monday, August 25, 2025

MỘT BÀI HỌC TỪ 80 NĂM TRƯỚC


Ngày 6 tháng Tám 1945, một pháo đài bay B-29 có biệt danh Enola Gay thả xuống thành phố Quảng Đảo (Hiroshima) của Nhật Bản một trái bom nguyên tử làm bằng chất Uranium-235.

Ba ngày sau, một trái bom nguyên tử khác làm bằng chất Plutorium được thả xuống thành phố Trường Kỳ (Nagasaki).
Sang ngày hôm sau, các cường quốc bên Đồng Minh họp nhau tại Potsdam, Đức Quốc. Họ đưa ra một tuyên cáo chung mà trong đó có câu “Nhật Bản phải đầu hàng vô điều kiện nếu không muốn bị hủy diệt”.
Tại Nhật Bản, người ta thành lập một Siêu Nội Các, còn có tên gọi khác là Hội Đồng Tối Cao Chỉ Đạo Chiến Tranh. Nội các này chỉ có sáu người mà ba trong đó chủ trương tiếp tục chiến tranh và ba người còn lại chủ trương đầu hàng. Họ tranh cãi nhau ba ngày liền mà không đi đến quyết định chung.
Cuối cùng, Nhật Hoàng Hirohito, còn được biết đến qua một tên khác là Vua Chiêu Hòa (Showa) xuất hiện giữa buổi họp để giải quyết tình hình. Ông nói rằng, “Trẫm đã đọc kỹ bản tuyên ngôn chung của Đồng Minh và nhận thấy rằng những điều khoản ghi trong đó có thể chấp nhận được”. Sau đó, ông nói tiếp, “Những gì xảy ra cho Trẫm không có gì quan trọng, mà Trẫm chỉ lo sợ rằng sẽ không trả lời được trước anh linh của tiền nhân nếu chẳng may quê hương chúng ta bị biến thành tro bụi sau những hy sinh không bờ bến”.
Như vậy là đã quá rõ ràng: Nhật Hoàng Hirohito muốn Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện để khỏi bị hủy diệt. Trong lúc cả sáu vị trong Siêu Nội Các cúi đầu đứng nghiêm thì Nhật Hoàng Hirohito đưa một ngón tay vào phía sau mắt kính để gạt mấy giọt nước mắt. Rồi ông rời phòng họp.
Sáng Thứ Tư, ngày 15 tháng Tám 1945, qua các đài phát thanh, người ta được biết rằng vào trưa hôm đó, Nhật Hoàng Hirohito sẽ ngỏ lời cùng toàn dân trên đài phát thanh. Vì thế nên đến gần trưa, tất cả các sinh hoạt trên toàn quốc đều ngưng lại. Tại các trường học, công sở và hãng xưởng, người ta cung kính đứng ngay ngắn gần máy thu thanh để chuẩn bị lắng nghe.
Đúng 12 giờ trưa, đài phát thanh Đông Kinh (Tokyo) truyền đi lời của Nhật Hoàng. Ông đi ngay vào vấn đề chính sau khi mở lời,
“Cùng toàn thể thần dân trung nghĩa,
Sau khi suy nghĩ kỹ càng về trào lưu chung trên thế giới cũng như những điều kiện của đế quốc chúng ta, Trẫm quyết định chấm dứt tình thế hiện tại một cách bất thường.
Trẫm hạ lệnh cho Chính Phủ Hoàng Gia Nhật Bản thông báo cho chính phủ của Anh, Pháp, Mỹ, và Trung Hoa rằng chúng ta đã chấp nhận những điều khoản của họ.”
Như vậy là Nhật Hoàng đã tuyên bố đầu hàng. Nhiều người quỳ xuống khóc trong khi một số lặng lẽ cúi đầu, nước mắt chảy dài trên mặt (hình đính kèm).
Ở đoạn sau đó, ông ghi nhận công lao của mọi tầng lớp đồng thời giải thích tại sao Nhật Bản phải đầu hàng,
“Chiến tranh cho đến nay kéo dài đã trên bốn năm. Mặc dù các chiến sĩ đã chiến đấu dũng cảm, các viên chức đã làm việc mẫn cán, và gần trăm triệu thần dân tận tụy phục vụ, những diễn biến của chiến tranh vẫn theo chiều hướng không có lợi cho chúng ta. Nhất là, hiện nay địch đã bắt đầu sử dụng một loại vũ khí mới vô cùng ác độc. Tiếp tục chiến tranh, không những nước Nhật chúng ta có nguy cơ bị hủy diệt mà cả nền văn minh nhân loại cũng có thể bị lâm nguy. Đó là những lý do khiến Trẫm quyết định chấp nhận những điều khoản đã được đưa ra trong tuyên ngôn chung của các đại cường.”
Ở đoạn cuối, Nhật Hoàng Hirohito có nói một câu mà ngày nay cả thế giới còn ghi nhớ, “Đã đến lúc chúng ta phải chịu đựng những gì không thể chịu đựng được” (Time has come when we have to bear the unbearable).
Ông nói tiếp, “Dân tộc ta rồi đây sẽ phải chịu nhiều gian khổ, nhưng vì thời thế và định mệnh, chúng ta phải xây đắp con đường dẫn đến thái bình cho những thế hệ mai sau.”
Sau cùng, ông kêu gọi thần dân của ông, “Hãy đoàn kết để xây dựng tương lai. Hãy nỗ lực làm việc để duy trì vinh quang cố hữu của dân tộc Nhật Bản và để theo kịp nền văn minh trên thế giới.”
Sáng ngày 2 tháng Chín 1945, đại diện của tất cả các quốc gia lâm chiến đã có mặt trên soái hạm USS Missouri để cùng ký kết những văn kiện để chính thức chấm dứt chiến tranh, vãn hồi hòa bình.
Tại Việt Nam thì mãi đến tháng Mười Một, đại diện cho phe Đồng Minh là Liên Hiệp Vương Quốc Anh mới chấp thuận việc đầu hàng của Đế Quốc Nhật Bản trong một nghi thức tổ chức tại Sài Gòn (hình đính kèm).
**************
Trong số hơn một chục quốc gia đã xúm lại đánh bại Đế Quốc Nhật Bản, chẳng có một quốc gia nào dám coi thường cái quốc gia mà mình đã đánh bại – hoặc đánh hôi để ké phần. Ngược lại, có một số quốc gia mà ngày nay người Nhật vẫn còn khinh bỉ, và cả thế giới cũng chẳng xem ra gì. Điển hình là Nga.
Vào đầu thế kỷ 20, Nga và Nhật Bản đại chiến, hầu hết là trên đại dương. Cuối cùng, Nga yếu thế hơn, phải đàm phán với Nhật Bản. Sau đó, hai bên ký kết hiệp ước bất tương xâm.
Sau khi Nhật Bản bị hai trái bom nguyên tử, Nga báo cho Nhật biết rằng phía của họ sẽ không gia hạn hiệp ước bất tương xăm sắp mãn hạn. Vài ngày sau, hiệp ước vừa mãn hạn thì Nga tuyên chiến với Nhật Bản. Vì thế nên khi đại diện các quốc gia Đồng Minh có mặt trên Soài Hạm USS Missouri thì người ta thấy có vài người Nga đứng vênh váo trong khi đại diện các quốc gia khác của Đồng Minh tỏ vẻ lạnh lùng với họ.
Đúng 80 năm đã trôi qua, phe thắng cuộc Nga có hơn được phe thua cuộc Nhật Bản điều gì?
Nếu không bị ràng buộc bởi những điều khoản ghi trong văn kiện đầu hàng, Nhật Bản chắc chắn sẽ vượt qua Nga về vũ trang.
Về mặt cơ khí, kỹ nghệ nặng, không một người Nhật nào thèm để ý đến xe hơi của Nga trong khi người dân Nga luôn thèm khát xe hơi của Nhật Bản.
Về mặt kinh tế, Nhật Bản không lệ thuộc vào bất cứ một quốc gia nào, mặc dù Nhật Bản là một trong những quốc gia nghèo nàn nhất thế giới về mặt tài nguyên thiên nhiên.
Về giá trị con người, công dân Nhât Bản có thể hiên ngang bước đi trên đất Nga một cách rất tự hào. Trong khi đó, nhiều người Nga đến Nhật mà không dám nói cho người khác biết mình là người Nga.
Thế mới hay, thắng hay thua trên chiến trường không phải là yếu tố quyết định để đánh giá phẩm chất thực sự của con người, hay của một dân tộc. Hãy nhìn dân tộc thua trận đã vươn mình lên và qua mặt kẻ thắng trận như thế nào để mà đánh giá họ một cách trung thực hơn.
FB Khiết Nguyễn

ĐCSTQ và chiếc bóng giả tạo của “người hùng kháng Nhật”

 Ngày 3 tháng 9 Trung Quốc tổ chức mừng 80 năm thắng Nhật. Nhìn lại lịch sử.

ĐCSTQ và chiếc bóng giả tạo của “người hùng kháng Nhật”
Trong suốt nhiều thập kỷ qua, Bắc Kinh không ngừng tô vẽ hình ảnh Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) như lực lượng “chủ lực” đánh bại phát xít Nhật trong Thế chiến II. Các lễ kỷ niệm, sách giáo khoa, phim ảnh đều được huy động để gieo vào đầu hàng trăm triệu người Trung Quốc rằng: “Nếu không có Mao Trạch Đông và Hồng quân, đất nước đã bị Nhật nuốt chửng.” Nhưng lịch sử chân thực lại phơi bày một sự thật khác hẳn: ĐCSTQ không hề có một chiến thắng quyết định nào trước quân Nhật, và phần lớn gánh nặng kháng chiến lại do Quốc dân đảng (KMT) gánh vác.

Ai thực sự đối đầu với Nhật?

Những trận đánh lớn làm chảy máu quân Nhật — từ Thượng Hải (1937), Trường Sa (1939, 1941, 1942), Hán Khẩu, đến hàng loạt chiến dịch bảo vệ Trùng Khánh — đều do Quân đội Quốc dân Cách mạng của Tưởng Giới Thạch chỉ huy. Họ hy sinh hơn 3 triệu binh sĩ, chịu phần lớn tổn thất, giữ chân đại quân Nhật suốt 8 năm, tạo điều kiện để phe Đồng minh (Mỹ, Liên Xô, Anh) xoay chuyển cục diện.

Còn ĐCSTQ thì sao? Họ chỉ duy trì những chiến dịch du kích nhỏ lẻ ở hậu phương, nổi bật nhất là Trận Bách Đoàn năm 1940. Nhưng kết quả cuối cùng lại thảm khốc: Nhật Bản phản công bằng chính sách “Tam quang” (giết sạch, đốt sạch, cướp sạch), khiến hàng triệu thường dân tại vùng cộng sản kiểm soát bị sát hại, cơ sở du kích tan hoang. Ngoài ra, những trận như Bình Hình Quan (1937) chỉ là phục kích đoàn xe nhỏ, có giá trị biểu tượng hơn là chiến lược.

Vì sao ĐCSTQ vẫn “vỗ ngực”?

Sau khi Nhật đầu hàng năm 1945, ĐCSTQ nhanh chóng chuyển hướng: chiếm lấy vũ khí, vùng kiểm soát, và chuẩn bị cho nội chiến chống Quốc dân đảng. Khi Mao lên nắm quyền, bộ máy tuyên truyền liền biến lịch sử thành công cụ chính trị:
• Phóng đại vai trò: Biến vài trận du kích thành “chiến công lẫy lừng.”
• Xóa công Quốc dân: Lờ đi máu xương của hàng triệu binh sĩ Quốc dân đã ngã xuống ở chiến trường chính.
• Độc quyền ký ức: Truyền vào đầu nhiều thế hệ người dân Trung Quốc một câu chuyện lịch sử giả tạo, nhằm hợp thức hóa tính chính danh của chế độ.

Sự ích kỷ và tiếm danh

Cái nguy hiểm không chỉ ở việc bóp méo lịch sử, mà còn ở chỗ ĐCSTQ đã lấy máu của người khác để dựng nên tượng đài cho mình. Họ đứng ngoài nhiều trận chiến ác liệt, bảo toàn lực lượng để sau này thừa cơ lật đổ đối thủ chính trị, rồi lại ngang nhiên tuyên bố “chúng ta là lực lượng lãnh đạo dân tộc đánh bại Nhật Bản.” Đó không chỉ là sự ích kỷ chính trị, mà còn là một sự tiếm danh vô liêm sỉ đối với những người đã thực sự chiến đấu và hy sinh.

Kết luận

Lịch sử không thuộc về những kẻ viết lại nó để phục vụ quyền lực. Lịch sử thuộc về sự thật. Và sự thật là: Quốc dân đảng, với sự hỗ trợ của Đồng minh, mới là lực lượng chính đối đầu và kìm chân phát xít Nhật tại Trung Hoa. Còn ĐCSTQ chỉ là kẻ đánh du kích cầm chừng, chờ cơ hội cướp công.

Ngày nay, khi Bắc Kinh tiếp tục tô vẽ quá khứ để hợp thức hóa chế độ, thế giới càng cần nhắc lại một thực tế: Đảng Cộng sản Trung Quốc không thắng Nhật. Họ chỉ thắng trong việc đánh tráo lịch sử.

Hình: Bên trái là tổng thống Tưởng Giới Thạch

Phụ lục lấy từ OPEN AI cho công bằng.

5 trận/chiến dịch chống Nhật mà Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) thường nêu trong tuyên truyền, kèm theo phân tích thực tế:

1. Trận Bách Đoàn (Hundred Regiments Offensive, 1940)
• Lực lượng: Khoảng 400.000 quân thuộc Bát Lộ Quân (do Bành Đức Hoài chỉ huy).
• Diễn biến: Tập kích hơn 600 km đường sắt và hàng trăm công trình hậu cần của Nhật ở Hoa Bắc.
• Kết quả: Ban đầu gây khó khăn lớn cho Nhật (phá hủy nhiều tuyến đường sắt), nhưng sau đó Nhật phản công dữ dội bằng “Chiến dịch ba mũi giáp công” (Three Alls Policy: “giết sạch, đốt sạch, cướp sạch”), khiến vùng căn cứ cộng sản thiệt hại nặng nề, hàng triệu dân bị sát hại.
• Thực chất: Đây là chiến dịch lớn duy nhất của quân cộng sản chống Nhật, nhưng kết cục bất lợi, quân Nhật vẫn giữ được thế chủ động.

2. Trận Bình Hình Quan (Pingxingguan, 1937)
• Lực lượng: 8.000 quân Bát Lộ Quân dưới quyền Lâm Bưu.
• Diễn biến: Phục kích đoàn xe tiếp vận Nhật ở Sơn Tây, tiêu diệt khoảng 1.000 lính Nhật.
• Kết quả: Đây là chiến thắng có thật, quy mô nhỏ nhưng được tuyên truyền cực lớn.
• Thực chất: Một trận tập kích nhỏ, không ảnh hưởng chiến lược đến toàn cục chiến tranh.

3. Các trận du kích ở Hoa Bắc (1937–1945)
• Lực lượng: Bát Lộ Quân và Tân Tứ Quân.
• Diễn biến: Tập kích nhỏ lẻ, phá đường sắt, tấn công đồn bốt Nhật.
• Kết quả: Gây khó khăn hậu cần cho Nhật, nhưng không ngăn được quân Nhật chiếm giữ thành thị và trục giao thông lớn.
• Thực chất: Chủ yếu là chiến tranh tiêu hao, giá trị nhiều hơn về chính trị (tuyên truyền “quân đội của nhân dân”) hơn là hiệu quả quân sự.

4. Chiến dịch ở Tảo Nam (Zaonan, 1939)
• Lực lượng: Quân cộng sản tại Sơn Tây.
• Diễn biến: Tập kích một số vị trí Nhật, giao tranh quy mô trung bình.
• Kết quả: Hai bên đều tổn thất, nhưng Nhật vẫn giữ được vùng kiểm soát.
• Thực chất: Không phải là thắng lợi lớn, nhưng được đưa vào sách giáo khoa của Trung Quốc như “chiến công”.

5. Các trận đánh tại Hoa Trung (với Tân Tứ Quân, 1941 trước khi bị Quốc dân đảng tấn công trong “Sự kiện Hoài Nam”)
• Diễn biến: Một số hoạt động chống Nhật ở miền trung Trung Quốc.
• Kết quả: Khi xung đột Quốc–Cộng nổ ra, lực lượng này gần như bị tiêu diệt bởi quân Quốc dân, mất vai trò lớn trong kháng Nhật.
• Thực chất: Hoạt động du kích chống Nhật không nhiều và kém hiệu quả so với quân Quốc dân.



• ĐCSTQ có tham gia kháng Nhật, nổi bật nhất là Trận Bách Đoàn 1940 và Phục kích Bình Hình Quan 1937, nhưng không có chiến thắng quyết định nào trước Nhật.
• Quốc dân đảng mới là lực lượng chủ lực, chịu phần lớn thương vong (hơn 3 triệu lính hy sinh) và đánh các trận chiến lớn.
• Sau 1945, ĐCSTQ phóng đại vai trò để hợp thức hóa tính chính danh, trong khi thực tế họ vừa đánh Nhật vừa giữ lực lượng để chuẩn bị nội chiến chống Quốc dân.
Vũ Quang