Sunday, July 6, 2025

VNCH & MỸ ĐÃ CÓ THỂ CHIẾN THẮNG VNCS NHƯNG VÌ SAO KHÔNG MUỐN?


Xin gửi đến các bạn một bài viết do một chiến hữu vừa gửi đến. Đọc xong, các bạn có thể hiểu được tại sao chúng tôi rất quí mến những quân nhân Hoa Kỳ sang chiến đấu tại Việt Nam, nhưng lại không ưa chính sách của Hoa Kỳ kể từ khi John Kennedy lên làm tổng thống.
Phi công Mark Berent cho rằng Mỹ và đồng minh Việt Nam Cộng Hòa có thể đã chiến thắng tại chiến trường Việt Nam vào những năm 67, 68. Nhưng qua những vụ ngưng ném thả bom trên đường mòn Hồ Chí Minh và miền Bắc Việt Nam, đã giúp cho Cộng Sản Bắc Việt mang quân và vũ khí vào miền Nam để đi đến chiến thắng cuối cùng vào tháng Tư 1975. Những phi công như ông đã bi trói tay và bịt mắt trước những cuộc di chuyển ồ ạt của cộng quân. Hãy nghe Mark Berent tâm sự… Nguyên tác là bài viết với tựa đề Rules Of Engagement, được in trong tác phẩm “To Bear Any Burden của Al Santoli".
Lần đầu tiên tôi tham chiến tại Việt Nam là vào năm 1965. Ðơn vị của tôi đóng tại căn cứ Không Quân Biên Hòa. Tôi bay phản lực cơ F-100s, tổng cộng hơn 200 phi vụ. Lần thứ hai tôi tham chiến ở Việt Nam là vào năm 1968, lúc đó tôi bay phản lực cơ F-4s cất cánh từ căn cứ Ubon, Thái Lan. Tôi thuộc phi đoàn Cú Ðêm (Night Owls), có nhiệm vụ bay trên đường mòn Hồ Chí Minh trong vòng 7 tháng. Cuối cùng, 5 tháng chót tôi được chỉ định chỉ huy Woff FAC (Lực Lượng Không Kiểm Tiền Phương (Forward Air Control)). Lực lượng này bao vùng đường mòn Hồ Chí Minh từ Lào đến suốt Bắc Việt Nam. Ðó là thời điểm mà Tổng Thống Johnson ra lệnh ngưng ném thả bom. Do đó, có lúc các phi vụ được chấp thuận ném thả bom, có lúc phi vụ không được chấp thuận.. Chẳng cần dấu diếm, nhiều lần một số anh em phi công chúng tôi tự thi hành nhiệm vụ thả bom đường mòn, mà không cho ai biết.
Tại Việt Nam, có vài điều rất đỗi ngạc nhiên. Thứ nhất là tôi được tưởng thưởng nhiều huy chương. Nhưng có một trường hợp tôi từ chối nhận một huy chương cao quý của Hoa Kỳ là Purple Heart, Lý do là vì một người bạn Lực Lượng Ðặc Biệt của tôi vừa mới trốn được Việt Cộng bằng cách đi bộ 26 cây số trong đêm tối, với viên đạn 51 ly còn nằm trong một cánh tay và tay kia dìu một người lính Việt Nam Cộng Hòa đang bị thương. Do đó, đối với tôi, cái huy chương cao quý Purple Heart không có một giá trị gì cả, tôi không xứng đáng để nhận!
Tôi hết nhiệm kỳ tại Việt Nam và được chỉ định về phục vụ tại một căn cứ không quân tại California. Không Quân Mỹ muốn xử dụng tôi hết mình và để tôi thăng tiến hơn, họ gửi tôi đi học để lấy bằng kỹ sư tại một đại học dân sự. Sau khi tốt nghiệp, tôi được bổ nhiệm một chức vụ khả quan về tiền bạc và tương đối nhàn hạ tại Phi Ðoàn 69 Chiến Thuật, sống cuộc đời thoải mái. Nhưng khốn nỗi, mỗi lần tôi cầm tờ báo thì lại được tin một người bạn thân của tôi bị bắn hạ và tử trận tại chiến trường. Không chịu nổi nữa, tôi xin với thượng cấp để được bay F-4s, một phản lực cơ tân tiến hơn so với F-100s và tôi đã được chấp thuận để trở lại chiến trường Việt Nam.
Trong 7 tháng đầu khi bay F-4s cất cánh từ căn cứ Ubon, Thái Lan. Tôi vẫn thuộc Phi Ðoàn Cú Ðêm (Night Owls). Lệnh ngưng thả bom của Johnson bắt đầu có hiệu lực một tháng trước khi tôi trở lại chiến trường. Do đó, phi công chúng tôi không có cơ hội thả bom miền Bắc Việt Nam. Chúng tôi chỉ còn biết bay ầm ì, rồi nhào lên lộn xuống trên đường mòn Hồ Chí Minh bên ranh giới nước Lào. Ðó là dọc theo vùng rừng núi cao Karst Mountains (Lào). Và nếu chúng tôi lợi dụng ngưng thả bom để bay xuống phía Nam thuộc lãnh thổ Việt Nam để phá hủy những đoàn xe tiếp liệu của Cộng Sản Bắc Việt dọc theo đường mòn, thì thực sự với F-4s không đủ khả năng này, vì chúng tôi phải bay trong bầu trời dầy đặc sương mù và mây thấp che kín tầm mắt quan sát. Nhiều lần chúng tôi cho một phản lực thả trái sáng và sau đó phản lực khác theo sau thả bom.
Nhưng khi trái hỏa châu vừa thả ra là mấy tên lái xe Việt Công đều chửi thề: “Mấy thằng phi công Mỹ ngu xuẩn đang sắp thả bom. Hãy ngừng xe lại và táp vào lề đường. Trước sau gì chúng cũng đâm vào dãy núi Karst…” Và đúng như thế, nhiều phi công của chúng tôi đã đâm máy bay vào dãy núi này mà chẳng thả trúng một xe tiếp liệu nào, chỉ vì tầm nhìn quá hạn chế do thời tiết.
Mãi đến khi Mỹ mang máy bay Spectre–AC130 có trang bị vũ khí và có trang bị cả dụng cụ quan sát ban đêm như màn hình TV và những dụng cụ điện tử có thể cảm giác được khói bay ra từ ống khói của xe vận tải, đồng thời máy bay này có khả năng nhìn qua đêm tối và mây mù.
Chúng tôi liên lạc chặt chẽ với Spectre-AC130 để thực hiện 2 nhiệm vụ: Một là áp lực những ổ súng phòng không của địch ngõ hầu chúng tôi có thể bắn hoặc thả bom trúng mục tiêu. Thứ hai là hướng dẫn chúng tôi tới mục tiêu cần tiêu diệt. Và kể từ đó, chúng tôi đã phá hủy rất nhiều xe vận tải tiếp liệu của địch. Tôi nhớ rõ, một lần, trong một đêm tôi bắn trúng 14 xe tiếp liệu của địch.
Mỗi khi máy bay Spectre-AC130 nhìn thấy đoàn xe, những phi công này sẽ đánh dấu cho chúng tôi bằng nhiều cách. Họ tác xạ vào mục tiêu bằng súng liên thanh 20 ly và cho chúng tôi biết đó là mục tiêu cần tiêu diệt. Hoặc giả họ ném hỏa châu để soi sáng cả đoàn xe phía dưới và chúng tôi cứ theo đó mà thả bom. Ngoài ra, họ còn có thể thả một khối hỏa châu nặng, có thể cháy sáng tới 20 phút. Họ ném một khối hỏa châu này trước đoàn xe và một khối khác phía cuối đoàn xe, và cho chúng tôi biết cứ thế mà thả bom trong đoạn đường giữa hai khối ánh sáng. Vì vậy, chúng tôi đã phá hủy được nhiều đoàn xe tiếp liệu của cộng sản. Ðường mòn Hồ Chí Minh đã bị cầy nát làm trở ngại cho việc cộng sản chở tiếp tế vào miền Nam Việt Nam. Thiển ý của phi công chúng tôi, chiến tranh đã có thể chấm dứt bằng quân sự!
Nhưng thật đau lòng, trong khi lệnh ngưng thả bom bắt đầu vào tháng 11 năm 1968, tất cả chúng tôi đau điếng! Anh em phi công chúng tôi đã trải qua bao nhiêu lần được lệnh ngưng thả bom và mỗi lần như thế chúng tôi cảm thấy như bị một quả đấm vào mặt, vì người ta đã phá tan đi những gì chúng tôi đang thắng thế.
Thi dụ, trong giai đoạn 1966-67, bạn bè chúng tôi, những phi công can trường, đang bay các phản lực cơ F-105s và F-4s trên lãnh thổ Bắc Việt, một nơi đầy nguy hiểm vì hỏa tiễn địa-không tối tân nhất SAM và màng lưới ra-đa của Nga đầy rẫy dưới đất. Nhưng vì Những Quy Tắc Giao Chiến (Rules Of Engagement), chúng tôi đã chiến đấu một cuộc chiến mà tay chúng tôi đã bị trói chặt, mắt chúng đã bị chọc thủng mù lòa và một nửa đạn dược trang bi đã bị cắt giảm.
Nhưng những viên chức chính phủ như Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara thì lại tuyên bố với công chúng rằng các phi cơ Mỹ không có bi cắt giảm bom đạn và bom đạn Mỹ không bao giờ thiếu?. Nhưng thực tế, chúng tôi đang chứng kiến bom đạn Mỹ ở Việt Nam đã bị cắt giảm nhiều, nhất là của không Lực Mỹ! Chúng tôi đã chứng kiến bạn chúng tôi bay ra Bắc với trang bị kém hơn thời Ðệ Nhị Thế Chiến, chỉ vỏn vẹn với 2 trái bom: 250 và 500 ký và 2 thùng bom lửa (Napalm) trong một phi vụ phá hủy đường rầy xe lửa. Ðiều hiển nhiên là chúng ta không thể cắt đường rầy xe lứa bằng bom lửa, mà thực ra bom này chỉ làm cháy cỏ và cây cối chung quanh đường rầy!. Chúng tôi cho rằng quyết đinh ngưng thả bom và cắt giảm đạn dược là MỘT TỘI PHẠM của những người có thẩm quyền. Nhiều khi chúng tôi đã đối đầu với một số hoa tiêu từ chối lệnh bay thả bom, dù họ có phải ra toà án quân sự!
Các quan chức này lại nói loanh quanh rằng không có thiếu bom tại Việt Nam. Nhưng tại Sài Gòn, những tầu thương mại chuyên chở bom đạn bị tắc nghẽn tại các hải cảng, vì hải cảng không đủ rộng để có thể đem xuống những bom và vũ khí lớn quá tầm trưc tiếp vào bờ. Trong khi đó, vũ khí nhỏ và dụng cụ y khoa thì được Việt Cộng hối lộ và chở về mật khu.
Vào thời điểm đó, tôi vẫn còn nghĩ rằng với sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, chính phủ Sài Gòn biết phải làm gì để chiến thắng. Nhưng một thời gian sau đó, tôi nhận thức được rằng: “Hình như người ta (Mỹ) không muốn và không cho phép để thắng cuộc chiến tranh này!” chỉ vì Hoa Thịnh Ðốn đã áp đặt cái “Nguyên Tắc Giao Chiến “ oái oăm này!?
Chúng tôi đành phải bay lên phía bắc Lào để yểm trợ cho Vang Pao, người lãnh đạo của lực lượng H’mong, một bộ lạc sống trên đồi núi, đang chiến đấu với quân cộng sản Bắc Việt và cộng sản Lào (Pathet Lào). Nhưng tại đây, lại có lệnh không được thả bom gần các chùa chiền. Trong khi ai cũng biết cộng sản Lào đang đóng quân đầy trong các chùa chiền ở Lào với đầy đủ vũ khí. Nhiều lần chúng tôi đã bị bắn từ chính trong các chùa. Có lần chúng tôi không chịu được, đã bay qua chùa và thả một trái bom vào chỗ có súng bắn lên, và ầm ầm kho đạn của địch nổ vang và cháy suốt mấy tiếng đồng hồ.
Có một câu chuyện ai cũng biết là ở Trung Tâm Văn Hóa Trung Hoa (Chinese Cultural Center) tại Plaine des Jarres (Lào) như sau: Chúng tôi không được lệnh thả bom trong vòng 3 cây số chung quanh trung tâm này. Vào một đêm, một phi công tức khí lén thả một trái bom vào trung tâm này và kho đạn ở đây đã nổ trong suốt một tuần lễ!
Sau khi lệnh ngưng thả bom trên lãnh thổ Bắc Việt vào tháng 11 năm 1968, chúng tôi chỉ được phép thả bom khi xe tiếp tế của Việt Cộng ở đường mòn Hồ Chí Minh trên phần lãnh thổ nước Lào mà thôi, và chỉ được thả bom vào ban đêm. Như vậy là chúng tôi gần như tự tử rồi! Ban đêm không thấy đường, súng phòng không bắn như sao, chúng tôi chỉ còn cách đâm máy bay vào dãy núi Karst là xong! Có một ngày quang đãng, tôi đếm được 100 xe tiếp tế nối đuôi nhau tại Ðèo Mụ Giạ thuộc Bắc Việt Nam. Những chiếc xe này đậu sẵn để đợi đêm tối di chuyển vào đường mòn. Và dĩ nhiên chúng tôi được lệnh cấm chỉ thả bom đoàn xe. Ðó là quy tắc giao chiến đấy!!
Chúng tôi cũng không thể thả bom đường xe lửa tiếp tế từ Trung Cộng vào Bắc Việt. Mỹ cũng không thể phong tỏa hải cảng Hải Phòng… Tất cả những gì Nixon làm năm 1972 là để Bắc Việt có cơ hội mang tiếp tế vào miền Nam. Ðáng lẽ chúng ta phải chặn đứng việc cộng sản Bắc Việt tiếp tế vũ khí cho chiến trường miềân Nam mới phải?
Vai trò ưu tiên của Không Lực Hoa Kỳ là chặn đứng khả năng tiếp tế vũ khí đạn dược vào chiến trường Miền Nam. Ðây là một sự “tuyệt đối phải ngăn chặn.” Ðó là mục tiêu duy nhất của Không Lực hầu yểm trợ lực lượng Mỹ và đồng minh tại Nam Việt Nam. Chúng ta phải thả bom các cơ sở chế tạo đạn dược và vũ khí, vì chính nơi này sản xuất phương tiện để giết những người lính Mỹ. Lý do nữa là Không Lực phải giúp lính tiêu diệt kẻ thù dưới đất. Tất cả Không Lực làm, từ chuyên chở, đến chiến đấu đều chung mục đích giúp cho toàn quân đội Mỹ ngoài chiến trường tại miền Nam Việt Nam.
Nhưng buồn thay, tại Việt Nam, chúng tôi đã không được phép thực thi những sự “tuyệt đối phải ngăn chặn” này. Thử nghĩ xem Tù Binh Chiến Tranh Mỹ (POW) do đâu mà có. 85% POW là hoa tiêu và phi hành đoàn. Họ bi bắn hạ chung quanh những vị trí có hỏa tiễn SAM và phi cơ MIG. Nơi mà những hoa tiêu này đã thấy từ khi cộng sản Bắc Việt và Nga Sô lúc còn dang xây cất. Còn tại chiến trường Miền Nam, lính Mỹ chết bởi những vũ khí, đạn dược và tiếp liệu do Bắc Việt chuyên chở vào Nam, mà chúng ta không ngăn chặn được hay chúng ta không muốn ngăn chặn?!.
Chúng tôi đã từng thấy từng đoàn xe vận tải nối đuôi nhau ngay ban ngày. Những xe này thuộc Lực Lượng Chuyên Chở 559 từ Hà Nội đổ vào.
Chúng tôi bay trên đầu đoàn xe và đôi khi chỉ cho chúng một chút sợ hãi bằng cách ném xuống vài thùng xăng phụ hay một vài trái hỏa tiễn gọi là. Vì chúng tôi không được phép mang cả phi đoàn phản lực đến đó để thả bom, chỉ vì lệnh cấm.
Tôi đã từng chứng kiến một làng người Thượng ở Nam Việt Nam bị Việt Cộng ném lửa đốt cháy cả làng. Chúng đốt sống cả trẻ thơ, phụ nữ và tất cả những gì còn sống, chỉ vì dân làng không chịu phục tùng lệnh của chúng.
Thật là đau lòng cho một cuộc chiến mà chúng ta không muốn thắng!
Mark Berent

 

Saturday, July 5, 2025

Nhân ngày 4 thang 7-2025 đọc lại sử Hoa Kỳ

 

Trong nửa thế kỷ vừa qua, chúng tôi đã đọc và viết về thời sự Hoa Kỳ nhưng chưa bao giờ ghi nhận được các tin tức như hiện nay. Nhân dịp quốc lễ năm 2025 xin gửi đến quý độc giả thân hữu 3 bài lịch sử Mỹ để suy luận. 1) Bài về Lễ Độc lập Hoa Kỳ, 2) Cuộc nội chiến giải phóng nô lệ da đen và 3) Bài về Lễ Tạ Ơn oan khiên của dân da đỏ.  

                                                      Xin luận cổ suy kim. Hoa Kỳ ngày nay đang có nội chiến chính trị giữa Dân chủ và Cộng hòa. Bệnh kỳ thị chủng tộc chia rẽ cả nước vì ngày nay dân số da trắng chỉ còn một nửa. Ông vua Hoa Kỳ trở thành nhà độc tài phản dân chủ nhưng vẫn được một nửa nước hoan nghênh. Ông chủ trương đóng cửa thiên đường và chỉ nhận thêm da trắng. Đó là lý do chúng ta cần đọc lại lịch sử Mỹ để nhận diện thực sự tình hình chính trị hiện nay. Sắc dân thành công nhất trong các chính khách tại Mỹ là người gốc Nhật. Ông dân biểu Honda và ông bộ trưởng giao thông đều nói rằng làm gì thì làm nhưng luôn luôn phải biết mình là ai. Phần chúng ta đều là người Việt Nam, da vàng…

Lịch sử Hoa Kỳ. Bài số 1



 Lễ Độc Lập Hoa Kỳ và Di dân Việt Nam  
Giao Chỉ, San Jose tháng 7-2025
4 tháng 7 hàng năm, ngày quốc lễ Hoa Kỳ 
Bài này đã viết lần đầu vào cuối thập niên 80, sau đó cứ khoảng 5 năm được nhật tu và sửa chữa. Sống ở Mỹ, mỗi ngày học thêm được bài học công dân và tự điều chỉnh việc suy tư. Năm nay nhân dịp 50 năm định cư tại Hoa Kỳ, đất nước trẻ trung đã già 250 tuổi, tác giả xin cập nhật thêm một lần cùng với những vấn nạn dân sinh tại Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ thứ 21. Trải qua 50 năm, di dân Việt nhập cư vào Mỹ đã cùng chia xẻ những đề tài xã hội trên quê hương mới bao gồm các lãnh vực sau đây:Trợ cấp xã hội, bảo hiểm y tế, chuyện đồng tính, chuyện phá thai, chuyện súng đạn, chuyện kỳ thị, chuyện nhập cư...và sau cùng là việc đương đầu với biết bao nhiêu khó khăn đối ngoại để bảo vệ an ninh cho đất nước và giữ mãi vai trò lãnh đạo thế giới. Dân Việt bắt đầu từ di tản đến ty nạn cộng sản và sau cùng trở thành các di dân chính thức xây dựng cuộc sống tại Hoa Kỳ, chúng ta đã hưởng phúc lợi và chia sẻ khó khăn của đất nước này, xin một lần nhắc lại trang sử lập quốc của quê hương tạm dung nay đã trở thành vĩnh viễn.

Ngày quốc lễ

       Ngày 4 tháng 7 hàng năm là ngày lễ trọng đại nhất của Hoa Kỳ. Đó là ngày Mỹ quốc Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 và bắt đầu chiến tranh cách mạng chống lại Anh quốc trong 6 năm. Đến 1782 Anh và Mỹ ký thỏa ước ở Paris và công nhận Hoa Kỳ độc lập. Người Mỹ đã chiến thắng trận chiến tranh đầu tiên của lịch sử Hiệp Chủng Quốc.

       Là công dân gốc Việt trong đợt di dân cuối cùng của thế kỷ 20, chúng ta nên tìm hiểu về đất nước mà chúng ta lập nghiệp. Dân tỵ nạn Việt Nam đầu tiên đến Mỹ đã được dự ngày kỷ niệm 200 năm lập quốc vào năm 1976. Đến bây giờ nước Mỹ đã già thêm 50 năm nhưng lịch sử trẻ trung của Hiệp Chủng Quốc vẫn phong phú và cũng rất độc đáo. Hoa Kỳ là quốc gia bao gồm tất cả các sắc dân, các ngôn ngữ, các tập tục văn hóa. Nước Mỹ đã có các kỷ niệm vừa hung bạo vừa nhân từ. Tiêu diệt da đỏ, bắt da đen làm nô lệ, kỳ thị da vàng, đem quân đi làm cảnh sát trên thế giới, đi đến đâu là gây sóng gió ở đó. Hoa Kỳ cũng là quốc gia phát huy tự do dân chủ toàn cầu, viện trợ kinh tế, quân sự, giáo dục, xã hội, văn hóa cho toàn thể các quốc gia chậm tiến trên thế giới. Đặc biệt nhất là vai trò lâu dài của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam đã trở thành một vết thương cay đắng trong thế kỷ 20, nhưng qua thế kỷ 21 Mỹ quốc lại trở thành niềm hy vọng đồng minh giữa cơn sóng gió biển Đông.

       Biên cương của Hoa Kỳ trên địa cầu là một vùng đất bao la tiếp giáp với hai đại dương Thái Bình Dương và Đại Tây Dương. Tiểu bang Alaska của Hoa Kỳ là ải địa cầu trấn giữ Bắc Băng Dương. Biên giới không gian của Hoa Kỳ lên đến mặt trăng và Mỹ quốc cũng đã đặt cọc trên đất trên hỏa tinh. Hai ngàn vệ tinh kinh tế thương mại và quân sự của Hoa Kỳ canh gác toàn vùng khí quyển của quả đất. Đế quốc nhân văn của Hiệp Chủng Quốc thống trị thế giới bằng các tòa đại sứ và lãnh sự luôn luôn tấp nập các khách hàng xin visa.

       Cơ sở ngoại vi của các đại sứ quán Hoa Kỳ là những chỗ bán thức ăn Fast Food McDonald, Coke, nhạc Rock và quần Jeans. Mỹ phát thực phẩm cho dân nghèo toàn thế giới nhưng đi đến đâu cũng bị đuổi về nhà: Yankee go home.

       Đó là hình ảnh Hoa Kỳ ngày nay, sau 250 năm lập quốc. Đất nước mà chúng ta đang là công dân có đứng lên tuyên thệ bảo vệ và tuyệt đối trung thành.Vì vậy chúng ta cũng nên biết qua lịch sử của quê hương mà phần đông chúng ta sẽ cùng các thế hệ tiếp theo ở lại đời đời.

       Ai là người đầu tiên trên đất Mỹ?

       Các nhà nhân chủng học cho biết 12 ngàn năm trước lục địa còn dính liền cuối thời băng giá. Á châu và Mỹ châu nối tiếp ở phía Bắc. Con người tiền sử Á Châu đi tìm đường sống đã đi từ Á qua Mỹ. Sau đó quả đất chuyển đổi, hai lục địa tách xa nhau. Người Á châu tiền sử trở thành thủy tổ của các bộ lạc ở Bắc Mỹ. Tuy nhiên, thực ra đây cũng chỉ một là giả thuyết.

       Thực tế ghi nhận nhiều nền văn minh đã được kiến tạo, nhiều bộ lạc đã tàn lụi. Sau cùng chỉ còn các bộ lạc da đỏ tồn tại cho đến thời kỳ 1500 các sắc dân Tây phương mới đến Mỹ bằng đường biển. Nổi danh nhất là nhà hàng hải Colombo năm 1492 đi tìm Á châu nhưng tình cờ khám phá ra Mỹ châu. Rồi tiếp theo là Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh Cát Lợi, Pháp, Đức rồi đến Nga và các quốc gia Đông Âu tìm đến châu Mỹ.

       Các cuộc chiến đẫm máu, triền miên ở tân lục địa giữa người địa phương và dân giang hồ mới đến. Chiến tranh giữa các thế lực Tây phương. Sau cùng Anh quốc ổn định được phần lớn miền Đông Hoa Kỳ và các di dân Âu châu bắt đầu lên đường. Con tàu Hoa Tháng Năm, Mayflower nổi tiếng đến Mỹ năm 1620 vỏn vẹn có 100 người mà một nửa là thủy thủ đoàn đã trở thành biểu tượng của cuộc định cư trên đất mới vì có đem theo gia đình.

       Năm 1621 di dân được mùa đã cùng tổ chức Lễ Tạ Ơn và ăn mừng với dân da đỏ trong một lễ Thanksgiving đầu tiên của nhân loại.

       Nhưng rồi những ngày vui qua mau. Thổ dân tại Mỹ chết dần vì bị giết, bị đói, bị bệnh, có thể do các mầm bệnh từ tây phương đem đến.
       Trong khi đó từ 1620 đến 1732 tức là hơn 100 năm. Một nước Mỹ thuộc Anh đã hình thành với 13 tiểu bang liên hiệp ở miền Đông. Phần lớn làm nghề nông, trồng thuốc lá, trà, và lúa. Các vùng khác thuộc Tây Ban Nha, Pháp vẫn còn tranh chấp.

       Cuộc chiến 1754 giữa Pháp và Anh giành đất trong 7 năm, sau cùng Anh thắng và mở rộng biên cương thuộc địa.

       Tiếp theo nước Anh cần tiền cho mẫu quốc nên đánh thuế các thuộc địa, thu tiền các nhà sản xuất và các đồn điền tại Hoa Kỳ. Chính sách thuế của Anh ban hành năm 1774 trở thành mầm mống cho cuộc chiến dành độc lập tại Hoa Kỳ. Tướng Washington nhận trách nhiệm lãnh đạo cuộc chiến tranh cách mạng vào năm 1775 và chính thức đứng ra tuyên bố độc lập 1776. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập do Thomas Jefferson đại diện tiểu bang Virginia viết ra lúc ông 33 tuổi được coi là một áng văn tuyệt tác nhất của nhân loại và mở đầu cuộc chiến dành độc lập cho đến chiến thắng cuối cùng bằng hiệp định Paris 1782.

       Sau chiến thắng, Hoa Kỳ có 5 năm xây dựng dân chủ từ 1782 đến 1787 để hiến pháp ra đời với 9 tiểu bang chính thức rồi đến 13 tiểu bang thỏa hiệp. Những lá cờ Mỹ đầu tiên có 9 ngôi sao rồi 13 ngôi sao và bây giờ là 50 ngôi sao.

       Suốt từ buổi bình minh của Hiệp Chủng Quốc cho đến nay, nước Mỹ đã trải qua biết bao nhiêu là biến động.

       Từ hơn 4 triệu dân vào năm 1800 trở thành trên 300 triệu vào năm 2025. Trên giấy tờ có 239 năm lập quốc nhưng thực sự quốc gia này đã nảy mầm từ trên 300 năm.

       Ý nghĩa Hiệp Chủng Quốc.

       Phải chăng Hoa Kỳ là một đĩa rau trộn gồm đủ mọi sắc thái nhưng tía tô vẫn là tía tô, rau giấp cá vẫn nồng nàn mùi tanh của biển mặn. Hay đây là nồi cháo mà mọi thứ thực phẩm đã được hòa tan thành một hương vị mới. Cái đó còn tùy hoàn cảnh, địa phương và thời gian.
       Nước Mỹ đã trải qua các giai đoạn hành động tàn nhẫn với các sắc dân thiểu số. Vào thế kỷ thứ 19, da trắng buộc dân da đỏ phải di cư tập trung vào các khu vực ấn định. Thảm kịch diễn ra trên các con đường mòn được gọi là: Đường mòn nước mắt.

Da đỏ già trẻ lớn bé đều phải ra đi, bỏ nhà cửa, vườn trại để vào các khu đồng khô cỏ cháy xa cách vạn dặm. Hàng chục ngàn người đã chết.

Trong khi đó ở miền Nam Hoa Kỳ, dân da đen bị bắt làm nô lệ đem từ Phi châu qua đã trở thành một lực lượng lao động quan trọng. Những bàn tay đen đủi đã xây dựng nên nền nông nghiệp miền Nam nuôi cả nước Mỹ vào thời kỳ lập quốc với những vườn bông vải trắng xóa cả chân trời. Nhưng cũng chính da đen là vấn nạn cho cuộc chiến tranh tương tàn Nam Bắc. Những người da đen bỏ trốn các nông trại đã bị đánh roi cho đến chết. Câu chuyện Uncle Tom với bài ca da đen lừng danh: Let my people go, Hãy cho dân tôi đi, trích dẫn từ Thánh Kinh đã trở thành một vết thương trong lương tâm Hoa Kỳ.

       Da đỏ xin ở lại thì bị đuổi đi. Da đen xin đi thì bị giữ lại. Ngay khi nội chiến chấm dứt, da đen được giải phóng mà vẫn còn bị kỳ thị.

       Cuộc chiến đấu vĩ đại của một đàn bà da đen năm 1955 không chịu ngồi phía sau xe bus đã trở thành một cuộc tổng đình công vĩ đại tẩy chay xe bus tại Hoa Kỳ. Từ cuộc đình công này, da đen có được một nhà lãnh đạo đầy huyền thoại là mục sư King mà tên tuổi trở thành một ngày quốc lễ.

       Rồi đến lịch sử Tây tiến làm đường xe lửa đem da vàng Nhật Bản và Trung Hoa nhập cuộc. Các tiền nhân di dân châu Á cũng đã ngậm đắng nuốt cay ở miền Tây Hoa Kỳ trong suốt thời lịch sử cận đại.

       `Sau cùng đến lượt chúng ta. Việt Nam ngày nay có một triệu tám trăm ngàn người tại Hoa Kỳ. Sau đợt di tản 75 tiếp đến là thuyền nhân từ 75 đến 95 rồi là các HO, ODP, con lai nhập cư cho đến cuối thế kỷ thứ 20. Qua thế kỷ 21 hồ sơ đoàn tụ tiếp tục với các gia đình trên 10 năm chờ đợi cùng với các diện hôn nhân gặp gỡ vội vàng. Mười quận hạt có dân số đông đảo nhất là Orange, Santa Clara, Los Angeles, Houston, San Diego, Seattle, Oakland, DC, Dallas và Fort Worth (Texas).

       Chúng ta không phải là sắc dân cuối cùng, và chúng ta không phải là sắc dân duy nhất có quê hương cố quốc. Di dân tỵ nạn Việt Nam tùy theo hoàn cảnh và cảm nghĩ, có người mang theo quê hương, có người bỏ lại quê hương. Tuy nhiên chúng ta không thể hành xử khác tập thể di dân trong trách nhiệm xây dựng đất mới.

       Sắc dân nào cũng có những niềm tự hào của họ. Ai cũng có các hãnh diện về truyền thống văn hóa, ngôn ngữ cội nguồn. Điều quan trọng là phong cách đối xử và tìm hiểu để hội nhập. Chúng ta phải cảm ơn những người đi trước đã mở đường. Kể cả người xấu lẫn người tốt đã sống và đã qua đi trong công cuộc chinh phục đất nước vĩ đại này.

       Một lần nữa, đợt người Việt đầu tiên ở Mỹ sẽ là những cây tràm, cây đước giữ chặt đất cho một cộng đồng tương lai phát triển. Con cháu chúng ta sẽ vừa nhớ ơn ông cha đã đến đất này mà cũng không hổ thẹn về những đóng góp của chúng ta trong những giai đoạn đầu tiên. Bỏ lại phía sau con sông Hồng, sông Hương, sông Cửu Long và dãy Trường Sơn. Bây giờ ta phải làm quen với con sông Sacramento và rặng Rocky Mountain để con cháu ta đứng lên đáp lời sông núi mới.

       Xin hãy công bình với hoàn cảnh. Hãy lưu tâm ngày 4 tháng 7 của Hoa Kỳ. Bước ra khỏi cái Ghetto của cộng đồng nhỏ hẹp, tham dự vào cái xã hội vĩ đại đã đem phúc lợi cho chúng ta. Đó là cách hay nhất để xây dựng cùng một lúc cộng đồng tại Mỹ và quê hương bỏ lại ở Việt Nam. Bao gồm cả giấc mơ tự do và dân chủ.

                                                       Giao Chỉ, San Jose  

Hãy đặt mua tuyển tập Giao Chi San Jose.                  

1) Đi không ai tìm xác rơi.                                              

2) 30 tháng 4, lúc đó bác ở đâu?

3) Hoa Kỳ, kỳ hoa dị thảo.                              giaochi12@gmail.com  (408) 316 8393
       Một cuốn $10 Mua sách ghi IRCC 3017 Oakbridge Dr. San Jose CA 95121
Lịch sử ngàn người viết, tác giả ghi chép lại, giữ sách là giữ lửa cho mai sau.

&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&

Lịch sử Hoa Kỳ. Bài số 2



   Bài Học Từ Cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ                                          và chiến tranh Việt Nam.

 ·         Giao Chỉ San Jose

Cuộc chiến Nam Bắc Hoa kỳ chấm dứt 9 tháng 4-1865.
Cuộc chiến Nam Bắc Việt Nam chấm dứt 30 tháng 4-1975.


Trong chiến tranh, các nhà lãnh đạo hai bên đều đã từng quen biết nhau, bắt tay nhau trong hội nghị và đôi khi dạ tiệc bên nhau.Thật mỉa mai, trên chiến trường chiến binh đối nghịch tàn sát nhau, dù không quen biết và không ân oán cá nhân.Vì vậy, sau cuộc chiến mà còn thù hận là vô nghĩa.Thế giới văn minh có luật lệ đối xử với hàng binh, bảo vệ di hài và nghĩa trang của cả hai bên, và tất cả đều có nghĩa vụ phải giúp đỡ vô điều kiện cho người tình nguyện đi tìm để mai táng di hài của chiến sĩ.Nghĩa tử, nghĩa tận là phương châm của cả nhân loại…Từ suy tư đó, tôi viết chuyện này cho các bạn…
Người tỵ nạn Việt Nam đến Hoa Kỳ đi thăm miền Nam tiểu bang Virginia, tìm hiểu về cuộc nội chiến hơn 200 năm trước đã thấy một vài thời điểm tương đồng với chuyện quê hương. Tháng 4 của Hoa Kỳ cũng là một ngày tháng đáng lưu ý của lịch sử Việt Nam. Cuộc nội chiến Nam Bắc Hoa Kỳ bắt đầu vào ngày 12 tháng 4-1861. Bốn năm sau vào ngày 9 tháng 4-1865, tướng Lee của miền Nam đầu hàng tướng Grant của miền Bắc. Ghé thăm nghĩa trang quốc gia tại quận Arlington VA lại nhớ đến nghĩa trang Biên Hòa VN…Bây giờ là tháng tư, năm 2025. Nhớ đến tháng tư Việt Nam 50 năm về trước…

Nội chiến Hoa Kỳ
Cuộc chiến tranh với hàng trăm trận đánh tại miền Đông Hoa Kỳ trong 4 năm đã làm cho quân hai bên chết 620 ngàn và hàng triệu người bị thương tích. Miền Bắc thắng trận, thống nhất đất nước, giải phóng nô lệ và hy sinh thêm vị anh hùng Mỹ quốc. Đó là tổng thống Lincoln.

Trong trận đánh cuối cùng, quân miền Bắc chiếm được Richmond là thủ đô của miền Nam vào ngày 2 tháng 4-1865. Hai ngày sau tổng thống Lincoln của Hoa Thịnh Đốn đến thị sát Richmond, bước vào dinh tổng thống miền Nam đã bỏ chạy. Tiếp theo là tướng Lee đầu hàng ngày 9 tháng 4 và vào ngày 15 tháng 4-1865, tổng thống Lincoln bị ám sát chết.

Vị tổng thống thứ 16 trở thành vĩ nhân thống nhất đất nước và giải phóng nô lệ nhưng chỉ vui với chiến thắng chưa được một tuần lễ.

Đa số thính giả và độc giả của Dân Sinh Media tại San Jose cả báo lẫn đài, dù đã mang quốc tịch Mỹ nhưng vẫn nhớ về quốc tổ, về Trưng Vương và các anh hùng dân tộc Việt Nam. Có lẽ sau 50 năm tỵ nạn, di dân Lạc Hồng tại Hoa Kỳ mang quốc tịch Mỹ, chúng ta cũng cần biết thêm chút lịch sử của Hiệp Chủng Quốc với các dữ kiện căn bản của chương trình trung học.

Số là sau chiến tranh dành độc lập, Mỹ thắng Anh trở thành Hoa Kỳ với tổng thống Washington thì tiếp theo đến trận nội chiến chia đôi Nam Bắc là một vết thương đau đớn nhất.

Vào thời kỳ đó, nước Mỹ gồm các tiểu bang Đông Bắc có thủ đô Hoa Thịnh Đốn chủ trương giải phóng nô lệ. Tổng thống Hoa Kỳ là luật sư Lincoln tuyên bố quốc gia không thể có hai luật, một nửa có nô lệ, một nửa không.

Quân chính phủ miền Bắc gọi là quân đội Potomac, lấy tên của dòng sông diễm lệ chạy qua thủ đô. Các tiểu bang miền Nam sống về canh nông quyết đòi giữ lại chế độ nô lệ để khai thác cho nông nghiệp. Tổng thống miền Nam là ông Davis. Thủ đô miền Nam là Richmond và quân đội do tướng Lee chỉ huy được gọi là quân đội Virginia.

Nội chiến xảy ra trong hai nhiệm kỳ của ông Lincoln từ 1861 đến 1865 với hai vị tướng chỉ huy sau cùng là tướng Ulysses S. Grant của miền Bắc và tướng Robert E. Lee của miền Nam. Tuy miền Nam với các tiểu bang ly khai cũng bầu ra một tổng thống là ông Jefferson Davis nhưng nhân vật anh hùng miền Nam là tướng Lee. Khi cuộc chiến Nam Bắc bùng nổ, nước Mỹ chia đôi. 11 tiểu bang miền Nam ly khai với 9 triệu dân và thêm 4 triệu dân nô lệ da đen. Chính phủ liên bang Hoa Kỳ còn lại 21 tiểu bang miền Bắc với 20 triệu dân.

Ông Robert Lee nguyên là tướng lãnh của quân đội Hoa Kỳ nhưng gốc người miền Nam. Ông đã từng là chỉ huy trưởng trường West Point.

Tháng 4-1861 khởi chiến Nam Bắc, tướng Lee được đề nghị chỉ huy quân đội miền Bắc nhưng ông không nhận và xin từ nhiệm để về đầu quân miền Nam tại Richmond, tiểu bang Virginia. Ông nói là không thể quay lưng với nơi ông đã sinh ra và trưởng thành.

Trong chiến tranh, ông lập được nhiều chiến công và là vị tư lệnh sau cùng của miền Nam đã quyết định đầu hàng.

Khi thủ đô Richmond của chính phủ miền Nam bị thất thủ, các sĩ quan đề nghị rút vào rừng đánh du kích nhưng tướng Lee không chấp nhận. Không một ai trong phe miền Nam phản đối hay trách cứ vị tư lệnh. Họ đã theo ông trong các chiến thắng vinh quang. Họ tiếp tục theo ông trong giây phút nhục nhã đầu hàng. Không ai biết bại binh sẽ được đối xử ra sao vì trong chiến tranh hận thù chất ngất.

Cuộc chiến tranh tương tàn đẫm máu làm tổn hại hàng triệu sinh linh Hoa Kỳ, tan nát các đô thị miền Đông và vùng Virginia. Tất cả đã thể hiện trong tác phẩm và cuốn phim bất hủ Cuốn Theo Chiều Gió mà chúng ta đã đọc cũng như coi nhiều lần suốt thời niên thiếu.

Ngay cho đến bây giờ, tác phẩm này vẫn còn là loại tài liệu được đem dạy ở trường học với sự say mê và hãnh diện của nhiều thế hệ Hoa Kỳ.

Đó là những bài học về cuộc chiến, giết người, đốt nhà, anh em một nhà, nồi da nấu thịt đã đem lại cho thế hệ nối tiếp. Chúng tôi xin duyệt lại cùng quý vị câu chuyện hậu chiến Hoa Kỳ để so sánh với bài học chiến tranh Việt Nam.
Câu chuyện đầu hàng: Trước tiên bắt đầu về câu chuyện đầu hàng. Sau chiến tranh, nước Mỹ sưu tầm và dựng lên khắp miền Đông hàng trăm viện bảo tàng. Mỗi tiểu bang ít nhất là một viện bảo tàng. Mỗi trận đánh trên trận địa xưa cũ với các di tích đều có một viện bảo tàng.

Bằng hội họa, nhiếp ảnh, dữ kiện, thêm vào âm thanh ánh sáng người ta dựng lại lịch sử các cuộc thương thuyết, các cuộc điều binh và các trận liệt. Quân hai bên Nam Bắc, quân xanh, quân xám, các tướng lãnh, sĩ quan, binh sĩ và dân chúng. Những cái chết đau thương và anh hùng của cả hai bên, những mối tình bất hủ, tràn đầy hình ảnh em hậu phương, anh tiền tuyến.

Không phải hàng trăm mà có đến hàng ngàn tác phẩm điện ảnh về chiến tranh Nam Bắc. Cả những phim vĩ đại mới ra đời trong vài năm gần đây vẫn còn hình ảnh của cuộc nội chiến ngày xưa.

Cuộc nội chiến đau thương xưa cũ đã là niềm cảm hứng cho tinh thần nhân bản xây dựng trên tro tàn của một thời nội chiến Hoa Kỳ.

Xin nhắc lại một lần nữa, bài học phải bắt đầu từ câu chuyện đầu hàng. Đúng như vậy, trong hàng trăm bảo tàng viện về Civil War của Hoa Kỳ, thì viện bảo tàng Appomattox Court House ở Virginia là nơi nổi tiếng nhất vì dựng lên ngay tại ngôi nhà tướng Lee đã đến ký văn bản đầu hàng ngày 9 tháng 4-1865.

Tại đây, câu chuyện về vị tướng phe bại trận miền Nam lại được viết ra và hình ảnh của ông lại được chiêm ngưỡng nhiều hơn cả phe thắng trận. Lịch sử ghi lại rằng vào sáng ngày 9 tháng 4 cách đây 200 năm, thủ đô miền Nam là Richmond thất thủ, kỵ binh của miền Bắc cùng với 3 quân đoàn bộ binh vây hãm quân miền Nam hết đường tháo lui.

Bộ tham mưu của tướng Lee đề nghị phân tán để giữ lực lượng đánh du kích, nhưng tướng Lee quyết định đầu hàng. Vị danh tướng của Hoa Kỳ trải qua bao nhiêu chiến thắng nhưng sau cùng vì quân số và tiếp vận bị giới hạn nên đành bất lực chấp nhận thua cuộc. Với lá thư riêng ông gửi cho tướng Grant của miền Bắc yêu cầu thu xếp buổi họp mặt.

Ông Grant nhận được thư hết sức vui mừng và bỗng nhiên thấy hết ngay cơn bệnh nhức đầu ghê gớm hành hạ ông từ nhiều ngày qua.
Vị tư lệnh miền Bắc ra lệnh nghiêm cấm các sĩ quan và binh sĩ trực thuộc không được tỏ ra bất cứ hành động nào vô lễ với ông tướng tư lệnh miền Nam bại trận.
Trưa ngày lịch sử 9 tháng 4-1865, tướng Lee và một đại tá tùy tùng cưỡi ngựa vượt qua phòng tuyến đến nơi hẹn ước. Hình ảnh ghi lại hai người đi qua đoàn quân nhạc của lính miền Bắc thổi kèn chào đón. Các sĩ quan miền Bắc đưa vị tư lệnh miền Nam vào phòng họp. Nửa giờ sau tướng Grant và đoàn tùy tùng miền Bắc đến.

Cả hai vị tư lệnh đã biết nhau trong cuộc chiến tranh với Mễ Tây Cơ. Họ đã nhắc lại một thời bên nhau trong quá khứ. Tướng Grant sau này thú nhận là ông rất ngần ngại và thực sự hổ thẹn khi phải hỏi tướng Lee nói về quyết định đầu hàng.

Theo quy luật chiến tranh thời đó, quân miền Nam phải giải giới, tước bỏ khí giới và quân dụng. Tự do trở về quê cũ như các dân thường. Tướng Lee đồng ý nhưng chỉ đòi hỏi một điều sau cùng là yêu cầu cho binh sĩ của ông được giữ lại lừa ngựa, vì lính miền Nam đem ngựa từ các nông trại của họ đi chiến đấu. Không phải ngựa của chính phủ như lính miền Bắc.

Tướng Grant thỏa hiệp là sẽ không sửa chữa chính thức trên văn bản nhưng thực tế sẽ cho lệnh để lính miền Nam đem lừa ngựa về nhà mà xây dựng lại nông trại.

Thắng vinh quang, mà bại cũng anh hùng…(Thơ Cao Tần)

Sau này khi viết về văn bản đầu hàng, lịch sử ghi rằng đây là thỏa hiệp của những người quân tử (The Gentlement Agreement). Trên các bảo tàng viện và đặc biệt là bảo tàng viên ở Appomattox Virginia có tranh sơn dầu hình tướng Lee hiên ngang quắc thước trong bộ quân phục xanh dương, tóc và râu bạc, thể hiện hình ảnh người Mỹ anh hùng không bị khuất phục dù thua trận. Toàn thể nước Mỹ hiểu rằng khi một người Mỹ bị nhục, thì dù là Mỹ miền Nam hay Mỹ miền Bắc cũng là một người Mỹ bị sỉ nhục.

Thực vậy, khi chúng tôi đi thăm viện bảo tàng đầu hàng, cô Mary quản thủ cơ sở đã nói rằng dù hình ảnh của miền Nam hay miền Bắc, lịch sử không muốn ghi lại các hình ảnh xấu xa của bất cứ phe nào.

Ở đây là nơi lưu giữ hình ảnh của các anh hùng miền Nam lẫn miền Bắc. Đặc biệt là hình ảnh của phe bại trận lại được lưu ý hơn cả phe chiến thắng. Lá cờ rách của miền Nam thua trận treo tại thủ đô Richmond bây giờ lại là bảo vật hào hùng của bảo tàng viện đầu hàng.

Và hình tướng Lee cưỡi ngựa đi đến nơi họp mặt với đoàn quân nhạc miền Bắc chào đón. Hình tướng Lee ký tên xong ra đi được sĩ quan và binh sĩ miền Bắc tiễn đưa và vẫy tay chào.

Bây giờ hình tượng của tướng Lee tràn ngập ở miền Nam Virginia. Câu lạc bộ Lee, bảo tàng viện Lee, Fort Lee xa lộ Lee và các đồn trại của quân đội liên bang mang tên vị tướng thua trận như là một biểu tượng anh hùng. Bởi vì người Mỹ đã thấm nhuần bài học rất Hoa Kỳ. Bài học của người lính dũng cảm cả hai phe trong chiến tranh và người quân tử của thời hậu chiến.

Trong cuộc nội chiến tại nước Mỹ vào thế kỷ 18, sau cùng được thua thì cũng vẫn là nước Mỹ và người Mỹ.

Lịch sử của Hoa Kỳ quá ngắn ngủi và đạo lý của người dân tứ chiếng như Hiệp Chủng Quốc thì vốn không thể nào sánh với lịch sử và truyền thống đặc biệt của người Việt Nam. Nhưng sao mà di sản tinh thần của cuộc nội chiến Việt Nam để lại không đẹp đẽ chút nào. Những chiến binh anh hùng của miền Nam phải tập trung vào các trại khổ sai. Vợ con bị xua đuổi lên rừng làm kinh tế mới. Cả miền Nam bị làm nhục.

Chuyện nghĩa trang

Đã vậy, câu chuyện vẫn chưa xong. Qua bài học thứ hai, chúng tôi xin kể thêm về vấn đề nghĩa trang và mộ phần của các liệt sĩ phe chiến bại tại Hoa Kỳ.

Tại nước Mỹ có một nghĩa trang quốc gia nổi tiếng khắp thế giới. Đó là nghĩa trang Arlington. Đây là nghĩa trang chính thức của liên bang Hoa Kỳ, của người miền Bắc trong trận chiến Bắc Nam. Thành lập tháng 5 ngày 13-1864 do bộ lục quân quản trị gồm 624 mẫu, chia làm 70 khu, dành chỗ cho 400 ngàn mộ chí. Phe miền Bắc đã mai táng các tử sĩ của liên bang tại đây.

Sau cuộc nội chiến, các tiểu bang miền Nam có hàng ngàn nghĩa trang lớn nhỏ chôn cất tử sĩ của phe bại trận và trên đó luôn luôn có lá cờ gạch chéo đã một thời tung hoành trên chiến trường.

Ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, hoàn toàn không có tù binh, không có cải tạo tập trung, ai về nhà đó, cùng xây dựng lại quê hương.

Nghĩa trang bên nào bên đó tự lo lấy, xấu đẹp tùy sức. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là ngày nay tại nghĩa trang quốc gia của phe miền Bắc ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn có một khu chôn cất tử sĩ miền Nam với tượng đài gọi là Confederate Memorial.

Cũng phải nói rằng, thực sự sau nội chiến, dư vị cay đắng giữa Nam Bắc Hoa Kỳ vẫn còn nhiều. Dễ gì mà trút bỏ hận thù ngay sau khi hai bên chết cả gần một triệu người mà một số lớn đã giết nhau khi giáp mặt bằng gươm dao. Hai phe cùng đốt nhà của nhau và cùng tàn phá đô thị và nông trại, đôi khi có cả những hành động dã man như hãm hiếp đàn bà và tàn sát trẻ em. Cuộc chiến nào mà không có những lần quá độ.

Tuy nhiên, sau chiến tranh Nam Bắc, Hoa Kỳ lại xảy ra chiến tranh với Mễ Tây Cơ nên hai miền hận thù có dịp gần nhau và hàn gắn lại mối thương đau. Tại các tiểu bang miền Nam có biết bao nhiêu là tượng đài dựng lên để vinh danh chiến sĩ phe bại trận.

Năm 1900 tức là hơn 40 năm sau cuộc chiến, quốc hội liên bang mở đầu cho giai đoạn hòa giải dân tộc và năm 1991 thì các liệt sĩ miền Nam được cải táng đưa vào một khu đặc biệt trong nghĩa trang Arlington gọi là Confederate Section. Tổng cộng gần 500 mộ phần quây tròn chung quanh một tượng đài do nhà tạc tượng danh tiếng là điêu khắc gia Moses Ezekiel thực hiện.

Trên đỉnh của chân bệ hình vòng cung như nóc tòa Quốc Hội là hình tượng cao 32 feet của một thiếu phụ tượng trưng cho miền Nam. Đây là hình ảnh bà mẹ của phe bại trận đã có con trai hy sinh cho cuộc chiến. Phía dưới là bài thơ đại ý như sau:

"Ở đây chẳng có vinh quang hay tưởng lệ.
Ở đây chẳng phải binh đoàn hay cấp bậc.
Ở đây chẳng có tham vọng hay mưu cầu.
Ở đây chỉ đơn thuần là nhiệm vụ.
Những người nằm ở đây đã hiểu rõ
là họ trải qua gian khổ, đã hy sinh
đã liều thân và sau cùng đã chết."


Đó là câu chuyện về các tử sĩ của phe thua trận tại Hoa Kỳ.

Cũng chẳng khác gì vần thơ bất hủ của Thanh Nam dành cho Nghĩa Trang Quân Đội miền Nam tại Biên Hòa.

... Ta như người lính vừa thua trận
Nằm giữa sa trường nát gió mưa
Khép mắt cố quên đời chiến sĩ
Làm thân cây cỏ gục ven bờ
Chợt nghe từ đáy hồn thương tích
Vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa...


Vậy thì câu chuyện mộ phần của phe thua trận của Việt Nam thì ra sao? Chuyện Nghĩa Trang Quân Đội VNCH tại Biên Hòa mà chúng tôi đã có dịp giãi bày.

Chúng tôi có một ông bạn làm thông dịch viên cho bộ ngoại giao Hoa Kỳ vẫn có dịp hướng dẫn cho các nhân viên cao cấp của Hà Nội đến thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Tôi vẫn thường bảo rằng ông nên dẫn khách đi thăm bảo tàng viện "Đầu hàng" và khu nghĩa trang phe thua trận ở Arlington.

Nơi đó dạy chúng ta bài học làm người văn minh.

Xem lại lịch sử, chiến cuộc Nam Bắc Hoa Kỳ trong 4 năm rất khốc liệt, máu lửa và ghê gớm vô cùng.

Trong một thời gian ngắn các trận đánh dồn dập, các đô thị bốc cháy lửa cao ngút trời. Cũng tản cư, cũng loạn lạc và chiến tranh để lại các cánh đồng toàn xác chết trong các trận giáp lá cà, đâm chém nhau mặt đối mặt. Đặc biệt vào thăm nghĩa trang Arlington có thể sẽ tìm thấy khu mai táng tập thể các tử sĩ của cả hai phe Nam Bắc nằm chết trên sa trường sau nhiều ngày không còn phân biệt được. Một đài tưởng niệm dưới hình thức một ngôi mộ vĩ đại ghi dấu cho câu chuyện nhân bản của nước Mỹ.

Nhưng rồi vết thương nào cũng phải được hàn gắn. Nước Mỹ đã có những bước ngoạn mục đầy màu sắc văn minh ngay từ khi chiến tranh chấm dứt để chấp nhận và tôn trọng người bại trận như những anh hùng. Phải chi những tướng lãnh vị quốc vong thân của Nam Việt Nam như Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai của quân đội Việt Nam Cộng Hòa mà hành xử như thế trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ thì sẽ được phe thù nghịch tại Hoa Thịnh Đốn tôn vinh biết chừng nào.

Trong chiến tranh và hậu chiến luôn luôn cần có các nhà lãnh đạo, các tướng lãnh quân tử. Và nhà lãnh đạo quân tử là phải biết xưng tụng các bậc anh hùng trong hàng ngũ kẻ thù, biết nâng người xuống ngựa và biết tôn trọng các tử sĩ của hàng ngũ đối nghịch.

Chúng tôi viết lại câu chuyện nội chiến Hoa Kỳ để tặng cho nhà cầm quyền Hà Nội, mấy năm trước nhân dịp ông thủ tướng Việt Nam đến Hoa Kỳ. Ông có thể nhận được viện trợ của Mỹ từ Bill Gate ở Seattle, của George Bush ở White House nhưng bài học để trở thành con người văn minh ông thủ tướng phải tìm ở nơi khác.

Đó là viện bảo tàng đầu hàng và khu nghĩa trang phe bại trận miền Nam tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Nước Mỹ ngày nay còn hùng mạnh bởi vì biết tôn trọng giá trị của phe đối nghịch.

Sống làm người dù ở hoàn cảnh nào, cũng không bao giờ muộn để học làm người quân tử. Về phần chúng ta trong những mối đau thương của những người bại trận, niềm đau thương nhất là ta đã bị đánh bại bởi những người không có khả năng quản trị đất nước, và thiếu bản chất quân tử.

Nhưng ta vẫn còn có thể sẽ đem xuống nấm mồ những ước mơ lạc quan. Trăm năm sau vào một ngày nào đó, các anh hùng của miền Nam sẽ được thế hệ con cháu Việt Nam cải táng vào nghĩa trang Quân Đội tại Biên Hòa. Con cháu người di dân có thể đem hài cốt chiến sĩ VNCH ở bốn phương trời về yên nghỉ với chiến hữu ở quê nhà. Các du khách gốc Việt sẽ xuống thăm Cần Thơ, dinh tư lệnh, quân đoàn 4 của ông Nguyễn Khoa Nam ngày xưa đã trở thành bảo tàng viện của miền Nam. Du khách sẽ đứng trên cái ban công mà tướng Nam đã đứng lần cuối vào sáng 1 tháng 5-1975, nhìn ra đại lộ Hòa Bình. Người hướng dẫn sẽ chỉ cho khách du lịch nơi ông tướng đã tự vẫn. Trong ngôi nhà này, người ta đã sưu tầm tất cả các vật dụng cũ của người xưa với niềm tôn kính.

Trước khi chết, tổng thống Lincoln đã nói: "Người ta có thể từ bỏ mọi thứ, nhưng không ai bỏ được lịch sử. Trước sau gì, lịch sử của bậc anh hùng sẽ phải được dựng lại ở chính nơi mà những con người vĩ đại đã ngã xuống."

Trong trận chiến tranh Nam Bắc Việt Nam, nơi một anh hùng ngã xuống là Cần Thơ. Tên người anh hùng đó là Nguyễn Khoa Nam. Ông là tướng Lee của miền Nam, ông là mặt trời tháng 4 của Việt Nam.

Lịch sử của 80 năm cách mạng của cộng sản miền Bắc Việt Nam không có ai sánh bằng. Với ba tiếng chuông thỉnh Phật và một phát súng vào đầu, Nguyễn Khoa Nam đã thể hiện cái dũng của một thánh nhân.

Trong thời kỳ nội chiến, tướng Lee của miền Nam Hoa Kỳ đã may mắn gặp được tướng Grant của miền Bắc. Người đã ngần ngại khi phải hỏi ông Lee về việc đầu hàng. Nhưng cả trăm danh tướng miền Bắc Việt Nam không có ông tướng nào đóng được vai trò của tướng Grant của Hoa Kỳ.

Cuộc chiến đã 50 năm qua, mà bây giờ những người Việt Nam chiến thắng vẫn chưa biết cách đối xử tử tế với các tử sĩ miền Nam.

Đó thật là điều bất hạnh cho Việt Nam.

Giao Chỉ - San Jose 2025

         &&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&           

Lịch sử Hoa Kỳ. Bài số 3

Ngày Lễ Lớn Tại Hoa Kỳ                                                                                               Lễ Tạ Ơn hay là Thanksgiving.


  

“Trail of Tears ” (Hành trình trong nước mắt),

Số phận Da Đỏ

2025

·         GIAO CHỈ

 Tại Hoa Kỳ có hai ngày lễ chính thức trong năm được phần lớn mọi người coi là quan trọng nhất: đó là Ngày Lễ Giáng Sinh, được gọi là Christmas hay Noel và ngày Lễ Tạ Ơn hay là Thanksgiving. Nhiều người còn gọi ngày lễ này là ngày Lễ Gà Tây, vì Gà Tây là món ăn độc đáo của ngày lễ này. Người Hoa Kỳ tuyệt đại đa số theo đạo Thiên Chúa: hoặc là Tin Lành (Protestant) – cũng còn được gọi là Phản Thệ giáo – với rất nhiều tông phái (Baptist, Presbyterian, Lutheran, Anglican, Episcopal, Pentecostal,…) hoặc Ca Tô La Mã, cho nên lễ Giáng Sinh, một ngày lễ có tính cách tôn giáo, được coi là trọng thì chẳng có gì là lạ. Ngày Lễ Tạ Ơn thì khác, không có tính cách tôn giáo, mà lại liên quan rất nhiều đến lịch sử nước Hoa Kỳ, ở một thời đại rất xa xưa, trước khi Hoa Kỳ trở thành một nước độc lập, tự chủ, trước khi nước này được gọi là Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ hay là the United States of America. Lịch sử, nhất lại là lịch sử xa xưa, phần lớn là một sự pha trộn của nhiều chuyện có thật và không có thật, của những sự Thật (Truths) và những Huyền thoại (Myths). Ngày Lễ Tạ Ơn cũng không phải là một ngoại lệ, Khi mới sang Hoa Kỳ ở cái tuổi quá nửa đời người, tôi tất nhiên chẳng biết ngày Lễ Tạ Ơn là ngày gì và tại sao lại có ngày này. Chẳng bao lâu gia đình chúng tôi đã được những người bạn thân Hoa kỳ mời đến nhà tham dự Lễ Gà Tây, chúng tôi mới biết đại khái về ngày lễ này. Các con tôi đi học ở trường cũng được các thầy cô giảng dậy rất kỹ về Ngày Lễ Tạ Ơn, đặc biệt về Ngày Lễ Tạ Ơn Đầu Tiên. Về nhà, các cháu cũng nói chuyện lại. do đó bổ túc thêm rất nhiều những điều chúng tôi được biết khi dự Lễ Gà Tây ở nhà người bạn.

Ngày Lễ Tạ Ơn Đầu Tiên truyền thống
Học trò ở trường được các thầy cô kể chuyện về Ngày Lễ Tạ Ơn Đầu Tiên như sau: “ Một thời lâu lắm rồi có những người Anh gọi là “Puritans”, dịch là những Thanh giáo đồ, là những người bị bắt buộc theo giáo phái của nhà Vua, gọi là King’s Church, nhưng họ lại chỉ muốn được tự do cầu nguyện theo truyền thống thờ phượng riêng của họ mà thôi. Những người Thanh giáo đồ này đã tìm cách rời nước Anh, và họ tìm đến một quốc gia nhỏ đầu tiên là Hòa Lan gần nước Anh. Họ đã tìm cách hòa nhập vào sinh hoạt tôn giáo của người Hòa Lan địa phương, nhưng không được, vì ngôn ngữ bất đồng và tín ngưỡng có khác. Thế là một lần nữa, những người theo Thanh Giáo lại lên đường tìm về miền đất mới, đó là Châu Mỹ xa xôi. Họ được gọi là những người “Pilgrims”, hay là những người Di Dân Hành Hương. Tại xứ sở này, họ có được sự tự do tôn giáo, con cháu họ được nói tiếng Anh.

Năm 1620, năm đánh dấu 102 người Di Dân Hành Hương đầu tiên đi tìm đất mới rời Hòa Lan và tàu cuả họ đã cập bến Mayflower tại Massachusetts, thời tiết khắc nghiệt với những cơn mưa và khí hậu lạnh lẽo, nhiều người đã nhiễm bệnh nên con tàu không thể tiếp tục lênh đênh trên biển. MayFlower là một hải cảng nhỏ cuả tiểu bang Massachusetts, nơi dừng chân của những người Di Dân Hành Hương kiệt lực vì sóng gió và khí hậu khắc nghiệt, họ bắt đầu cuộc đời mới tại một thành phồ nhỏ mang tên là Plymouth. Nhưng mùa đông năm đó, khí hậu nơi này cũng vô cùng khắc nghiệt, nhiều người đã chết, họ sống lay lắt bằng ít lương thực thật nhỏ nhoi, cầm cự mãi nếu không có sự giúp đỡ cuả những người địa phương, đó là những người Da Đỏ, mà hồi đó người thám hiểm Âu châu cứ nghĩ đó là những người Ấn Độ cho nên gọi họ là Indians. Những người dân địa phương tốt bụng này đã hướng dẫn cho họ hòa nhập vào đời sống mới, dạy cho họ cách trồng trọt và bắt cá để làm thức ăn, chỉ cho họ cách trồng bắp, một loại ngũ cốc dễ ăn và đễ cất giữ để làm lương thực trong đời sống hằng ngày.

Bắt đầu từ đấy, người di dân xây được nhà thờ của họ, xây dựng nhà cửa, và họ đã rất hạnh phúc khi có một đời sống no ấm trong một xứ sở tự do.

Tháng 11 năm 1620 là ngày lễ Tạ Ơn đầu tiên được hình thành cho cộng đồng người da đỏ bản xứ và người di dân đến từ nước Anh. Họ tổ chức một buổi tiệc Tạ Ơn để người Di Dân Hành Hương có dịp bày tỏ lòng tri ơn cuả họ, cảm ơn Thượng Đế đã cho họ được gặp những người địa phương đầy lòng từ tâm, đã giúp họ một cuộc sống mới nơi mà họ đã phải đánh đổi bao nhiêu gian nan để tìm kiếm”. Đó là câu chuyện phần lớn người Hoa Kỳ được biết về Ngày Lễ Tạ Ơn, vì ngay từ nhỏ họ đã được giảng dậy như vậy.

Ngày Lễ Tạ Ơn Đầu Tiên thực sự
Tuy nhiên có một số người Hoa Kỳ không nghĩ là câu chuyện xảy ra đã lại giản dị và hoàn toàn tốt đẹp như vậy. Họ là hậu duệ của những người Da Đỏ. Một trong những người này là ông Chuck Larsen. Ông là con cháu người Da Đỏ khi xưa. Trong huyết quản của ông, một người lai căng, có có dòng máu Pháp Quebecois, dòng máu thổ dân Da Đỏ Ojibwa, và thổ dân Iroquois. Ông cũng là một nhà giáo dạy Tiểu học. Ông cũng đã từng nghiên cứu Sử học, viết sách về lịch sử nước Hoa Kỳ và người thổ dân Da Đỏ cũng như về người Hoa Kỳ gốc Da Đỏ. Đối với ông, mỗi lần đến Mùa Tạ Ơn, ông bị rất nhiều khó khăn, không biết phải làm thế nào.

Năm 1986, ông viết: “Là một người Da Đỏ, mà cũng là một giáo viên đã dậy học 12 năm, Mùa Lễ Tạ Ơn không bao giờ là một ngày lễ dễ xử cho tôi khi phải dậy các em. Đôi khi tôi cảm thấy tôi đã biết quá nhiều về người “Anh Di Dân Hành Hương, (Pilgrims) và người Da Đỏ”. Cứ mỗi năm tôi lại phải đối diện với sự mâu thuẫn: một bên là lương tâm nghề nghiệp, một bên là lòng chân thành đạo đức. Tôi làm thế nào để có thể vừa là một người lương thiện thẳng thắn vừa là một nhà giáo cho biết thông tin đầy đủ cho các em học trò lớp tôi dậy, nhân ngày Lễ Tạ Ơn, mà không bị vướng vào những sự bóp méo lịch sử và cách diễn tả con người rập theo một mẫu sẵn.”
Theo cô Susan Bates, cũng là hậu duệ của người Da Đỏ thì chuyện Ngày Lễ Tạ Ơn trong đó những người Di Dân Hành Hương Pilgrims và người Da Đỏ vui vẻ cùng nhau ngồi ăn chung một bữa tiệc lớn là một chuyện có xẩy ra thật, nhưng chỉ xảy ra có một lần. Chuyện Lễ Tạ Ơn đã thực sự xảy ra rắc rối và bi thảm hơn nhiều.

Cô viết trong trang The Real Story of Thanksgiving (Chuyện Lễ Tạ Ơn đích thực) như sau:

“Chuyện này bắt đầu xảy ra năm 1614 khi một nhóm những người thám hiểm người Anh đi thuyền về Anh chở theo rất đông người Da Đỏ bộ tộc Patuxent mang về để làm nô lệ. Bọn họ ra về nhưng để lại bệnh đậu mùa, một căn bệnh hầu như đã giết chết hết những người Da Đỏ đã chạy thoát. Khi người Di Dân Hành Hương Pilgrims đến eo biển Massachusetts, họ chỉ còn thấy một người Da Đỏ bộ tộc Patuxet còn sống.Người này tên là Squanto, từng thoát khỏi bị làm nô lệ bên Anh, mà cũng biết tiếng Anh. Squanto dậy cho người Di Dân Hành Hương (Pilgrims) cách trồng ngô, cách đánh cá. Anh ta còn điều đình được một cuộc hòa giải giữa người Di Dân Hành Hương (Pilgrims) với bộ tộc Da Đỏ Wampanoag. Một năm sau, (năm 1620), những người Di Dân Hành Hương bèn tổ chức ra một bữa tiệc lớn để vinh danh Squanto và bộ tộc Da Đỏ Wampanoag. Đó là lễ Tạ Ơn Đầu Tiên vậy.
Khi người Anh tại chính quốc biết tin là đồng bào họ đã tìm thấy thiên đàng trên vùng đất mới, một số người Anh ngoan đạo và rất sùng tín cực đoan, bọn Thanh giáo đồ (Puritan's), bèn kéo nhau sang thật đông. Đến nơi khi họ thấy không nơi nào có rào dậu, họ bèn coi đó là đất hoang cho tất cả mọi người, Cùng với những người Anh đến trước, họ chiếm lấy đất đai, lùng bắt những thanh niên Da Đỏ để làm nô lệ và giết hết những dân

 

Da Đỏ còn lại.
Thế nhưng bộ tộc Pequot đã không đồng ý với hiệp ước hòa giải mà Squanto đã điều đình được. Họ chống đối lại người Anh. Cuộc chiến tranh Pequot đã là một cuộc chiến tranh tàn khốc nhất của người Da Đỏ từng làm.

Năm 1637, ở gần một nơi bây giờ là Groton, tiểu bang Connecticut, lối trên 700 người Da Đỏ, đàn ông, đàn bà, trẻ con thuộc bộ tộc Pequot đến hội họp để làm lễ Hội Trồng Ngô Xanh (Green Corn Festival) hằng năm, cũng là lễ Tạ Ơn của chúng ta. Trời chưa bừng sáng, dân Da Đỏ còn đang mơ màng giấc điệp thì bọn lính đánh thuê người Anh và người Hòa Lan tiến vào bắt họ phải ra ngoài. Người Da Đỏ nào đi ra thì bị bắn chết hay đập chết, trong khi những đàn bà trẻ con Do Đỏ chạy trốn trong lều thì bị thiêu sống.

Ngày hôm sau, ông Thống đốc thuộc địa eo biển Massachusetts tuyên bố ngày hôm đó là Ngày Tạ Ơn, vì 700 người Da Đỏ không khí giới, đàn ông, đàn bà, trẻ con đã bị tàn sát. Say men “chiến thắng”, những người Anh đi kiếm thuộc địa và những người Da Đỏ về hùa theo họ đã tấn công các làng Da Đỏ, làng này sang làng khác. Đàn bà và trẻ con trên 14 tuổi được bắt đem đi bán làm nô lệ, trong khi tất cả những người còn lại thì bị giết chết.

Từng chuyến thuyền chở tới 500 nô lệ Da Đỏ đều đều rời hải cảng vùng New England. Người ta còn trả tiền cho những da đầu lột từ người Da Đỏ, hầu khuyến khích việc tàn sát. Sau khi cuộc tàn sát những người Da Đỏ bộ lạc Pequot thành công ở vùng đất bây giờ là Stamford, Connecticut, nhà thờ (Thiên Chúa giáo) đã tổ chức một ngày Tạ Ơn thứ hai để ăn mừng chiến thắng chống bọn Da Đỏ mà người ta gọi là “bọn mọi dã man” (savages).

Trong bữa tiệc, người ta đã chặt đầu dân Da Đỏ đem ra đá như đá bóng vậy. Cả người Da Đỏ bộ lạc Wampanoag trước vẫn tỏ ra thân thiện với người Anh cũng chịu chung số phận. Tù trưởng Wampanoag(1) cũng bị chặt đầu và cái đầu được cắm vào một cái cột ở Plymouth, Massachusetts, suốt trong 24 năm cho mọi người xem. Thế là cứ mỗi khi tàn sát song người Da Đỏ, người Di Dân Anh lại tổ chức một bữa tiệc Tạ Ơn ăn mừng. Sau cùng (năm 1789), Tổng thống George Washington đề nghị mỗi năm chỉ để ra một ngày (ngày thứ Năm 2 6 tháng 11) để làm Lễ Tạ Ơn thôi, thay vì làm lễ Tạ Ơn mỗi khi thành công trong chuyện tàn sát người Da Đỏ. Về sau ( năm 1863), Tổng thống Abraham Lincoln ký sắc lệnh tuyên bố ngày Lễ Tạ Ơn là ngày nghỉ lễ cho toàn dân, ngay cả khi trong nước đang có nội loạn. Cũng chính ngày hôm ấy, Abraham Lincoln đã ra lệnh cho quân đội tấn công bộ lạc Da Đỏ Sioux đang đói rét tại Minnesota.

                                                                                                                                       Số phận người Da Đỏ
Đó là số mạng của dân Da Đỏ khi Hoa Kỳ mới lập quốc. Sau đó thì sao? Người ta chỉ có thể nghĩ đến những cụm từ không lấy gì làm tốt đẹp như: tận diệt, diệt chủng, đồng hóa, cưỡng bách, cải đạo v.v…
Nhân vật chánh trị có gương mặt gần cận nhất cũng như là có trách nhiệm cao nhất ảnh hưởng đến số phận của dân Da Đỏ là tướng Andrew Jackson (1767–1845). Tướng Andrew Jackson, Tổng thống thứ 7 HK Andrew Jackson là tướng chỉ huy quân đội Hoa Kỳ từ năm 1815.
Sau đó làm Thống đốc quân sự ở Florida (1821). Ông đã làm Tổng thống thứ Bẩy của Hoa Kỳ từ năm 1829 đến năm 1837. Ông là người chủ chương duy trì “ chế độ nô l ệ ” và nhất là chính sách “ Bứng mọi Da Đỏ ” (Indian Removal). Ông nổi tiếng là rất cương quyết cho nên có hỗn danh là “Old Hickory(2)”. Có thể tạm dịch: ông Jackson là “Thiết đầu kim cương’ hay “Kim Cương bất hoại”. Ngay trước khi làm Tổng Thống, ông đã thương thuyết với nhiều bộ lạc Da Đỏ để tìm cách đưa họ đi về miền Tây là nơi mà người Anh da trắng chưa đến chiếm ngụ.

Các bộ lạc Da Đỏ đã không thống nhất trong đường lối đối xử với người Âu châu, trước hiểm họa bị cướp đất, bị tận diệt. Có bộ lạc chủ trương phải chống lại, có bộ lạc thấy cuộc chiến vô vọng vì ưu thế khí giới của người Âu Châu, và sau nhiều lần thất bại. Bởi vậy, người Hoa Kỳ, nhất là Tổng Thống Jackson, nhìn thấy nhược điểm của người Da Đỏ, đã nhất quyết đẩy mạnh chính sách “ Bứng dân Da Đỏ ” đến cùng. Năm 1830, ông Jackson đưa ra quốc hội Hoa Kỳ duyệt y đạo luật mệnh danh là “ Removal Act ”. Trong khi quốc hội Hoa kỳ tranh tranh luận về dự luật “ Removal Act ” thì chính quyền tiểu bang Georgia xáp nhập đất đai của bộ tộc Da Đỏ Cherokee vào tiểu bang, trái với những thỏa ước chính phủ trung ương Hoa Kỳ đã có trước đây với bộ tộc này.

Tổng Thống Jackson tỏ ra đồng tình đồng thuận với tiểu bang Georgia. Vấn đề được đua lên Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ. Đến khi chủ tịch Tối Cao Quan tòa TCPV John Marshall Pháp Viện Hoa kỳ, ông John Marshall, phán quyết rằng tiểu bang Georgia đã có hành động vi hiến, và đất của người Da Đỏ phải trả lại cho họ, thì Tổng thống Jackson cũng không coi Tối Cao Pháp viện ra gì và không chịu thi hành án lệnh của viện này.

Nếu ở một thời điểm khác thì cách hành xử của Jackson có thể bị coi là lạm dụng quyền hành pháp và có thể bị truất phế. Nhưng ông vẫn tại vị. Người Da Đỏ phân vân không biết làm sao. Nội bộ bèn chia ra làm hai phe. Một phe nhất định không chịu nhượng đất. Phe kia, lãnh đạo bởi lãnh tụ Da Đỏ Major Ridge, chịu nhượng bộ mà chịu ký một thỏa thuận nhượng đất lấy 5 triệu đô la. Chính phủ của ông Jackson biết rõ thủ lãnh Major Ridge chỉ đại diện cho một số nhỏ bộ lạc Cherokee, nhưng coi việc đó như là xong. Chính phủ Hoa Kỳ từ nay có quyền lấy đất và tiến hành việc “ bứng ” dân Da Đỏ về miền Tây.

Nhiều bộ tộc Da Đỏ lần lượt bị “ Bứng ” trước bộ tộc Cherokee. Bộ tộc Choctaws bị càn quét và bứng vào năm 1831. Sau đó là bộ tộc Seminoles vào năm 1932. Bộ tộc Creeks vào năm 1632. Bộ tộc Chickasaws vào năm 1837 và sau cùng là bộ tộc Cherokees vào năm 1838.

Vì chính sách “ bứng ” người Da Đỏ được thi hành lần đầu tiên với bộ tộc Choctaws, và khi đó chính phủ Hoa Kỳ tổ chức rất luộm thuộm, không lưu tâm gì đến tình trạng an sinh của người Da Đỏ, cho nên người Da Đỏ đã bị đẩy đi trong một tình trạng rất thảm thương, gây chết chóc cho rất đông người Choctaws. Thế nhưng so với công cuộc càn quét dồn ép bộ tộc Cherokees mấy năm sau để bứng họ về Oklahoma thì không thấm tháp gì.

Bắt đầu công cuộc Bứng người Da Đỏ
Ngày 17 tháng 5, 1838, tướng Winfield Scott tới New Echota với 7000 quân, dủ mọi thành phần: binh sĩ, tự nguyện, nhà thầu tư nhân… thi hành lệnh của Tổng Thống Jackson, tập trung 13,000 người Da Đỏ Cherokees tại Cleveland, Tennessee, để khởi sự cưỡng ép họ đi đến miền Tây, bây giờ là Oklahoma. Ngay trước khi ra đi, 3,000 dân Da Đỏ đả chết vì bệnh tật, đói kém và rét lạnh trong trại tập trung. Nhà cửa đã bị đốt cháy, hoa màu đã bị tàn phá, trang trại đã bị Di Dân người Anh đến chia nhau bằng cách rút thăm. Dân Da Đỏ đã hết lối về, bắt buộc phải để người Hoa Kỳ dẫn đi. Khi mùa Đông năm 1838 bắt đầu, tướng Scott khởi sự di chuyển những người Da Đỏ về miền Tây, trong một cuộc hành trình dài cả ngàn cây số. Đây là một cuộc hành trình vô tiền khoáng hậu của 13,000 dân Da Đỏ thuộc Hành trình cả ngàn cây số trong sương tuyết Cherokee và với một số bộ tộc khác còn lại, đã bi cưỡng ép đi bộ từ miền Tennessee đến Oklahoma, dòng dã cả năm trời vào mùa Đông trong sương tuyết. Bốn ngàn dân Da Đỏ, phần lớn là đàn bà và trẻ con đã bỏ mạng trong khi đi đường vì đói ăn, thiếu mặc, không giầy dép, bệnh hoạn không thuốc thang chưa kể đến những đốc thúc đánh đập trong khi đi đường, trong số này có Quartile, là vợ ông tù trưởng Cherokees John Ross.

Một binh sĩ tên là John Burnett đã ghi lại trong nhật ký của ông: “ Tôi đã tham dự nhiều trận chiến khi các Tiểu bang đánh nhau trước đây. Tôi đã thấy rất nhiều người bị bắn chết. Nhưng cuộc bứng dân Da Đỏ Cherokee là một điều dã man nhất tôi chưa từng thấy…. Thế hệ tương lai sẽ đọc (dòng chữ này) và tôi hy vọng là họ hiểu cho rằng những binh nhì như tôi hay như 4 người Cherokees đã bị tướng Scott bắt phải bắn chết người tù trưởng Da Đỏ và đàn con của ông ta. Chúng tôi đã phải thi hành lệnh của thượng cấp mà thôi. Chúng tôi không có lựa chọn nào khác”.
“Trail of Tears ”
Hành trình này sau được mệnh danh là “Trail of Tears ” (hành trình trong nước mắt), dịch từ tiếng của người Cherokees: “ Nana dau Tsuny “. Về miền Tây, họ được đưa đi đâu? Đây lại là một số phận thảm thương khác của người Da Đỏ được người Hoa Kỳ dành cho họ. Họ đã bị đưa vào một loại trại tập trung khác gọi là “ Reservations”.

Nói đến “Reserva tions ” người ta chỉ nghĩ đến những cụm từ khác cũng chẳng mấy tốt đẹp: thất nghiệp trường kỳ, ngồi ăn trợ cấp, cờ bạc qua ngày, uống rượu giải sầu, đánh vợ đuổi con, bất lực và thất vọng… Khi người Anh chưa tới, dân số dân Da Đỏ ước khoảng 12 triệu người. Ngày nay số này đã chỉ còn khoảng 1.5 triệu ***

 Tuyên Ngôn Độc Lập và Dân Quyền
Dưới thời Tổng Thống Andrew Jackson Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, mới thành lập khoảng 50 năm trước thôi, trên căn bản của bản Tuyên Ngôn Độc Lập, tuyên bố ngày 4 tháng 7 năm 1776, nói rằng: “Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc (3) ” Người Hoa Kỳ đã quên đi bản Tuyên Ngôn cao quý và tốt đẹp đó, mà thản nhiên khép lại trang sử cuối cùng của một dân tộc ngây thơ, khờ dại, muốn giúp đỡ kẻ khốn cùng, mà chẳng may đã phải đối diện chung sống với một dân tộc khác, từ xa đến, dũng mãnh hơn, khôn ngoan hơn, giỏi dang hơn, nhưng nhiều kỳ thị, nhiều hiếu chiến và nhất là rất tham lam, trên một mảnh đất rộng mênh mông bao la. Mảnh đất này đáng lẽ có thể cho biết bao con người thoả chí vẫy vùng, nhưng khốn thay, dân tộc mới đến chỉ muốn chiếm dụng lấy một mình, đẩy dân tộc địa phương đến chỗ đường cùng ***

Tạ Ơn là một việc làm rất hay, cần có trong việc đối xử giữa con người. Hằng năm người Hoa Kỳ đều tưng bừng làm Lễ Tạ Ơn, mời mọc mọi người đến chia sẻ với mình của ngon vật lạ. Đó là một truyền thống rất đẹp của họ. Họ tạ ơn ai? Từ Tổng Thống George Washington đến Tổng Thống Lincoln xuống đến bàn dân thiên hạ, người Hoa Kỳ ngày ấy đã Tạ Ơn Trời Đất, gọi là “the Almighty God ”, tạ ơn Đức Chúa Trời, đã cho họ thêm nhiều của cải và phước lành. Chẳng mấy ai còn nghĩ đến phải Tạ Ơn những người Da Đỏ tốt bụng khi xưa nữa.

... Nếu Tạ Ơn là một truyền thống rất hay rất đẹp của người Hoa Kỳ, thì phải chăng Tạ Lỗi và Sám Hối cũng là một truyền thống rất hay, rất đẹp nên theo?

Tổng thống Hoa Kỳ thời Barack Obama, một vị Tổng thống được nhiều người coi là có tính tình nhân hậu, ngày 15 tháng 6, 2009 đã mời một số lãnh tụ các bộ tộc Da Đỏ vào tòa Bạch Ốc để ông nói chuyện. Trong buổi nói chuyện ông đã tỏ ý quyết tâm đổi ngược lại đường lối của chính phủ liên bang cũ, đã quên và coi thường các bộ lạc Da Đỏ. Ông cũng nói là ông rất hiểu rằng những vị đại diện Da Đỏ đến đây hôm nay đã phải “ có một lòng tin tưởng vượt bực ” khi họ nghĩ tới những sự dối trá không tuân thủ những hiệp ước đã ký kết với các bộ lạc Da Đỏ trước đây của chính phủ Hoa Kỳ. Tổng thống Obama đã biết rằng trong nhiều trại tập trung “ Indian Reservations ” tình trạng nghèo đói rất thê thảm. 80 phần trăn dân Do Đỏ không có công ăn việc làm. Bởi vậy ông thấy ông phải làm một điều gì của một người có lương tâm.

Trong chính phủ Obama đã có hai vị gốc Da Đỏ tham gia chánh quyền. Một là cô Kimberly Teehee, thuộc bộ lạc Cherokees. Cô Teehee, tiến sĩ Luật khoa Đại học Iowa, hiện là cố vấn trưởng trong ủy ban quốc gia về người Mỹ gốc Da Đỏ. Hai là bác sĩ Yvette Robideaux, 46 tuổi, trước làm giáo sư Đại Học Arizona, nay làm giám đốc Da Đỏ Y Tế Sự Vụ, trong Bộ Y Tế và An Sinh Quốc Gia. Bác sĩ Robideaux là thành viên của bộ tộc Da Đỏ Rosebud Sioux. Âu cũng là niềm an ủi cho một dân tộc xấu số.
 

Giao Chi San Jose.   giaochi12@gmail.com  (408) 316 8393