Saturday, July 5, 2025

Nhân ngày 4 thang 7-2025 đọc lại sử Hoa Kỳ

 

Trong nửa thế kỷ vừa qua, chúng tôi đã đọc và viết về thời sự Hoa Kỳ nhưng chưa bao giờ ghi nhận được các tin tức như hiện nay. Nhân dịp quốc lễ năm 2025 xin gửi đến quý độc giả thân hữu 3 bài lịch sử Mỹ để suy luận. 1) Bài về Lễ Độc lập Hoa Kỳ, 2) Cuộc nội chiến giải phóng nô lệ da đen và 3) Bài về Lễ Tạ Ơn oan khiên của dân da đỏ.  

                                                      Xin luận cổ suy kim. Hoa Kỳ ngày nay đang có nội chiến chính trị giữa Dân chủ và Cộng hòa. Bệnh kỳ thị chủng tộc chia rẽ cả nước vì ngày nay dân số da trắng chỉ còn một nửa. Ông vua Hoa Kỳ trở thành nhà độc tài phản dân chủ nhưng vẫn được một nửa nước hoan nghênh. Ông chủ trương đóng cửa thiên đường và chỉ nhận thêm da trắng. Đó là lý do chúng ta cần đọc lại lịch sử Mỹ để nhận diện thực sự tình hình chính trị hiện nay. Sắc dân thành công nhất trong các chính khách tại Mỹ là người gốc Nhật. Ông dân biểu Honda và ông bộ trưởng giao thông đều nói rằng làm gì thì làm nhưng luôn luôn phải biết mình là ai. Phần chúng ta đều là người Việt Nam, da vàng…

Lịch sử Hoa Kỳ. Bài số 1



 Lễ Độc Lập Hoa Kỳ và Di dân Việt Nam  
Giao Chỉ, San Jose tháng 7-2025
4 tháng 7 hàng năm, ngày quốc lễ Hoa Kỳ 
Bài này đã viết lần đầu vào cuối thập niên 80, sau đó cứ khoảng 5 năm được nhật tu và sửa chữa. Sống ở Mỹ, mỗi ngày học thêm được bài học công dân và tự điều chỉnh việc suy tư. Năm nay nhân dịp 50 năm định cư tại Hoa Kỳ, đất nước trẻ trung đã già 250 tuổi, tác giả xin cập nhật thêm một lần cùng với những vấn nạn dân sinh tại Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ thứ 21. Trải qua 50 năm, di dân Việt nhập cư vào Mỹ đã cùng chia xẻ những đề tài xã hội trên quê hương mới bao gồm các lãnh vực sau đây:Trợ cấp xã hội, bảo hiểm y tế, chuyện đồng tính, chuyện phá thai, chuyện súng đạn, chuyện kỳ thị, chuyện nhập cư...và sau cùng là việc đương đầu với biết bao nhiêu khó khăn đối ngoại để bảo vệ an ninh cho đất nước và giữ mãi vai trò lãnh đạo thế giới. Dân Việt bắt đầu từ di tản đến ty nạn cộng sản và sau cùng trở thành các di dân chính thức xây dựng cuộc sống tại Hoa Kỳ, chúng ta đã hưởng phúc lợi và chia sẻ khó khăn của đất nước này, xin một lần nhắc lại trang sử lập quốc của quê hương tạm dung nay đã trở thành vĩnh viễn.

Ngày quốc lễ

       Ngày 4 tháng 7 hàng năm là ngày lễ trọng đại nhất của Hoa Kỳ. Đó là ngày Mỹ quốc Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 và bắt đầu chiến tranh cách mạng chống lại Anh quốc trong 6 năm. Đến 1782 Anh và Mỹ ký thỏa ước ở Paris và công nhận Hoa Kỳ độc lập. Người Mỹ đã chiến thắng trận chiến tranh đầu tiên của lịch sử Hiệp Chủng Quốc.

       Là công dân gốc Việt trong đợt di dân cuối cùng của thế kỷ 20, chúng ta nên tìm hiểu về đất nước mà chúng ta lập nghiệp. Dân tỵ nạn Việt Nam đầu tiên đến Mỹ đã được dự ngày kỷ niệm 200 năm lập quốc vào năm 1976. Đến bây giờ nước Mỹ đã già thêm 50 năm nhưng lịch sử trẻ trung của Hiệp Chủng Quốc vẫn phong phú và cũng rất độc đáo. Hoa Kỳ là quốc gia bao gồm tất cả các sắc dân, các ngôn ngữ, các tập tục văn hóa. Nước Mỹ đã có các kỷ niệm vừa hung bạo vừa nhân từ. Tiêu diệt da đỏ, bắt da đen làm nô lệ, kỳ thị da vàng, đem quân đi làm cảnh sát trên thế giới, đi đến đâu là gây sóng gió ở đó. Hoa Kỳ cũng là quốc gia phát huy tự do dân chủ toàn cầu, viện trợ kinh tế, quân sự, giáo dục, xã hội, văn hóa cho toàn thể các quốc gia chậm tiến trên thế giới. Đặc biệt nhất là vai trò lâu dài của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam đã trở thành một vết thương cay đắng trong thế kỷ 20, nhưng qua thế kỷ 21 Mỹ quốc lại trở thành niềm hy vọng đồng minh giữa cơn sóng gió biển Đông.

       Biên cương của Hoa Kỳ trên địa cầu là một vùng đất bao la tiếp giáp với hai đại dương Thái Bình Dương và Đại Tây Dương. Tiểu bang Alaska của Hoa Kỳ là ải địa cầu trấn giữ Bắc Băng Dương. Biên giới không gian của Hoa Kỳ lên đến mặt trăng và Mỹ quốc cũng đã đặt cọc trên đất trên hỏa tinh. Hai ngàn vệ tinh kinh tế thương mại và quân sự của Hoa Kỳ canh gác toàn vùng khí quyển của quả đất. Đế quốc nhân văn của Hiệp Chủng Quốc thống trị thế giới bằng các tòa đại sứ và lãnh sự luôn luôn tấp nập các khách hàng xin visa.

       Cơ sở ngoại vi của các đại sứ quán Hoa Kỳ là những chỗ bán thức ăn Fast Food McDonald, Coke, nhạc Rock và quần Jeans. Mỹ phát thực phẩm cho dân nghèo toàn thế giới nhưng đi đến đâu cũng bị đuổi về nhà: Yankee go home.

       Đó là hình ảnh Hoa Kỳ ngày nay, sau 250 năm lập quốc. Đất nước mà chúng ta đang là công dân có đứng lên tuyên thệ bảo vệ và tuyệt đối trung thành.Vì vậy chúng ta cũng nên biết qua lịch sử của quê hương mà phần đông chúng ta sẽ cùng các thế hệ tiếp theo ở lại đời đời.

       Ai là người đầu tiên trên đất Mỹ?

       Các nhà nhân chủng học cho biết 12 ngàn năm trước lục địa còn dính liền cuối thời băng giá. Á châu và Mỹ châu nối tiếp ở phía Bắc. Con người tiền sử Á Châu đi tìm đường sống đã đi từ Á qua Mỹ. Sau đó quả đất chuyển đổi, hai lục địa tách xa nhau. Người Á châu tiền sử trở thành thủy tổ của các bộ lạc ở Bắc Mỹ. Tuy nhiên, thực ra đây cũng chỉ một là giả thuyết.

       Thực tế ghi nhận nhiều nền văn minh đã được kiến tạo, nhiều bộ lạc đã tàn lụi. Sau cùng chỉ còn các bộ lạc da đỏ tồn tại cho đến thời kỳ 1500 các sắc dân Tây phương mới đến Mỹ bằng đường biển. Nổi danh nhất là nhà hàng hải Colombo năm 1492 đi tìm Á châu nhưng tình cờ khám phá ra Mỹ châu. Rồi tiếp theo là Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh Cát Lợi, Pháp, Đức rồi đến Nga và các quốc gia Đông Âu tìm đến châu Mỹ.

       Các cuộc chiến đẫm máu, triền miên ở tân lục địa giữa người địa phương và dân giang hồ mới đến. Chiến tranh giữa các thế lực Tây phương. Sau cùng Anh quốc ổn định được phần lớn miền Đông Hoa Kỳ và các di dân Âu châu bắt đầu lên đường. Con tàu Hoa Tháng Năm, Mayflower nổi tiếng đến Mỹ năm 1620 vỏn vẹn có 100 người mà một nửa là thủy thủ đoàn đã trở thành biểu tượng của cuộc định cư trên đất mới vì có đem theo gia đình.

       Năm 1621 di dân được mùa đã cùng tổ chức Lễ Tạ Ơn và ăn mừng với dân da đỏ trong một lễ Thanksgiving đầu tiên của nhân loại.

       Nhưng rồi những ngày vui qua mau. Thổ dân tại Mỹ chết dần vì bị giết, bị đói, bị bệnh, có thể do các mầm bệnh từ tây phương đem đến.
       Trong khi đó từ 1620 đến 1732 tức là hơn 100 năm. Một nước Mỹ thuộc Anh đã hình thành với 13 tiểu bang liên hiệp ở miền Đông. Phần lớn làm nghề nông, trồng thuốc lá, trà, và lúa. Các vùng khác thuộc Tây Ban Nha, Pháp vẫn còn tranh chấp.

       Cuộc chiến 1754 giữa Pháp và Anh giành đất trong 7 năm, sau cùng Anh thắng và mở rộng biên cương thuộc địa.

       Tiếp theo nước Anh cần tiền cho mẫu quốc nên đánh thuế các thuộc địa, thu tiền các nhà sản xuất và các đồn điền tại Hoa Kỳ. Chính sách thuế của Anh ban hành năm 1774 trở thành mầm mống cho cuộc chiến dành độc lập tại Hoa Kỳ. Tướng Washington nhận trách nhiệm lãnh đạo cuộc chiến tranh cách mạng vào năm 1775 và chính thức đứng ra tuyên bố độc lập 1776. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập do Thomas Jefferson đại diện tiểu bang Virginia viết ra lúc ông 33 tuổi được coi là một áng văn tuyệt tác nhất của nhân loại và mở đầu cuộc chiến dành độc lập cho đến chiến thắng cuối cùng bằng hiệp định Paris 1782.

       Sau chiến thắng, Hoa Kỳ có 5 năm xây dựng dân chủ từ 1782 đến 1787 để hiến pháp ra đời với 9 tiểu bang chính thức rồi đến 13 tiểu bang thỏa hiệp. Những lá cờ Mỹ đầu tiên có 9 ngôi sao rồi 13 ngôi sao và bây giờ là 50 ngôi sao.

       Suốt từ buổi bình minh của Hiệp Chủng Quốc cho đến nay, nước Mỹ đã trải qua biết bao nhiêu là biến động.

       Từ hơn 4 triệu dân vào năm 1800 trở thành trên 300 triệu vào năm 2025. Trên giấy tờ có 239 năm lập quốc nhưng thực sự quốc gia này đã nảy mầm từ trên 300 năm.

       Ý nghĩa Hiệp Chủng Quốc.

       Phải chăng Hoa Kỳ là một đĩa rau trộn gồm đủ mọi sắc thái nhưng tía tô vẫn là tía tô, rau giấp cá vẫn nồng nàn mùi tanh của biển mặn. Hay đây là nồi cháo mà mọi thứ thực phẩm đã được hòa tan thành một hương vị mới. Cái đó còn tùy hoàn cảnh, địa phương và thời gian.
       Nước Mỹ đã trải qua các giai đoạn hành động tàn nhẫn với các sắc dân thiểu số. Vào thế kỷ thứ 19, da trắng buộc dân da đỏ phải di cư tập trung vào các khu vực ấn định. Thảm kịch diễn ra trên các con đường mòn được gọi là: Đường mòn nước mắt.

Da đỏ già trẻ lớn bé đều phải ra đi, bỏ nhà cửa, vườn trại để vào các khu đồng khô cỏ cháy xa cách vạn dặm. Hàng chục ngàn người đã chết.

Trong khi đó ở miền Nam Hoa Kỳ, dân da đen bị bắt làm nô lệ đem từ Phi châu qua đã trở thành một lực lượng lao động quan trọng. Những bàn tay đen đủi đã xây dựng nên nền nông nghiệp miền Nam nuôi cả nước Mỹ vào thời kỳ lập quốc với những vườn bông vải trắng xóa cả chân trời. Nhưng cũng chính da đen là vấn nạn cho cuộc chiến tranh tương tàn Nam Bắc. Những người da đen bỏ trốn các nông trại đã bị đánh roi cho đến chết. Câu chuyện Uncle Tom với bài ca da đen lừng danh: Let my people go, Hãy cho dân tôi đi, trích dẫn từ Thánh Kinh đã trở thành một vết thương trong lương tâm Hoa Kỳ.

       Da đỏ xin ở lại thì bị đuổi đi. Da đen xin đi thì bị giữ lại. Ngay khi nội chiến chấm dứt, da đen được giải phóng mà vẫn còn bị kỳ thị.

       Cuộc chiến đấu vĩ đại của một đàn bà da đen năm 1955 không chịu ngồi phía sau xe bus đã trở thành một cuộc tổng đình công vĩ đại tẩy chay xe bus tại Hoa Kỳ. Từ cuộc đình công này, da đen có được một nhà lãnh đạo đầy huyền thoại là mục sư King mà tên tuổi trở thành một ngày quốc lễ.

       Rồi đến lịch sử Tây tiến làm đường xe lửa đem da vàng Nhật Bản và Trung Hoa nhập cuộc. Các tiền nhân di dân châu Á cũng đã ngậm đắng nuốt cay ở miền Tây Hoa Kỳ trong suốt thời lịch sử cận đại.

       `Sau cùng đến lượt chúng ta. Việt Nam ngày nay có một triệu tám trăm ngàn người tại Hoa Kỳ. Sau đợt di tản 75 tiếp đến là thuyền nhân từ 75 đến 95 rồi là các HO, ODP, con lai nhập cư cho đến cuối thế kỷ thứ 20. Qua thế kỷ 21 hồ sơ đoàn tụ tiếp tục với các gia đình trên 10 năm chờ đợi cùng với các diện hôn nhân gặp gỡ vội vàng. Mười quận hạt có dân số đông đảo nhất là Orange, Santa Clara, Los Angeles, Houston, San Diego, Seattle, Oakland, DC, Dallas và Fort Worth (Texas).

       Chúng ta không phải là sắc dân cuối cùng, và chúng ta không phải là sắc dân duy nhất có quê hương cố quốc. Di dân tỵ nạn Việt Nam tùy theo hoàn cảnh và cảm nghĩ, có người mang theo quê hương, có người bỏ lại quê hương. Tuy nhiên chúng ta không thể hành xử khác tập thể di dân trong trách nhiệm xây dựng đất mới.

       Sắc dân nào cũng có những niềm tự hào của họ. Ai cũng có các hãnh diện về truyền thống văn hóa, ngôn ngữ cội nguồn. Điều quan trọng là phong cách đối xử và tìm hiểu để hội nhập. Chúng ta phải cảm ơn những người đi trước đã mở đường. Kể cả người xấu lẫn người tốt đã sống và đã qua đi trong công cuộc chinh phục đất nước vĩ đại này.

       Một lần nữa, đợt người Việt đầu tiên ở Mỹ sẽ là những cây tràm, cây đước giữ chặt đất cho một cộng đồng tương lai phát triển. Con cháu chúng ta sẽ vừa nhớ ơn ông cha đã đến đất này mà cũng không hổ thẹn về những đóng góp của chúng ta trong những giai đoạn đầu tiên. Bỏ lại phía sau con sông Hồng, sông Hương, sông Cửu Long và dãy Trường Sơn. Bây giờ ta phải làm quen với con sông Sacramento và rặng Rocky Mountain để con cháu ta đứng lên đáp lời sông núi mới.

       Xin hãy công bình với hoàn cảnh. Hãy lưu tâm ngày 4 tháng 7 của Hoa Kỳ. Bước ra khỏi cái Ghetto của cộng đồng nhỏ hẹp, tham dự vào cái xã hội vĩ đại đã đem phúc lợi cho chúng ta. Đó là cách hay nhất để xây dựng cùng một lúc cộng đồng tại Mỹ và quê hương bỏ lại ở Việt Nam. Bao gồm cả giấc mơ tự do và dân chủ.

                                                       Giao Chỉ, San Jose  

Hãy đặt mua tuyển tập Giao Chi San Jose.                  

1) Đi không ai tìm xác rơi.                                              

2) 30 tháng 4, lúc đó bác ở đâu?

3) Hoa Kỳ, kỳ hoa dị thảo.                              giaochi12@gmail.com  (408) 316 8393
       Một cuốn $10 Mua sách ghi IRCC 3017 Oakbridge Dr. San Jose CA 95121
Lịch sử ngàn người viết, tác giả ghi chép lại, giữ sách là giữ lửa cho mai sau.

&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&

Lịch sử Hoa Kỳ. Bài số 2



   Bài Học Từ Cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ                                          và chiến tranh Việt Nam.

 ·         Giao Chỉ San Jose

Cuộc chiến Nam Bắc Hoa kỳ chấm dứt 9 tháng 4-1865.
Cuộc chiến Nam Bắc Việt Nam chấm dứt 30 tháng 4-1975.


Trong chiến tranh, các nhà lãnh đạo hai bên đều đã từng quen biết nhau, bắt tay nhau trong hội nghị và đôi khi dạ tiệc bên nhau.Thật mỉa mai, trên chiến trường chiến binh đối nghịch tàn sát nhau, dù không quen biết và không ân oán cá nhân.Vì vậy, sau cuộc chiến mà còn thù hận là vô nghĩa.Thế giới văn minh có luật lệ đối xử với hàng binh, bảo vệ di hài và nghĩa trang của cả hai bên, và tất cả đều có nghĩa vụ phải giúp đỡ vô điều kiện cho người tình nguyện đi tìm để mai táng di hài của chiến sĩ.Nghĩa tử, nghĩa tận là phương châm của cả nhân loại…Từ suy tư đó, tôi viết chuyện này cho các bạn…
Người tỵ nạn Việt Nam đến Hoa Kỳ đi thăm miền Nam tiểu bang Virginia, tìm hiểu về cuộc nội chiến hơn 200 năm trước đã thấy một vài thời điểm tương đồng với chuyện quê hương. Tháng 4 của Hoa Kỳ cũng là một ngày tháng đáng lưu ý của lịch sử Việt Nam. Cuộc nội chiến Nam Bắc Hoa Kỳ bắt đầu vào ngày 12 tháng 4-1861. Bốn năm sau vào ngày 9 tháng 4-1865, tướng Lee của miền Nam đầu hàng tướng Grant của miền Bắc. Ghé thăm nghĩa trang quốc gia tại quận Arlington VA lại nhớ đến nghĩa trang Biên Hòa VN…Bây giờ là tháng tư, năm 2025. Nhớ đến tháng tư Việt Nam 50 năm về trước…

Nội chiến Hoa Kỳ
Cuộc chiến tranh với hàng trăm trận đánh tại miền Đông Hoa Kỳ trong 4 năm đã làm cho quân hai bên chết 620 ngàn và hàng triệu người bị thương tích. Miền Bắc thắng trận, thống nhất đất nước, giải phóng nô lệ và hy sinh thêm vị anh hùng Mỹ quốc. Đó là tổng thống Lincoln.

Trong trận đánh cuối cùng, quân miền Bắc chiếm được Richmond là thủ đô của miền Nam vào ngày 2 tháng 4-1865. Hai ngày sau tổng thống Lincoln của Hoa Thịnh Đốn đến thị sát Richmond, bước vào dinh tổng thống miền Nam đã bỏ chạy. Tiếp theo là tướng Lee đầu hàng ngày 9 tháng 4 và vào ngày 15 tháng 4-1865, tổng thống Lincoln bị ám sát chết.

Vị tổng thống thứ 16 trở thành vĩ nhân thống nhất đất nước và giải phóng nô lệ nhưng chỉ vui với chiến thắng chưa được một tuần lễ.

Đa số thính giả và độc giả của Dân Sinh Media tại San Jose cả báo lẫn đài, dù đã mang quốc tịch Mỹ nhưng vẫn nhớ về quốc tổ, về Trưng Vương và các anh hùng dân tộc Việt Nam. Có lẽ sau 50 năm tỵ nạn, di dân Lạc Hồng tại Hoa Kỳ mang quốc tịch Mỹ, chúng ta cũng cần biết thêm chút lịch sử của Hiệp Chủng Quốc với các dữ kiện căn bản của chương trình trung học.

Số là sau chiến tranh dành độc lập, Mỹ thắng Anh trở thành Hoa Kỳ với tổng thống Washington thì tiếp theo đến trận nội chiến chia đôi Nam Bắc là một vết thương đau đớn nhất.

Vào thời kỳ đó, nước Mỹ gồm các tiểu bang Đông Bắc có thủ đô Hoa Thịnh Đốn chủ trương giải phóng nô lệ. Tổng thống Hoa Kỳ là luật sư Lincoln tuyên bố quốc gia không thể có hai luật, một nửa có nô lệ, một nửa không.

Quân chính phủ miền Bắc gọi là quân đội Potomac, lấy tên của dòng sông diễm lệ chạy qua thủ đô. Các tiểu bang miền Nam sống về canh nông quyết đòi giữ lại chế độ nô lệ để khai thác cho nông nghiệp. Tổng thống miền Nam là ông Davis. Thủ đô miền Nam là Richmond và quân đội do tướng Lee chỉ huy được gọi là quân đội Virginia.

Nội chiến xảy ra trong hai nhiệm kỳ của ông Lincoln từ 1861 đến 1865 với hai vị tướng chỉ huy sau cùng là tướng Ulysses S. Grant của miền Bắc và tướng Robert E. Lee của miền Nam. Tuy miền Nam với các tiểu bang ly khai cũng bầu ra một tổng thống là ông Jefferson Davis nhưng nhân vật anh hùng miền Nam là tướng Lee. Khi cuộc chiến Nam Bắc bùng nổ, nước Mỹ chia đôi. 11 tiểu bang miền Nam ly khai với 9 triệu dân và thêm 4 triệu dân nô lệ da đen. Chính phủ liên bang Hoa Kỳ còn lại 21 tiểu bang miền Bắc với 20 triệu dân.

Ông Robert Lee nguyên là tướng lãnh của quân đội Hoa Kỳ nhưng gốc người miền Nam. Ông đã từng là chỉ huy trưởng trường West Point.

Tháng 4-1861 khởi chiến Nam Bắc, tướng Lee được đề nghị chỉ huy quân đội miền Bắc nhưng ông không nhận và xin từ nhiệm để về đầu quân miền Nam tại Richmond, tiểu bang Virginia. Ông nói là không thể quay lưng với nơi ông đã sinh ra và trưởng thành.

Trong chiến tranh, ông lập được nhiều chiến công và là vị tư lệnh sau cùng của miền Nam đã quyết định đầu hàng.

Khi thủ đô Richmond của chính phủ miền Nam bị thất thủ, các sĩ quan đề nghị rút vào rừng đánh du kích nhưng tướng Lee không chấp nhận. Không một ai trong phe miền Nam phản đối hay trách cứ vị tư lệnh. Họ đã theo ông trong các chiến thắng vinh quang. Họ tiếp tục theo ông trong giây phút nhục nhã đầu hàng. Không ai biết bại binh sẽ được đối xử ra sao vì trong chiến tranh hận thù chất ngất.

Cuộc chiến tranh tương tàn đẫm máu làm tổn hại hàng triệu sinh linh Hoa Kỳ, tan nát các đô thị miền Đông và vùng Virginia. Tất cả đã thể hiện trong tác phẩm và cuốn phim bất hủ Cuốn Theo Chiều Gió mà chúng ta đã đọc cũng như coi nhiều lần suốt thời niên thiếu.

Ngay cho đến bây giờ, tác phẩm này vẫn còn là loại tài liệu được đem dạy ở trường học với sự say mê và hãnh diện của nhiều thế hệ Hoa Kỳ.

Đó là những bài học về cuộc chiến, giết người, đốt nhà, anh em một nhà, nồi da nấu thịt đã đem lại cho thế hệ nối tiếp. Chúng tôi xin duyệt lại cùng quý vị câu chuyện hậu chiến Hoa Kỳ để so sánh với bài học chiến tranh Việt Nam.
Câu chuyện đầu hàng: Trước tiên bắt đầu về câu chuyện đầu hàng. Sau chiến tranh, nước Mỹ sưu tầm và dựng lên khắp miền Đông hàng trăm viện bảo tàng. Mỗi tiểu bang ít nhất là một viện bảo tàng. Mỗi trận đánh trên trận địa xưa cũ với các di tích đều có một viện bảo tàng.

Bằng hội họa, nhiếp ảnh, dữ kiện, thêm vào âm thanh ánh sáng người ta dựng lại lịch sử các cuộc thương thuyết, các cuộc điều binh và các trận liệt. Quân hai bên Nam Bắc, quân xanh, quân xám, các tướng lãnh, sĩ quan, binh sĩ và dân chúng. Những cái chết đau thương và anh hùng của cả hai bên, những mối tình bất hủ, tràn đầy hình ảnh em hậu phương, anh tiền tuyến.

Không phải hàng trăm mà có đến hàng ngàn tác phẩm điện ảnh về chiến tranh Nam Bắc. Cả những phim vĩ đại mới ra đời trong vài năm gần đây vẫn còn hình ảnh của cuộc nội chiến ngày xưa.

Cuộc nội chiến đau thương xưa cũ đã là niềm cảm hứng cho tinh thần nhân bản xây dựng trên tro tàn của một thời nội chiến Hoa Kỳ.

Xin nhắc lại một lần nữa, bài học phải bắt đầu từ câu chuyện đầu hàng. Đúng như vậy, trong hàng trăm bảo tàng viện về Civil War của Hoa Kỳ, thì viện bảo tàng Appomattox Court House ở Virginia là nơi nổi tiếng nhất vì dựng lên ngay tại ngôi nhà tướng Lee đã đến ký văn bản đầu hàng ngày 9 tháng 4-1865.

Tại đây, câu chuyện về vị tướng phe bại trận miền Nam lại được viết ra và hình ảnh của ông lại được chiêm ngưỡng nhiều hơn cả phe thắng trận. Lịch sử ghi lại rằng vào sáng ngày 9 tháng 4 cách đây 200 năm, thủ đô miền Nam là Richmond thất thủ, kỵ binh của miền Bắc cùng với 3 quân đoàn bộ binh vây hãm quân miền Nam hết đường tháo lui.

Bộ tham mưu của tướng Lee đề nghị phân tán để giữ lực lượng đánh du kích, nhưng tướng Lee quyết định đầu hàng. Vị danh tướng của Hoa Kỳ trải qua bao nhiêu chiến thắng nhưng sau cùng vì quân số và tiếp vận bị giới hạn nên đành bất lực chấp nhận thua cuộc. Với lá thư riêng ông gửi cho tướng Grant của miền Bắc yêu cầu thu xếp buổi họp mặt.

Ông Grant nhận được thư hết sức vui mừng và bỗng nhiên thấy hết ngay cơn bệnh nhức đầu ghê gớm hành hạ ông từ nhiều ngày qua.
Vị tư lệnh miền Bắc ra lệnh nghiêm cấm các sĩ quan và binh sĩ trực thuộc không được tỏ ra bất cứ hành động nào vô lễ với ông tướng tư lệnh miền Nam bại trận.
Trưa ngày lịch sử 9 tháng 4-1865, tướng Lee và một đại tá tùy tùng cưỡi ngựa vượt qua phòng tuyến đến nơi hẹn ước. Hình ảnh ghi lại hai người đi qua đoàn quân nhạc của lính miền Bắc thổi kèn chào đón. Các sĩ quan miền Bắc đưa vị tư lệnh miền Nam vào phòng họp. Nửa giờ sau tướng Grant và đoàn tùy tùng miền Bắc đến.

Cả hai vị tư lệnh đã biết nhau trong cuộc chiến tranh với Mễ Tây Cơ. Họ đã nhắc lại một thời bên nhau trong quá khứ. Tướng Grant sau này thú nhận là ông rất ngần ngại và thực sự hổ thẹn khi phải hỏi tướng Lee nói về quyết định đầu hàng.

Theo quy luật chiến tranh thời đó, quân miền Nam phải giải giới, tước bỏ khí giới và quân dụng. Tự do trở về quê cũ như các dân thường. Tướng Lee đồng ý nhưng chỉ đòi hỏi một điều sau cùng là yêu cầu cho binh sĩ của ông được giữ lại lừa ngựa, vì lính miền Nam đem ngựa từ các nông trại của họ đi chiến đấu. Không phải ngựa của chính phủ như lính miền Bắc.

Tướng Grant thỏa hiệp là sẽ không sửa chữa chính thức trên văn bản nhưng thực tế sẽ cho lệnh để lính miền Nam đem lừa ngựa về nhà mà xây dựng lại nông trại.

Thắng vinh quang, mà bại cũng anh hùng…(Thơ Cao Tần)

Sau này khi viết về văn bản đầu hàng, lịch sử ghi rằng đây là thỏa hiệp của những người quân tử (The Gentlement Agreement). Trên các bảo tàng viện và đặc biệt là bảo tàng viên ở Appomattox Virginia có tranh sơn dầu hình tướng Lee hiên ngang quắc thước trong bộ quân phục xanh dương, tóc và râu bạc, thể hiện hình ảnh người Mỹ anh hùng không bị khuất phục dù thua trận. Toàn thể nước Mỹ hiểu rằng khi một người Mỹ bị nhục, thì dù là Mỹ miền Nam hay Mỹ miền Bắc cũng là một người Mỹ bị sỉ nhục.

Thực vậy, khi chúng tôi đi thăm viện bảo tàng đầu hàng, cô Mary quản thủ cơ sở đã nói rằng dù hình ảnh của miền Nam hay miền Bắc, lịch sử không muốn ghi lại các hình ảnh xấu xa của bất cứ phe nào.

Ở đây là nơi lưu giữ hình ảnh của các anh hùng miền Nam lẫn miền Bắc. Đặc biệt là hình ảnh của phe bại trận lại được lưu ý hơn cả phe chiến thắng. Lá cờ rách của miền Nam thua trận treo tại thủ đô Richmond bây giờ lại là bảo vật hào hùng của bảo tàng viện đầu hàng.

Và hình tướng Lee cưỡi ngựa đi đến nơi họp mặt với đoàn quân nhạc miền Bắc chào đón. Hình tướng Lee ký tên xong ra đi được sĩ quan và binh sĩ miền Bắc tiễn đưa và vẫy tay chào.

Bây giờ hình tượng của tướng Lee tràn ngập ở miền Nam Virginia. Câu lạc bộ Lee, bảo tàng viện Lee, Fort Lee xa lộ Lee và các đồn trại của quân đội liên bang mang tên vị tướng thua trận như là một biểu tượng anh hùng. Bởi vì người Mỹ đã thấm nhuần bài học rất Hoa Kỳ. Bài học của người lính dũng cảm cả hai phe trong chiến tranh và người quân tử của thời hậu chiến.

Trong cuộc nội chiến tại nước Mỹ vào thế kỷ 18, sau cùng được thua thì cũng vẫn là nước Mỹ và người Mỹ.

Lịch sử của Hoa Kỳ quá ngắn ngủi và đạo lý của người dân tứ chiếng như Hiệp Chủng Quốc thì vốn không thể nào sánh với lịch sử và truyền thống đặc biệt của người Việt Nam. Nhưng sao mà di sản tinh thần của cuộc nội chiến Việt Nam để lại không đẹp đẽ chút nào. Những chiến binh anh hùng của miền Nam phải tập trung vào các trại khổ sai. Vợ con bị xua đuổi lên rừng làm kinh tế mới. Cả miền Nam bị làm nhục.

Chuyện nghĩa trang

Đã vậy, câu chuyện vẫn chưa xong. Qua bài học thứ hai, chúng tôi xin kể thêm về vấn đề nghĩa trang và mộ phần của các liệt sĩ phe chiến bại tại Hoa Kỳ.

Tại nước Mỹ có một nghĩa trang quốc gia nổi tiếng khắp thế giới. Đó là nghĩa trang Arlington. Đây là nghĩa trang chính thức của liên bang Hoa Kỳ, của người miền Bắc trong trận chiến Bắc Nam. Thành lập tháng 5 ngày 13-1864 do bộ lục quân quản trị gồm 624 mẫu, chia làm 70 khu, dành chỗ cho 400 ngàn mộ chí. Phe miền Bắc đã mai táng các tử sĩ của liên bang tại đây.

Sau cuộc nội chiến, các tiểu bang miền Nam có hàng ngàn nghĩa trang lớn nhỏ chôn cất tử sĩ của phe bại trận và trên đó luôn luôn có lá cờ gạch chéo đã một thời tung hoành trên chiến trường.

Ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, hoàn toàn không có tù binh, không có cải tạo tập trung, ai về nhà đó, cùng xây dựng lại quê hương.

Nghĩa trang bên nào bên đó tự lo lấy, xấu đẹp tùy sức. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là ngày nay tại nghĩa trang quốc gia của phe miền Bắc ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn có một khu chôn cất tử sĩ miền Nam với tượng đài gọi là Confederate Memorial.

Cũng phải nói rằng, thực sự sau nội chiến, dư vị cay đắng giữa Nam Bắc Hoa Kỳ vẫn còn nhiều. Dễ gì mà trút bỏ hận thù ngay sau khi hai bên chết cả gần một triệu người mà một số lớn đã giết nhau khi giáp mặt bằng gươm dao. Hai phe cùng đốt nhà của nhau và cùng tàn phá đô thị và nông trại, đôi khi có cả những hành động dã man như hãm hiếp đàn bà và tàn sát trẻ em. Cuộc chiến nào mà không có những lần quá độ.

Tuy nhiên, sau chiến tranh Nam Bắc, Hoa Kỳ lại xảy ra chiến tranh với Mễ Tây Cơ nên hai miền hận thù có dịp gần nhau và hàn gắn lại mối thương đau. Tại các tiểu bang miền Nam có biết bao nhiêu là tượng đài dựng lên để vinh danh chiến sĩ phe bại trận.

Năm 1900 tức là hơn 40 năm sau cuộc chiến, quốc hội liên bang mở đầu cho giai đoạn hòa giải dân tộc và năm 1991 thì các liệt sĩ miền Nam được cải táng đưa vào một khu đặc biệt trong nghĩa trang Arlington gọi là Confederate Section. Tổng cộng gần 500 mộ phần quây tròn chung quanh một tượng đài do nhà tạc tượng danh tiếng là điêu khắc gia Moses Ezekiel thực hiện.

Trên đỉnh của chân bệ hình vòng cung như nóc tòa Quốc Hội là hình tượng cao 32 feet của một thiếu phụ tượng trưng cho miền Nam. Đây là hình ảnh bà mẹ của phe bại trận đã có con trai hy sinh cho cuộc chiến. Phía dưới là bài thơ đại ý như sau:

"Ở đây chẳng có vinh quang hay tưởng lệ.
Ở đây chẳng phải binh đoàn hay cấp bậc.
Ở đây chẳng có tham vọng hay mưu cầu.
Ở đây chỉ đơn thuần là nhiệm vụ.
Những người nằm ở đây đã hiểu rõ
là họ trải qua gian khổ, đã hy sinh
đã liều thân và sau cùng đã chết."


Đó là câu chuyện về các tử sĩ của phe thua trận tại Hoa Kỳ.

Cũng chẳng khác gì vần thơ bất hủ của Thanh Nam dành cho Nghĩa Trang Quân Đội miền Nam tại Biên Hòa.

... Ta như người lính vừa thua trận
Nằm giữa sa trường nát gió mưa
Khép mắt cố quên đời chiến sĩ
Làm thân cây cỏ gục ven bờ
Chợt nghe từ đáy hồn thương tích
Vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa...


Vậy thì câu chuyện mộ phần của phe thua trận của Việt Nam thì ra sao? Chuyện Nghĩa Trang Quân Đội VNCH tại Biên Hòa mà chúng tôi đã có dịp giãi bày.

Chúng tôi có một ông bạn làm thông dịch viên cho bộ ngoại giao Hoa Kỳ vẫn có dịp hướng dẫn cho các nhân viên cao cấp của Hà Nội đến thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Tôi vẫn thường bảo rằng ông nên dẫn khách đi thăm bảo tàng viện "Đầu hàng" và khu nghĩa trang phe thua trận ở Arlington.

Nơi đó dạy chúng ta bài học làm người văn minh.

Xem lại lịch sử, chiến cuộc Nam Bắc Hoa Kỳ trong 4 năm rất khốc liệt, máu lửa và ghê gớm vô cùng.

Trong một thời gian ngắn các trận đánh dồn dập, các đô thị bốc cháy lửa cao ngút trời. Cũng tản cư, cũng loạn lạc và chiến tranh để lại các cánh đồng toàn xác chết trong các trận giáp lá cà, đâm chém nhau mặt đối mặt. Đặc biệt vào thăm nghĩa trang Arlington có thể sẽ tìm thấy khu mai táng tập thể các tử sĩ của cả hai phe Nam Bắc nằm chết trên sa trường sau nhiều ngày không còn phân biệt được. Một đài tưởng niệm dưới hình thức một ngôi mộ vĩ đại ghi dấu cho câu chuyện nhân bản của nước Mỹ.

Nhưng rồi vết thương nào cũng phải được hàn gắn. Nước Mỹ đã có những bước ngoạn mục đầy màu sắc văn minh ngay từ khi chiến tranh chấm dứt để chấp nhận và tôn trọng người bại trận như những anh hùng. Phải chi những tướng lãnh vị quốc vong thân của Nam Việt Nam như Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai của quân đội Việt Nam Cộng Hòa mà hành xử như thế trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ thì sẽ được phe thù nghịch tại Hoa Thịnh Đốn tôn vinh biết chừng nào.

Trong chiến tranh và hậu chiến luôn luôn cần có các nhà lãnh đạo, các tướng lãnh quân tử. Và nhà lãnh đạo quân tử là phải biết xưng tụng các bậc anh hùng trong hàng ngũ kẻ thù, biết nâng người xuống ngựa và biết tôn trọng các tử sĩ của hàng ngũ đối nghịch.

Chúng tôi viết lại câu chuyện nội chiến Hoa Kỳ để tặng cho nhà cầm quyền Hà Nội, mấy năm trước nhân dịp ông thủ tướng Việt Nam đến Hoa Kỳ. Ông có thể nhận được viện trợ của Mỹ từ Bill Gate ở Seattle, của George Bush ở White House nhưng bài học để trở thành con người văn minh ông thủ tướng phải tìm ở nơi khác.

Đó là viện bảo tàng đầu hàng và khu nghĩa trang phe bại trận miền Nam tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Nước Mỹ ngày nay còn hùng mạnh bởi vì biết tôn trọng giá trị của phe đối nghịch.

Sống làm người dù ở hoàn cảnh nào, cũng không bao giờ muộn để học làm người quân tử. Về phần chúng ta trong những mối đau thương của những người bại trận, niềm đau thương nhất là ta đã bị đánh bại bởi những người không có khả năng quản trị đất nước, và thiếu bản chất quân tử.

Nhưng ta vẫn còn có thể sẽ đem xuống nấm mồ những ước mơ lạc quan. Trăm năm sau vào một ngày nào đó, các anh hùng của miền Nam sẽ được thế hệ con cháu Việt Nam cải táng vào nghĩa trang Quân Đội tại Biên Hòa. Con cháu người di dân có thể đem hài cốt chiến sĩ VNCH ở bốn phương trời về yên nghỉ với chiến hữu ở quê nhà. Các du khách gốc Việt sẽ xuống thăm Cần Thơ, dinh tư lệnh, quân đoàn 4 của ông Nguyễn Khoa Nam ngày xưa đã trở thành bảo tàng viện của miền Nam. Du khách sẽ đứng trên cái ban công mà tướng Nam đã đứng lần cuối vào sáng 1 tháng 5-1975, nhìn ra đại lộ Hòa Bình. Người hướng dẫn sẽ chỉ cho khách du lịch nơi ông tướng đã tự vẫn. Trong ngôi nhà này, người ta đã sưu tầm tất cả các vật dụng cũ của người xưa với niềm tôn kính.

Trước khi chết, tổng thống Lincoln đã nói: "Người ta có thể từ bỏ mọi thứ, nhưng không ai bỏ được lịch sử. Trước sau gì, lịch sử của bậc anh hùng sẽ phải được dựng lại ở chính nơi mà những con người vĩ đại đã ngã xuống."

Trong trận chiến tranh Nam Bắc Việt Nam, nơi một anh hùng ngã xuống là Cần Thơ. Tên người anh hùng đó là Nguyễn Khoa Nam. Ông là tướng Lee của miền Nam, ông là mặt trời tháng 4 của Việt Nam.

Lịch sử của 80 năm cách mạng của cộng sản miền Bắc Việt Nam không có ai sánh bằng. Với ba tiếng chuông thỉnh Phật và một phát súng vào đầu, Nguyễn Khoa Nam đã thể hiện cái dũng của một thánh nhân.

Trong thời kỳ nội chiến, tướng Lee của miền Nam Hoa Kỳ đã may mắn gặp được tướng Grant của miền Bắc. Người đã ngần ngại khi phải hỏi ông Lee về việc đầu hàng. Nhưng cả trăm danh tướng miền Bắc Việt Nam không có ông tướng nào đóng được vai trò của tướng Grant của Hoa Kỳ.

Cuộc chiến đã 50 năm qua, mà bây giờ những người Việt Nam chiến thắng vẫn chưa biết cách đối xử tử tế với các tử sĩ miền Nam.

Đó thật là điều bất hạnh cho Việt Nam.

Giao Chỉ - San Jose 2025

         &&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&           

Lịch sử Hoa Kỳ. Bài số 3

Ngày Lễ Lớn Tại Hoa Kỳ                                                                                               Lễ Tạ Ơn hay là Thanksgiving.


  

“Trail of Tears ” (Hành trình trong nước mắt),

Số phận Da Đỏ

2025

·         GIAO CHỈ

 Tại Hoa Kỳ có hai ngày lễ chính thức trong năm được phần lớn mọi người coi là quan trọng nhất: đó là Ngày Lễ Giáng Sinh, được gọi là Christmas hay Noel và ngày Lễ Tạ Ơn hay là Thanksgiving. Nhiều người còn gọi ngày lễ này là ngày Lễ Gà Tây, vì Gà Tây là món ăn độc đáo của ngày lễ này. Người Hoa Kỳ tuyệt đại đa số theo đạo Thiên Chúa: hoặc là Tin Lành (Protestant) – cũng còn được gọi là Phản Thệ giáo – với rất nhiều tông phái (Baptist, Presbyterian, Lutheran, Anglican, Episcopal, Pentecostal,…) hoặc Ca Tô La Mã, cho nên lễ Giáng Sinh, một ngày lễ có tính cách tôn giáo, được coi là trọng thì chẳng có gì là lạ. Ngày Lễ Tạ Ơn thì khác, không có tính cách tôn giáo, mà lại liên quan rất nhiều đến lịch sử nước Hoa Kỳ, ở một thời đại rất xa xưa, trước khi Hoa Kỳ trở thành một nước độc lập, tự chủ, trước khi nước này được gọi là Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ hay là the United States of America. Lịch sử, nhất lại là lịch sử xa xưa, phần lớn là một sự pha trộn của nhiều chuyện có thật và không có thật, của những sự Thật (Truths) và những Huyền thoại (Myths). Ngày Lễ Tạ Ơn cũng không phải là một ngoại lệ, Khi mới sang Hoa Kỳ ở cái tuổi quá nửa đời người, tôi tất nhiên chẳng biết ngày Lễ Tạ Ơn là ngày gì và tại sao lại có ngày này. Chẳng bao lâu gia đình chúng tôi đã được những người bạn thân Hoa kỳ mời đến nhà tham dự Lễ Gà Tây, chúng tôi mới biết đại khái về ngày lễ này. Các con tôi đi học ở trường cũng được các thầy cô giảng dậy rất kỹ về Ngày Lễ Tạ Ơn, đặc biệt về Ngày Lễ Tạ Ơn Đầu Tiên. Về nhà, các cháu cũng nói chuyện lại. do đó bổ túc thêm rất nhiều những điều chúng tôi được biết khi dự Lễ Gà Tây ở nhà người bạn.

Ngày Lễ Tạ Ơn Đầu Tiên truyền thống
Học trò ở trường được các thầy cô kể chuyện về Ngày Lễ Tạ Ơn Đầu Tiên như sau: “ Một thời lâu lắm rồi có những người Anh gọi là “Puritans”, dịch là những Thanh giáo đồ, là những người bị bắt buộc theo giáo phái của nhà Vua, gọi là King’s Church, nhưng họ lại chỉ muốn được tự do cầu nguyện theo truyền thống thờ phượng riêng của họ mà thôi. Những người Thanh giáo đồ này đã tìm cách rời nước Anh, và họ tìm đến một quốc gia nhỏ đầu tiên là Hòa Lan gần nước Anh. Họ đã tìm cách hòa nhập vào sinh hoạt tôn giáo của người Hòa Lan địa phương, nhưng không được, vì ngôn ngữ bất đồng và tín ngưỡng có khác. Thế là một lần nữa, những người theo Thanh Giáo lại lên đường tìm về miền đất mới, đó là Châu Mỹ xa xôi. Họ được gọi là những người “Pilgrims”, hay là những người Di Dân Hành Hương. Tại xứ sở này, họ có được sự tự do tôn giáo, con cháu họ được nói tiếng Anh.

Năm 1620, năm đánh dấu 102 người Di Dân Hành Hương đầu tiên đi tìm đất mới rời Hòa Lan và tàu cuả họ đã cập bến Mayflower tại Massachusetts, thời tiết khắc nghiệt với những cơn mưa và khí hậu lạnh lẽo, nhiều người đã nhiễm bệnh nên con tàu không thể tiếp tục lênh đênh trên biển. MayFlower là một hải cảng nhỏ cuả tiểu bang Massachusetts, nơi dừng chân của những người Di Dân Hành Hương kiệt lực vì sóng gió và khí hậu khắc nghiệt, họ bắt đầu cuộc đời mới tại một thành phồ nhỏ mang tên là Plymouth. Nhưng mùa đông năm đó, khí hậu nơi này cũng vô cùng khắc nghiệt, nhiều người đã chết, họ sống lay lắt bằng ít lương thực thật nhỏ nhoi, cầm cự mãi nếu không có sự giúp đỡ cuả những người địa phương, đó là những người Da Đỏ, mà hồi đó người thám hiểm Âu châu cứ nghĩ đó là những người Ấn Độ cho nên gọi họ là Indians. Những người dân địa phương tốt bụng này đã hướng dẫn cho họ hòa nhập vào đời sống mới, dạy cho họ cách trồng trọt và bắt cá để làm thức ăn, chỉ cho họ cách trồng bắp, một loại ngũ cốc dễ ăn và đễ cất giữ để làm lương thực trong đời sống hằng ngày.

Bắt đầu từ đấy, người di dân xây được nhà thờ của họ, xây dựng nhà cửa, và họ đã rất hạnh phúc khi có một đời sống no ấm trong một xứ sở tự do.

Tháng 11 năm 1620 là ngày lễ Tạ Ơn đầu tiên được hình thành cho cộng đồng người da đỏ bản xứ và người di dân đến từ nước Anh. Họ tổ chức một buổi tiệc Tạ Ơn để người Di Dân Hành Hương có dịp bày tỏ lòng tri ơn cuả họ, cảm ơn Thượng Đế đã cho họ được gặp những người địa phương đầy lòng từ tâm, đã giúp họ một cuộc sống mới nơi mà họ đã phải đánh đổi bao nhiêu gian nan để tìm kiếm”. Đó là câu chuyện phần lớn người Hoa Kỳ được biết về Ngày Lễ Tạ Ơn, vì ngay từ nhỏ họ đã được giảng dậy như vậy.

Ngày Lễ Tạ Ơn Đầu Tiên thực sự
Tuy nhiên có một số người Hoa Kỳ không nghĩ là câu chuyện xảy ra đã lại giản dị và hoàn toàn tốt đẹp như vậy. Họ là hậu duệ của những người Da Đỏ. Một trong những người này là ông Chuck Larsen. Ông là con cháu người Da Đỏ khi xưa. Trong huyết quản của ông, một người lai căng, có có dòng máu Pháp Quebecois, dòng máu thổ dân Da Đỏ Ojibwa, và thổ dân Iroquois. Ông cũng là một nhà giáo dạy Tiểu học. Ông cũng đã từng nghiên cứu Sử học, viết sách về lịch sử nước Hoa Kỳ và người thổ dân Da Đỏ cũng như về người Hoa Kỳ gốc Da Đỏ. Đối với ông, mỗi lần đến Mùa Tạ Ơn, ông bị rất nhiều khó khăn, không biết phải làm thế nào.

Năm 1986, ông viết: “Là một người Da Đỏ, mà cũng là một giáo viên đã dậy học 12 năm, Mùa Lễ Tạ Ơn không bao giờ là một ngày lễ dễ xử cho tôi khi phải dậy các em. Đôi khi tôi cảm thấy tôi đã biết quá nhiều về người “Anh Di Dân Hành Hương, (Pilgrims) và người Da Đỏ”. Cứ mỗi năm tôi lại phải đối diện với sự mâu thuẫn: một bên là lương tâm nghề nghiệp, một bên là lòng chân thành đạo đức. Tôi làm thế nào để có thể vừa là một người lương thiện thẳng thắn vừa là một nhà giáo cho biết thông tin đầy đủ cho các em học trò lớp tôi dậy, nhân ngày Lễ Tạ Ơn, mà không bị vướng vào những sự bóp méo lịch sử và cách diễn tả con người rập theo một mẫu sẵn.”
Theo cô Susan Bates, cũng là hậu duệ của người Da Đỏ thì chuyện Ngày Lễ Tạ Ơn trong đó những người Di Dân Hành Hương Pilgrims và người Da Đỏ vui vẻ cùng nhau ngồi ăn chung một bữa tiệc lớn là một chuyện có xẩy ra thật, nhưng chỉ xảy ra có một lần. Chuyện Lễ Tạ Ơn đã thực sự xảy ra rắc rối và bi thảm hơn nhiều.

Cô viết trong trang The Real Story of Thanksgiving (Chuyện Lễ Tạ Ơn đích thực) như sau:

“Chuyện này bắt đầu xảy ra năm 1614 khi một nhóm những người thám hiểm người Anh đi thuyền về Anh chở theo rất đông người Da Đỏ bộ tộc Patuxent mang về để làm nô lệ. Bọn họ ra về nhưng để lại bệnh đậu mùa, một căn bệnh hầu như đã giết chết hết những người Da Đỏ đã chạy thoát. Khi người Di Dân Hành Hương Pilgrims đến eo biển Massachusetts, họ chỉ còn thấy một người Da Đỏ bộ tộc Patuxet còn sống.Người này tên là Squanto, từng thoát khỏi bị làm nô lệ bên Anh, mà cũng biết tiếng Anh. Squanto dậy cho người Di Dân Hành Hương (Pilgrims) cách trồng ngô, cách đánh cá. Anh ta còn điều đình được một cuộc hòa giải giữa người Di Dân Hành Hương (Pilgrims) với bộ tộc Da Đỏ Wampanoag. Một năm sau, (năm 1620), những người Di Dân Hành Hương bèn tổ chức ra một bữa tiệc lớn để vinh danh Squanto và bộ tộc Da Đỏ Wampanoag. Đó là lễ Tạ Ơn Đầu Tiên vậy.
Khi người Anh tại chính quốc biết tin là đồng bào họ đã tìm thấy thiên đàng trên vùng đất mới, một số người Anh ngoan đạo và rất sùng tín cực đoan, bọn Thanh giáo đồ (Puritan's), bèn kéo nhau sang thật đông. Đến nơi khi họ thấy không nơi nào có rào dậu, họ bèn coi đó là đất hoang cho tất cả mọi người, Cùng với những người Anh đến trước, họ chiếm lấy đất đai, lùng bắt những thanh niên Da Đỏ để làm nô lệ và giết hết những dân

 

Da Đỏ còn lại.
Thế nhưng bộ tộc Pequot đã không đồng ý với hiệp ước hòa giải mà Squanto đã điều đình được. Họ chống đối lại người Anh. Cuộc chiến tranh Pequot đã là một cuộc chiến tranh tàn khốc nhất của người Da Đỏ từng làm.

Năm 1637, ở gần một nơi bây giờ là Groton, tiểu bang Connecticut, lối trên 700 người Da Đỏ, đàn ông, đàn bà, trẻ con thuộc bộ tộc Pequot đến hội họp để làm lễ Hội Trồng Ngô Xanh (Green Corn Festival) hằng năm, cũng là lễ Tạ Ơn của chúng ta. Trời chưa bừng sáng, dân Da Đỏ còn đang mơ màng giấc điệp thì bọn lính đánh thuê người Anh và người Hòa Lan tiến vào bắt họ phải ra ngoài. Người Da Đỏ nào đi ra thì bị bắn chết hay đập chết, trong khi những đàn bà trẻ con Do Đỏ chạy trốn trong lều thì bị thiêu sống.

Ngày hôm sau, ông Thống đốc thuộc địa eo biển Massachusetts tuyên bố ngày hôm đó là Ngày Tạ Ơn, vì 700 người Da Đỏ không khí giới, đàn ông, đàn bà, trẻ con đã bị tàn sát. Say men “chiến thắng”, những người Anh đi kiếm thuộc địa và những người Da Đỏ về hùa theo họ đã tấn công các làng Da Đỏ, làng này sang làng khác. Đàn bà và trẻ con trên 14 tuổi được bắt đem đi bán làm nô lệ, trong khi tất cả những người còn lại thì bị giết chết.

Từng chuyến thuyền chở tới 500 nô lệ Da Đỏ đều đều rời hải cảng vùng New England. Người ta còn trả tiền cho những da đầu lột từ người Da Đỏ, hầu khuyến khích việc tàn sát. Sau khi cuộc tàn sát những người Da Đỏ bộ lạc Pequot thành công ở vùng đất bây giờ là Stamford, Connecticut, nhà thờ (Thiên Chúa giáo) đã tổ chức một ngày Tạ Ơn thứ hai để ăn mừng chiến thắng chống bọn Da Đỏ mà người ta gọi là “bọn mọi dã man” (savages).

Trong bữa tiệc, người ta đã chặt đầu dân Da Đỏ đem ra đá như đá bóng vậy. Cả người Da Đỏ bộ lạc Wampanoag trước vẫn tỏ ra thân thiện với người Anh cũng chịu chung số phận. Tù trưởng Wampanoag(1) cũng bị chặt đầu và cái đầu được cắm vào một cái cột ở Plymouth, Massachusetts, suốt trong 24 năm cho mọi người xem. Thế là cứ mỗi khi tàn sát song người Da Đỏ, người Di Dân Anh lại tổ chức một bữa tiệc Tạ Ơn ăn mừng. Sau cùng (năm 1789), Tổng thống George Washington đề nghị mỗi năm chỉ để ra một ngày (ngày thứ Năm 2 6 tháng 11) để làm Lễ Tạ Ơn thôi, thay vì làm lễ Tạ Ơn mỗi khi thành công trong chuyện tàn sát người Da Đỏ. Về sau ( năm 1863), Tổng thống Abraham Lincoln ký sắc lệnh tuyên bố ngày Lễ Tạ Ơn là ngày nghỉ lễ cho toàn dân, ngay cả khi trong nước đang có nội loạn. Cũng chính ngày hôm ấy, Abraham Lincoln đã ra lệnh cho quân đội tấn công bộ lạc Da Đỏ Sioux đang đói rét tại Minnesota.

                                                                                                                                       Số phận người Da Đỏ
Đó là số mạng của dân Da Đỏ khi Hoa Kỳ mới lập quốc. Sau đó thì sao? Người ta chỉ có thể nghĩ đến những cụm từ không lấy gì làm tốt đẹp như: tận diệt, diệt chủng, đồng hóa, cưỡng bách, cải đạo v.v…
Nhân vật chánh trị có gương mặt gần cận nhất cũng như là có trách nhiệm cao nhất ảnh hưởng đến số phận của dân Da Đỏ là tướng Andrew Jackson (1767–1845). Tướng Andrew Jackson, Tổng thống thứ 7 HK Andrew Jackson là tướng chỉ huy quân đội Hoa Kỳ từ năm 1815.
Sau đó làm Thống đốc quân sự ở Florida (1821). Ông đã làm Tổng thống thứ Bẩy của Hoa Kỳ từ năm 1829 đến năm 1837. Ông là người chủ chương duy trì “ chế độ nô l ệ ” và nhất là chính sách “ Bứng mọi Da Đỏ ” (Indian Removal). Ông nổi tiếng là rất cương quyết cho nên có hỗn danh là “Old Hickory(2)”. Có thể tạm dịch: ông Jackson là “Thiết đầu kim cương’ hay “Kim Cương bất hoại”. Ngay trước khi làm Tổng Thống, ông đã thương thuyết với nhiều bộ lạc Da Đỏ để tìm cách đưa họ đi về miền Tây là nơi mà người Anh da trắng chưa đến chiếm ngụ.

Các bộ lạc Da Đỏ đã không thống nhất trong đường lối đối xử với người Âu châu, trước hiểm họa bị cướp đất, bị tận diệt. Có bộ lạc chủ trương phải chống lại, có bộ lạc thấy cuộc chiến vô vọng vì ưu thế khí giới của người Âu Châu, và sau nhiều lần thất bại. Bởi vậy, người Hoa Kỳ, nhất là Tổng Thống Jackson, nhìn thấy nhược điểm của người Da Đỏ, đã nhất quyết đẩy mạnh chính sách “ Bứng dân Da Đỏ ” đến cùng. Năm 1830, ông Jackson đưa ra quốc hội Hoa Kỳ duyệt y đạo luật mệnh danh là “ Removal Act ”. Trong khi quốc hội Hoa kỳ tranh tranh luận về dự luật “ Removal Act ” thì chính quyền tiểu bang Georgia xáp nhập đất đai của bộ tộc Da Đỏ Cherokee vào tiểu bang, trái với những thỏa ước chính phủ trung ương Hoa Kỳ đã có trước đây với bộ tộc này.

Tổng Thống Jackson tỏ ra đồng tình đồng thuận với tiểu bang Georgia. Vấn đề được đua lên Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ. Đến khi chủ tịch Tối Cao Quan tòa TCPV John Marshall Pháp Viện Hoa kỳ, ông John Marshall, phán quyết rằng tiểu bang Georgia đã có hành động vi hiến, và đất của người Da Đỏ phải trả lại cho họ, thì Tổng thống Jackson cũng không coi Tối Cao Pháp viện ra gì và không chịu thi hành án lệnh của viện này.

Nếu ở một thời điểm khác thì cách hành xử của Jackson có thể bị coi là lạm dụng quyền hành pháp và có thể bị truất phế. Nhưng ông vẫn tại vị. Người Da Đỏ phân vân không biết làm sao. Nội bộ bèn chia ra làm hai phe. Một phe nhất định không chịu nhượng đất. Phe kia, lãnh đạo bởi lãnh tụ Da Đỏ Major Ridge, chịu nhượng bộ mà chịu ký một thỏa thuận nhượng đất lấy 5 triệu đô la. Chính phủ của ông Jackson biết rõ thủ lãnh Major Ridge chỉ đại diện cho một số nhỏ bộ lạc Cherokee, nhưng coi việc đó như là xong. Chính phủ Hoa Kỳ từ nay có quyền lấy đất và tiến hành việc “ bứng ” dân Da Đỏ về miền Tây.

Nhiều bộ tộc Da Đỏ lần lượt bị “ Bứng ” trước bộ tộc Cherokee. Bộ tộc Choctaws bị càn quét và bứng vào năm 1831. Sau đó là bộ tộc Seminoles vào năm 1932. Bộ tộc Creeks vào năm 1632. Bộ tộc Chickasaws vào năm 1837 và sau cùng là bộ tộc Cherokees vào năm 1838.

Vì chính sách “ bứng ” người Da Đỏ được thi hành lần đầu tiên với bộ tộc Choctaws, và khi đó chính phủ Hoa Kỳ tổ chức rất luộm thuộm, không lưu tâm gì đến tình trạng an sinh của người Da Đỏ, cho nên người Da Đỏ đã bị đẩy đi trong một tình trạng rất thảm thương, gây chết chóc cho rất đông người Choctaws. Thế nhưng so với công cuộc càn quét dồn ép bộ tộc Cherokees mấy năm sau để bứng họ về Oklahoma thì không thấm tháp gì.

Bắt đầu công cuộc Bứng người Da Đỏ
Ngày 17 tháng 5, 1838, tướng Winfield Scott tới New Echota với 7000 quân, dủ mọi thành phần: binh sĩ, tự nguyện, nhà thầu tư nhân… thi hành lệnh của Tổng Thống Jackson, tập trung 13,000 người Da Đỏ Cherokees tại Cleveland, Tennessee, để khởi sự cưỡng ép họ đi đến miền Tây, bây giờ là Oklahoma. Ngay trước khi ra đi, 3,000 dân Da Đỏ đả chết vì bệnh tật, đói kém và rét lạnh trong trại tập trung. Nhà cửa đã bị đốt cháy, hoa màu đã bị tàn phá, trang trại đã bị Di Dân người Anh đến chia nhau bằng cách rút thăm. Dân Da Đỏ đã hết lối về, bắt buộc phải để người Hoa Kỳ dẫn đi. Khi mùa Đông năm 1838 bắt đầu, tướng Scott khởi sự di chuyển những người Da Đỏ về miền Tây, trong một cuộc hành trình dài cả ngàn cây số. Đây là một cuộc hành trình vô tiền khoáng hậu của 13,000 dân Da Đỏ thuộc Hành trình cả ngàn cây số trong sương tuyết Cherokee và với một số bộ tộc khác còn lại, đã bi cưỡng ép đi bộ từ miền Tennessee đến Oklahoma, dòng dã cả năm trời vào mùa Đông trong sương tuyết. Bốn ngàn dân Da Đỏ, phần lớn là đàn bà và trẻ con đã bỏ mạng trong khi đi đường vì đói ăn, thiếu mặc, không giầy dép, bệnh hoạn không thuốc thang chưa kể đến những đốc thúc đánh đập trong khi đi đường, trong số này có Quartile, là vợ ông tù trưởng Cherokees John Ross.

Một binh sĩ tên là John Burnett đã ghi lại trong nhật ký của ông: “ Tôi đã tham dự nhiều trận chiến khi các Tiểu bang đánh nhau trước đây. Tôi đã thấy rất nhiều người bị bắn chết. Nhưng cuộc bứng dân Da Đỏ Cherokee là một điều dã man nhất tôi chưa từng thấy…. Thế hệ tương lai sẽ đọc (dòng chữ này) và tôi hy vọng là họ hiểu cho rằng những binh nhì như tôi hay như 4 người Cherokees đã bị tướng Scott bắt phải bắn chết người tù trưởng Da Đỏ và đàn con của ông ta. Chúng tôi đã phải thi hành lệnh của thượng cấp mà thôi. Chúng tôi không có lựa chọn nào khác”.
“Trail of Tears ”
Hành trình này sau được mệnh danh là “Trail of Tears ” (hành trình trong nước mắt), dịch từ tiếng của người Cherokees: “ Nana dau Tsuny “. Về miền Tây, họ được đưa đi đâu? Đây lại là một số phận thảm thương khác của người Da Đỏ được người Hoa Kỳ dành cho họ. Họ đã bị đưa vào một loại trại tập trung khác gọi là “ Reservations”.

Nói đến “Reserva tions ” người ta chỉ nghĩ đến những cụm từ khác cũng chẳng mấy tốt đẹp: thất nghiệp trường kỳ, ngồi ăn trợ cấp, cờ bạc qua ngày, uống rượu giải sầu, đánh vợ đuổi con, bất lực và thất vọng… Khi người Anh chưa tới, dân số dân Da Đỏ ước khoảng 12 triệu người. Ngày nay số này đã chỉ còn khoảng 1.5 triệu ***

 Tuyên Ngôn Độc Lập và Dân Quyền
Dưới thời Tổng Thống Andrew Jackson Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, mới thành lập khoảng 50 năm trước thôi, trên căn bản của bản Tuyên Ngôn Độc Lập, tuyên bố ngày 4 tháng 7 năm 1776, nói rằng: “Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc (3) ” Người Hoa Kỳ đã quên đi bản Tuyên Ngôn cao quý và tốt đẹp đó, mà thản nhiên khép lại trang sử cuối cùng của một dân tộc ngây thơ, khờ dại, muốn giúp đỡ kẻ khốn cùng, mà chẳng may đã phải đối diện chung sống với một dân tộc khác, từ xa đến, dũng mãnh hơn, khôn ngoan hơn, giỏi dang hơn, nhưng nhiều kỳ thị, nhiều hiếu chiến và nhất là rất tham lam, trên một mảnh đất rộng mênh mông bao la. Mảnh đất này đáng lẽ có thể cho biết bao con người thoả chí vẫy vùng, nhưng khốn thay, dân tộc mới đến chỉ muốn chiếm dụng lấy một mình, đẩy dân tộc địa phương đến chỗ đường cùng ***

Tạ Ơn là một việc làm rất hay, cần có trong việc đối xử giữa con người. Hằng năm người Hoa Kỳ đều tưng bừng làm Lễ Tạ Ơn, mời mọc mọi người đến chia sẻ với mình của ngon vật lạ. Đó là một truyền thống rất đẹp của họ. Họ tạ ơn ai? Từ Tổng Thống George Washington đến Tổng Thống Lincoln xuống đến bàn dân thiên hạ, người Hoa Kỳ ngày ấy đã Tạ Ơn Trời Đất, gọi là “the Almighty God ”, tạ ơn Đức Chúa Trời, đã cho họ thêm nhiều của cải và phước lành. Chẳng mấy ai còn nghĩ đến phải Tạ Ơn những người Da Đỏ tốt bụng khi xưa nữa.

... Nếu Tạ Ơn là một truyền thống rất hay rất đẹp của người Hoa Kỳ, thì phải chăng Tạ Lỗi và Sám Hối cũng là một truyền thống rất hay, rất đẹp nên theo?

Tổng thống Hoa Kỳ thời Barack Obama, một vị Tổng thống được nhiều người coi là có tính tình nhân hậu, ngày 15 tháng 6, 2009 đã mời một số lãnh tụ các bộ tộc Da Đỏ vào tòa Bạch Ốc để ông nói chuyện. Trong buổi nói chuyện ông đã tỏ ý quyết tâm đổi ngược lại đường lối của chính phủ liên bang cũ, đã quên và coi thường các bộ lạc Da Đỏ. Ông cũng nói là ông rất hiểu rằng những vị đại diện Da Đỏ đến đây hôm nay đã phải “ có một lòng tin tưởng vượt bực ” khi họ nghĩ tới những sự dối trá không tuân thủ những hiệp ước đã ký kết với các bộ lạc Da Đỏ trước đây của chính phủ Hoa Kỳ. Tổng thống Obama đã biết rằng trong nhiều trại tập trung “ Indian Reservations ” tình trạng nghèo đói rất thê thảm. 80 phần trăn dân Do Đỏ không có công ăn việc làm. Bởi vậy ông thấy ông phải làm một điều gì của một người có lương tâm.

Trong chính phủ Obama đã có hai vị gốc Da Đỏ tham gia chánh quyền. Một là cô Kimberly Teehee, thuộc bộ lạc Cherokees. Cô Teehee, tiến sĩ Luật khoa Đại học Iowa, hiện là cố vấn trưởng trong ủy ban quốc gia về người Mỹ gốc Da Đỏ. Hai là bác sĩ Yvette Robideaux, 46 tuổi, trước làm giáo sư Đại Học Arizona, nay làm giám đốc Da Đỏ Y Tế Sự Vụ, trong Bộ Y Tế và An Sinh Quốc Gia. Bác sĩ Robideaux là thành viên của bộ tộc Da Đỏ Rosebud Sioux. Âu cũng là niềm an ủi cho một dân tộc xấu số.
 

Giao Chi San Jose.   giaochi12@gmail.com  (408) 316 8393

Friday, June 27, 2025

NGÔ BẮC THEO HỌC BAN TRIẾT TẠI ĐẠI HỌC VĂN KHOA SÀI GÒN TRƯỚC NĂM 1975 - tản mạn

Đây là các cảm nghĩ của tôi khi theo học ban Triết, Đại Học Văn Khoa Sàigòn trước năm 1975:

Ban Triết tại Đại Học Văn Khoa Sàigòn trước năm 1975 có lẽ là một trong các ban có ít sinh viên ghi danh theo học, được chia thành hai giáo trình về Triết Đông và Triết Tây.   Vì là trường đại học được ghi danh tự do, không có một tiêu chuẩn hạn chế nào, nên số ghi danh của Đại Học Văn Khoa rất đông, tương tự như Đại Học Luật Khoa.  Tuy số ghi danh thật đông, nhưng số sinh viên  thực sự đi học thường xuyên rất ít, càng ít hơn nữa là các sinh viên bản Triết Học.  Ngoài rất ít nam sinh viên phải cố gắng học và thi đỗ cuối năm để tiếp tục được hoãn dịch việc thi hành nghĩa vụ quân sự, các sinh viên ban Triết là những người phải có sự đam mê trong ngành học đòi hỏi sự suy tư và lý luận.  Có thể vì thế số nữ sinh viên ban Triết rất ít, nếu không nói là hiếm quý.

Chi phí ghi danh rất thấp, ai cũng có thể đăng ký, chỉ tội phải mất thì giờ để ghi danh vì số người đăng ký khá đông. 

Các giáo sư và giảng viên cũng không bắt buộc các sinh viên phải trực tiếp tham dự các buổi giảng dạy.  Phần lớn các sinh viên mua các ấn phẩm của môn học rồi tự học ở nhà và đi thi cuối khóa.  Chi phí mua sách, ấn phẩm môn học cũng rất thập chưa bao giờ là một nỗi lo của sinh viên. 

Tuy thế, các giáo sư và giảng viên ban Triết bao gồm các học giả ít nhiều có tiếng tăm trong giới học thuật Việt Nam và quốc tế. 

Điển hình như Linh Mục Lương Kim Định, một cột trụ chủ yếu của ban Triết Đông, người ký tên là Kim Định trên các tác phẩm về Triết Học Đông Phương của ông.  Linh Mục Kim Định đến dạy học bằng xe xích lô máy.  Cứ trông và nghe thấy tiếng xe xích lô máy là biết ngay có Linh Mục Kim Định, thường trong bộ áo choàng màu trắng, ngồi trên xe với dáng diệu vô cùng thoải mái.  Theo các chủng sinh sống gần Linh Mục Kim Định, Linh Mục giải thích đi xe xích lô máy vì thấy mình không muốn người lao động phải vận dụng sức mình khi đạp xe.  Mặt khác, di xe xích lô máy nhanh hơn, gió thổi mát mẻ hơn và do đó thoải mái hơn.  Hơn hai chục năm sau, tôi có đến thăm Linh Mục Kim Định tại San Jose, California.  Tuổi tác tuy đã khá cao, nhưng thần thái của Linh Mục không thay đổi bao nhiêu, và có nhìn thấy lại một áo choàng màu trắng treo trên tường nhưng Linh Mục nói đã lâu không còn cử hành lễ nghi tại Nhà Thờ.  Linh Mục nói còn ước ao sống thêm ít nhất 20 năm nữa để đủ thì giờ viết và để lại các tác phẩm mà Linh Mục cho là cần thiết.  

Linh Mục Kim Định đúng là một tác giả đã để lại một khối tác phẩm triết học đồ sộ nhất của Việt Nam và độc đáo nhất vì nhãn quan của ông về triết học Đông Phương, dù tôi chưa thấy ai làm một bản liệt kê các công trình nghiên cứu, biên khảo của ông.  Là một người được huấn luyện trong môi trường triết học Tây Phương và thần học Thiên Chúa Giáo, nhưng cái nhìn của Linh Mục Kim Định về triết học Đông Phương lại mang một đường nét dân tộc chủ nghĩa Việt Nam đến mức cực đoan, theo nhận xét của một số học giả Tây Phương.  Triết học Tây Phương, theo dòng tư tưởng từ Plato, Descartes, Pascal. Nietzsche, Kant, Kierkegaard, Kant cho đến Karl Marx, … đặt trên nền tảng duy lý, dẫn đến chủ nghĩa duy vật, được biện chứng bằng thực nghiệm.  Bởi duy lý chỉ chấp nhận những gì có thể biện luận được, thực nghiệm được hay sờ mó được, như các vật chất và chỉ chấp nhận những gì hiện thực như vật chất.  Dòng tư tưởng này sinh sản ra chủ nghĩa cộng sản của Karl Marx, khi áp dụng vào việc biện luận các giá trị kinh tế cụ thể.  Đó là con đường một chiều của tư tưởng duy lý.  Người học Triết Tây có thể nhận thấy một tác giả có thể đúng ở một khía cạnh nào đó, trong khi một tác giả khác cũng có thể đúng ở một khịa cạnh khác của cùng sự vật, cho dù hai khía cạnh có thể tương phản.  Duy lý đưa đến việc loại trừ khía cạnh đối chọi, và do đó biện luận cho sự độc tôn, độc quyền, không chấp nhận ý thức hệ nào khác.  Kết quả, chính sự khác biệt và muốn duy trì sự độc tôn về ý thức hệ đã là một nguyên nhân chính khiến loài người giết hại nhau nhiều nhất. 

          Dòng tư tưởng duy lý một chiều đó không bao giờ hiểu được và chấp nhận được lý luận của Lão Tử khi cho rằng hữu vi là một thái độ hành động, nhưng vô vi cũng là một hình thái của hành động.  Làm sao mà người học triết Tây Phương có thể chấp nhận được hai hiện tượng rõ ràng đối chọi là có thể hợp thành một, như lưỡng nghi âm dương hợp nhất ở Thái Cực.  Phải hỉểu ngược lại, chính từ Thái Cực đã phát sinh ra Lưỡng Nghi Âm/Dương.  Thoát ra khỏi cái nhìn duy lý một chiều của Tây Phương, Linh Mục Kim Định đã biện giải Triết học Đông Phương bằng cái nhìn từ cảm tính và sự suy tư của một con người mang tâm thức hoàn toàn Việt Nam.  Thái Cực ở đây chính là Con Người, con người làm chủ vận mệnh của mình và Vũ Trụ,   Đó là một học thuyết về Nhân Chủ độc đáo của Việt Nho, theo tác giả Kim Định.  Học trò của ông được dẫn dắt từ Cửa Khổng đến Dịch Kinh Linh Thể bằng các lý giải thật mới mẻ và đầy ngạc nhiên.  

          Khi được nhập vào sách giáo khoa để học tập, quyển Dịch Kinh Linh THể đã khiến các môn đồ thích thú với lý giải của Linh Mục Kim Định, khi hình dung lãnh địa phát sinh và sinh hoạt của dân tộc Việt từ miền thung lũng sông Dương Tử, với nếp sống văn minh nông nghiệp định cư, khác biệt với văn minh săn bắn du mục của người Hán ở vùng thảo nguyên miền Bắc Trung Hoa, giúp cho tác giả xác định rằng Kinh Dịch có nguồn gốc từ Việt tộc.  Đối chiếu với văn chương thế giới, phải nói Linh Mục Kim Định là một trong những tác giả đầu tiên, nếu không nói là thứ nhất, đề xuất ra tư tưởng phân biệt văn hóa/văn minh Việt tộc với Hán tộc.  Không những thế, văn hóa Việt tộc đã thuần hóa một số đặc điểm của văn hóa Hán tộc và định hình cho một triết thuyết mà tác giả Kim Định đã mệnh danh là Việt Nho, hay Triết Lý An Vi Nhân Chủ.  Theo Linh Mục Kim Định, Việt Nho không phân cách Hữu Vi với Vô Vi của Lão Trang, mà lựa chọn thái độ An Vi, an nhiên tự tại trong cuộc sống, với con người làm chủ không chỉ cuộc sống của chính mình, mà của cả Trời và Đất, tạo nên triết lý Nhân Chủ.  Nhân Chủ bao gồm cả vũ trụ, khác với Nhân Bản chỉ giới hạn ở phạm trù cá nhân.  Thật vui thích khi nghe Linh Mục dẫn giảng về triết thuyết Nhân Chủ qua câu chuyện về Lý Công Uẩn khi còn trẻ, ở chùa và ăn vụng oản cúng, bị Phật mách bảo với nhà sư trụ trì.  Kết quả Lý Công Uẩn bị đòn và uất ức.  Họ Lý bằng dùng bút viết lệnh sau lượng bức tượng đuổi Phật về xứ Thiên Trúc.  Phật hoảng sợ phải bàn thảo với nhà sư trụ trì sắp xếp lại trật tự giữa người và Trời Đất, và để Lý Công Uẩn rút lại lệnh trục xuất Phật ra khỏi chùa.  Một bài giảng không thể quên để nói về địa vị của con người trong vũ trụ.  Ý tưởng Nhân Chủ này cũng đã thấy xuất hiện lác đác trong tư tưởng Tuân Tử, Vương Dương Minh, hay ngay cả ở Mạnh Tử, nhưng không hề được thực hành như trong cuộc sống của Việt Nho, theo tác giả Kim Đinh.  Với tư tưởng Nhân Chủ, Việt tộc đã thờ phụng con người, sống cũng như đã mất.  Lễ nghi truyền tụng từ bao đời của Việt tộc quy định vái lạy người sống 2 lạy, vái lạy người chết 4 lạy, trong khi chỉ vái lạy Phật 3 lạy.  Con người cao hơn Phật, Phật cũng sinh ra là một con người  chứ không phải là Thần Thánh bên ngoài nhân loại.  Tôn thờ con người, qua tập tục thờ cúng tổ tiên, là tôn vinh sự sống, và nguồn gốc sinh ra sự sống  Triết lý Tam Tài bao gồm Thiên Nhân Địa này được thể hiện qua thi văn Việt Nam như với bài Vịnh Tam Tài của Trần Cao Vân, hay trong tôn phái Phật Giáo Tứ Ân của Hòa Hảo trong đó Ân của Phụ Mẫu là một trong Tứ Ân, trước cả ân của Tam Bảo Phật Giáo.  Linh Mục Kim Định đích danh là người đã lập ra chủ thuyết An Vi Nhân Chủ trong đó thể hiện các sắc thái độc đáo của tư tưởng Việt Nho.  

Tôi cũng có dịp may học hỏi với một tác giả cũng lập thuyết đương thời với Linh Mục Kim Định là ông Hoàng Văn Chí, tác giả quyển Từ Thực Dân Đến Cộng Sản, một tác phẩm được dịch ra hàng chục thứ tiếng và phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới.  Với bút danh là Mạc Định, ông đã biên soạn và cho ấn hành một tác phẩm nổi danh khác là quyển  Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, nói về sự thanh trừng nhóm Nhân Văn Giai Phẩm sau năm 1954.  Ông Hoàng Văn Chí đã từng giảng dạy nhiều năm tại Học Viện Ngoại Giao chuyên huấn luyện và đào tạo các nhân viên chuyên nghiệp thuộc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ tại Washington DC từ thập niên 1960.   Xin mời bạn đọc tìm đọc tác phẩm Duy Văn Sử Quan để hiểu biết về triết thuyết của một triết gia Việt Nam khác trong thời đại chúng ta.   

Linh Mục Kim Định có lần nói với tôi rằng Linh Mục có đệ trình Luận Án Tiến Sĩ về Triết Học Đông Phương tại Đại Học Sorbonne nổi tiếng của Pháp ở Paris.  Nhưng luận án này bị treo tại chỗ với lý do không có thầy chấm điểm!!! 

Linh Mục Kim Định là một người thầy thương yêu và luôn luôn muốn đùm bọc, che chở cho các học trò của ông.  Theo tôi biết, hầu như chưa có một môn đồ nào của Linh Mục bị đánh rớt, và nếu sinh vien nào có bất kỳ câu hỏi nào, Linh Mục đều tận tình và rất vui vẻ khi chỉ bảo. Trong một chuyến bay từ Sàigòn lên Đà Lạt năm 1974, tôi có dịp may mắn ngồi cạnh Linh Mục và trong suốt chuyến bay, thầy trò trao đổi ý kiến về nhiều đề tài, và tôi nhận thấy Linh Mục Kim Định có một tinh thần bao dung, khoảng khoát, sẵn sàng chấp nhận mọi sự phản biện và sẵn sàng phá chấp trên đường đi tìm chân lý.  Hơn một năm sau đó, khi gặp lại nhau trong tại Hoa Kỳ, ngoài sự mừng rỡ của việc “tha hương ngộ cố tri”, Linh Mục Kim Định vẫn giữ nguyên vẻ hồn nhiên khi thuật lại cảnh đẹp lúc được ngắm nhìn mặt trời dâng lên trên trên mặt đất phủ đầy tuyết trắng tại Alaska, nơi Linh Mục dừng chân trên đường di tản đến nước Mỹ. 

Có thể nói, ngoài Trần Đức Thảo, người cùng thời và đã từng tranh luận với Jean Paul Sartre khi cùng học tại Paris, Linh Mục Lương Kim Định là một triết gia đúng nghĩa của Việt Nam trong thế kỷ thứ 20.  May mắn hơn Trần Đức Thảo là người bị cho đi chăn bò ở Thái Nguyên sau này nên hầu như không để lại tác phẩm giá trị nào, Linh Mục Kim Định đã gây ra sự chú ý trong giới học thuật quốc tế và để lại một di sản đồ sộ gồm các tác phẩm triết học cần đến sự thâm cứu nhiều thế hệ học giả Việt Nam kế tiếp. 

Ở ban Triết Đông còn có một vị Linh Mục khiến học trò ai cũng phải ghi nhớ, đó là Linh Mục Bửu Dưỡng.  Linh Mục Bửu Dưỡng bắt các sinh viên học quyển Đại Học trong Tứ Thư của Trung Hoa, nhưng tôi cảm thấy Linh Mục hình như không theo giáo án nào cả, chỉ giảng giải ít bài trong quyển Đại Học, và nhấn mạnh hầu như trong mọi dịp đến bài học đầu tên là Đại Học chi Đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện “ và bài “chữ Thành” [sic] trong bát mục: Cách Vật, Trí Tri, Thành Ý (được giải thích là lòng thành thực, không giả dối [sic]), Chính Tâm, Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc, Bình Thiên Hạ.  Khi vào thi vấn đáp, sinh viên được chọn hoặc lên trả lời câu hỏi của thầy, hay có thể viết lại những gì mình đã học được trong trọn khóa.  Ngồi bên dưới, khi thấy Linh Mục Bửu Dưỡng chỉ đặt mỗi một câu hỏi cho học trò là cả niên khóa Linh Mục đã dạy hai chữ quan trọng nào.  Học trò đứa nào cũng trả lời là hai chữ “Chữ Thành” đều bị Linh Mục cho hay là đã trả lời sai và cho điểm dưới trung bình tức điểm rớt.  Tôi thấy vậy bèn ngồi viết lại nguyên văn hai bài về Đại Học Chi Đạo và Thành Ý chứ không lên thi vấn đáp với ông.  May mắn tôi đủ điểm để vượt qua kết quả cuối cùng của Chứng Chỉ Triết Đông. 

Sau khi kết thúc buổi thi, học trò thắc mắc và hỏi lại rằng câu trả lời đúng là gì, Linh Mục Bửu Dưỡng nói là “minh đức” trong câu “tại minh minh đức”, các anh chị học đến bậc đại học thì mục đích chính là phải làm sáng “đức sáng: minh đức.”  Các môn đồ thì thầm với nhau, “ừ bọn mình ngu quá, Linh Mục Bửu Dưỡng là người sáng lập và là Viện Trưởng Viện Đại Học Minh Đức mà bọn mình không nghĩ ra..’  Một sinh viên khác có lẽ vì tính khôi hài hơn là giận dỗi, bước ra khỏi phòng thi liền la lớn lên rằng “thầy còn thiếu hai chữ, phải là “Minh Đức Hoài Trinh”, vốn là tác giả của bài thơ được Phạm Duy phổ nhạc thành bài hát rất nổi tiếng thời bấy giờ tức bài Kiếp Nào Có Yêu Nhau.  Có sinh viên lên thi bị hỏi Thánh Augustinô nói gì về thanh niên, sinh viên này đáp lại rằng mình đi học về Triết Đông sao Linh Mục lại hỏi về Triết Tây.  Linh Mục Bửu Dưỡng cho hay muốn hỏi xem sinh viên đó nghĩ gì về thanh niên.  Vì thế, các học trò đều tôn xưng Linh Mục Bửu Dưỡng không chỉ là Cha, chủ các con chiên, mà còn là Thượng Đế đối các học trò của ông.  Nói thế cũng đúng thôi, bởi Linh Mục Bửu Dưỡng được xem là người đồng sáng lập với Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục ra ban Triết Đông tại Đại Học Văn Khoa Sàigòn từ những năm khởi đầu.  Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục là tác giả của các bộ sách mà sinh viên học triết nào cũng phải đọc và tham khảo như Lịch Sử Triết Học Đông Phương, Lịch sử Tư Tưởng Việt Nam, Thiền Học Việt Nam, Triết học Thiền của Trần Thái Tông  

Đại Học Văn Khoa Sài Gòn 1957-1975

Nhắc đến bài giảng được ưa thích của Linh Mục Bửu Dưỡng về Chữ Thành [sic] (Thành Ý) làm tôi nhớ lại một lời bình giải khác của tác giả Hoàng Văn Chí mà tôi đã hân hạnh được thụ giáo.  Theo ông Hoàng Văn Chí, chữ Thành ở đây là động từ có nghĩa là Hoàn Thành, Kiện Toàn, đúc kết … chứ không phải là danh từ chỉ tính thành thực, không gian dối.  Theo ông Hoàng Văn Chí, tính thành thật đâu có tác động gì đến việc tổng hợp các ý tưởng đã thu nhận được, đúng về mặt nghiên cứu và trước tác.  Sách vở đã truyền tụng cả hàng trăm năm nay ý nghĩa sai lạc về chữ Thành này, và cứ như thế, bao thế hệ đã hiểu sai một đề mục quan trọng trong chương trình học tập và thực hành Khổng học.   Quả thật đến giờ phút này, tôi thấy hầu hết các ấn phẩm liên quan đến bài học về Thành Ý vẫn còn tiếp tục lưu truyền sự giải thích sai lạc này!!!

Linh Mục Bửu Dưỡng tuy thế rất yêu thương và che chở cho học trò, chính ông đã can thiệp với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sửa đổi chương trình bắt các sinh viên đi huấn luyện quân sự tại các quân trường trong 1 tháng mỗi dịp hè, là việc lợi bất cập hại, tạo ra nhiều khó khăn cho các sinh viên.  Sau khi thay đổi quyết định, ở một số trường, sinh viên đã chỉ học tập quân sự tại chỗ.

Ban Triết Đông còn có các thầy như ông Giản Chi, dạy về Triết Trung Hoa, bao gồm từ Liệt Tử, Mặc Tử, Tuân Tử, Hàn Phi Tử ….các vị Thượng Tọa Phật Giáo như Thích Quảng Liên, Thích Quảng Độ dạy về Triết học Phật Giáo, ông Thu Giang Nguyễn Duy Cần dạy về Trang Tử, Lão Tử, Phật Học Tinh Hoa … Các sách giáo khoa của giáo sư Nguyễn Duy Cần thật súc tích, thể hiện sự uyên bác của ông.  Gương mặt của ông thể hiện một hình ảnh của vị “tiên phong đạo cốt”, lúc nào cũng thật hòa nhã và tận tình giảng dạy cho học trò.  Giáo Sư Lê Xuân Khoa giảng dạy về triết học Ấn Độ.  Cho đến nay tôi thấy chưa có quyển sách nào về triết học Ấn Độ hay hơn quyển Nhập Môn Triết Học Ấn Độ của ông mà các học trò được thụ giáo.  Cũng có một số tu sĩ khác của cả Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo phụ trách các môn học khác mà tôi không có dịp theo học.

Bên ngoài môi trường học thuật của Đại Học Văn Khoa, phải kể đến khối tác phẩm triết học và tôn giáo có thể nói là nhiều nhất của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, trong mục đích hiện đại hóa và Việt hóa Phật Giáo và lịch sử Việt Nam, như qua tác phẩm Văn Lang Dị Sử.  Mặt khác, trong tư tưởng của Phái Tiếp Hiện của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh cũng lấp lánh các ảnh hưởng của Triết Học tây Phương như hiện sinh chủ nghĩa thời hậu Thế Chiến II.  Một điều rõ ràng là phải nhìn nhận Thiền Sư Thích Nhất Hạnh là một nhà tư tưởng Việt Nam trong thế kỷ qua được hay biết và có ít nhiều ảnh hưởng trong dòng tư tưởng triết học/tôn giáo của Tây Phương.

Về Triết Tây,  các bài giảng về Heidegger của giáo sư Lê Tôn Nghiêm, Luận Lý Toán Học của giáo sư Trần Thái Đỉnh, về hiện tượng luận của Husserl của giáo sư Lê Thành Trị … dẫn dắt các học trò vào mê hồn trận của tư tưởng Tây Phương, mỗi học thuyết đều có vẻ hợp lý riêng biệt của nó, những khi nhìn toàn cảnh, không thể nào tạo ra một bức tranh tổng hợp hữu lý, mà ngược lại có chứa đựng  nhiều phần các sắc thái đối chọi nhau.   Tuy thích thú khám phá, các học trò khó tránh khỏi các cơn đau đầu khi lĩnh hội.  Học Triết Tây rất dễ bị “tẩu hỏa nhập ma,” bọn sinh viên chúng tôi khi đó vẫn kháo nhau như thế.

Quan trọng nhất là các giáo sư Nguyễn Văn Trung, Trần Văn Toàn …. Giáo Sư Nguyễn Văn Trung đã từng là Khoa Trưởng Đại Học Văn Khoa, Trưởng Ban Triết Tây là người đã có công giới thiệu, quảng bá các trào lưu tư tưởng và các tác giả triết học và văn chương Tây Phương cho các thế hệ môn đồ và người đọc Việt Nam trong các thập niên 1960, 1970.  Là một trí thức Công Giáo, ông đã tham gia vào các phong trào chống chiến tranh, kêu gọi hòa giải dân tộc ….trong khi giảng dạy về triết học Karl Marx tại các trường đại học.  Cho đến nay, thật khó tìm được tác phẩm nào về tư tưởng Karl Marx khúc chiết hơn các giảng khóa của các giáo sư Nguyễn Văn Trung, Trần Văn Toàn… Việc cho phép giảng dạy về tư tưởng cộng sản thời đó cho thấy khía cạnh khai phóng, tự do tư tưởng của chế độ Việt Nam Cộng Hòa ngay dù trong thời kỳ giao chiến với ý thức hệ này.

          Giáo Sư Nguyễn Văn Trung nổi tiếng hơn ngoài môi trường đại học với các tác phẩm nghiên cứu về văn học, triết học như bộ Lược khảo văn học (ba tập, 1963-1968), Vụ án Truyện Kiều (1972), Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc (1974), Trường hợp Phạm Quỳnh (1974), Chủ đích Nam Phong (1975), Câu đố Việt Nam (1986), Những áng văn quốc ngữ đầu tiên: Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản (1987), Biện chứng giải thoát trong Phật giáo (1958), Người Công giáo trước thời đại (đồng tác giả, 1961), Lương tâm Công giáo và công bằng xã hội (đồng tác giả, 1963), Nhận định (6 tập viết và in trước 1975, 4 tập sau 1975), Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam: thực chất và huyền thoại (1963), Góp phần phê phán giáo dục và đại học (1967) …

          Tôi nhớ Nhà Thơ Nguyên Sa Trần Bích Lan cũng có thời giảng dạy tại ban Triết, Đại Học Văn Khoa, nhưng tiếc không được thụ giáo ông, cũng như một số giảng viên khác.  Các môn đồ cho biết Thi Sĩ Nguyên Sa còn có tài dạy học, vì học trò rất dễ thông hiểu, và rất dễ ghi nhớ những gì ông đã thuyết giảng.

          Nhà biên khảo Đặng Phùng Quân là thế hệ thụ giáo và tiếp nối việc giới thiệu và quảng bá các tư tưởng triết học Tây Phương sau những bậc thầy như Giáo Sư Nguyễn Văn Trung, Lê Tôn Nghiêm, Trần Thái Đỉnh …  Đặng Phùng Quân sáng tác và nghiên cứu Triết trước và sau năm 1975.  Sau khi định cư tại Hoa Kỳ đầu thập niên 1980, ông tiếp tục công việc biên khảo về triết học tại hải ngoại, cộng tác mật thiết với Gió O cho đến những ngày cuối đời.  

 Ngô Bắc, Tháng 7, 2023

Khu vực góc đường Cường Để và đại lộ Thống Nhất, gồm 3 trường đại học Sài Gòn, Văn Khoa, Dược Khoa và Nông Lâm Súc trước năm 1975
photo: Gettyimages

HỒI KÝ CỦA MỘT NGƯỜI KẸT LẠI HÀ NỘI SAU 1954,

Chế độ Cộng Sản chỉ đáng nhìn bằng nửa con mắt!
Tác giả: Tựdo Nguyễn Văn Luận
Ông Hòa là cựu Sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, bị Cộng sản bắt đi tù năm 1975, sang Mỹ theo diện HO. Tôi gặp ông tại một tiệc cưới, trở thành bạn, thường gặp nhau bởi cùng sở thích, nói chuyện văn chương, thời thế, dù trong quá khứ ông sống tại miền Nam, tôi ở xứ Bắc.
Một lần tới thăm, cháu Thu Lan, con ông Hòa hỏi tôi: “Bác ở Hà Nội mà cũng đi tị nạn à ?”
Nghe hỏi tự nhiên nên tôi chỉ cười: “Cái cột đèn mà biết đi, nó cũng đi, nữa là bác!”
Thực ra tôi đã không trốn thoát được từ lần đầu “vượt tuyến” vào miền Nam. Rồi thêm nhiều lần nữa và 2 lần “vượt biển”, vẫn không thoát. Chịu đủ các “nạn” của chế độ cộng sản trong 27 năm ở lại miền Bắc, tôi không tị nạn, mà đi tìm Tự Do, trở thành thuyền nhân, đến nước Mỹ năm 1982.
Sinh trưởng tại Hà Nội, những năm đầu sống ở Mỹ, tôi đã gặp nhiều câu hỏi như cháu Thu Lan, có người vì tò mò, có người giễu cợt .
Thời gian rồi cũng hiểu nhau.
Tôi hằng suy nghĩ và muốn viết những giòng hồi tưởng, vẽ lại bức tranh Hà Nội xưa, tặng thế hệ trẻ, và riêng cho những người Hà Nội di cư.
Người dân sống ở miền Nam trù phú, kể cả hàng triệu người di cư từ miền Bắc, đã không biết được những gì xảy ra tại Hà Nội, thời người cộng sản chưa mặc com-lê, đeo cà-vạt, phụ nữ không mặc áo dài.
Hiệp định Geneva chia đôi nước Việt. Cộng sản, chưa lộ mặt là Cộng sản, tràn vào miền Bắc tháng 10 năm 1954. Người Hà Nội đã “di cư” vào miền Nam, bỏ lại Hà Nội hoang vắng, tiêu điều, với chính quyền mới là Việt Minh, đọc tắt lại thành Vẹm. Vì chưa trưởng thành, tôi đã không hiểu thế nào là … Vẹm!
Khi họ tiếp quản Hà Nội, tôi đang ở Hải phòng. Dân đông nghịt thành phố, chờ tầu há mồm để di cư.
Trước Nhà Hát Lớn, vali, hòm gỗ, bao gói xếp la liệt. Lang thang chợ trời, tôi chờ cha tôi quyết định đi Nam hay ở lại.
Hiệp định Geneva ghi nước Việt Nam chỉ tạm thời chia cắt, hai năm sau sẽ “Tổng tuyển cử” thống nhất.
Ai ngờ cộng sản miền Bắc “tổng tấn công” miền Nam!
Gia đình lớn của tôi, không ai làm cho Pháp, cũng không ai theo Việt Minh. Cha tôi làm chủ một hãng thầu, nghĩ đơn giản là dân thường nên ở lại. Tôi phải về Hà Nội học.
Chuyến xe lửa Hà Nội “tăng bo” tại ga Phạm Xá, nghĩa là hai chính quyền, hai chế độ, ngăn cách bởi một đoạn đường vài trăm mét, phải đi bộ hoặc xe ngựa. Người xuống Hải phòng ùn ùn với hành lý để đi Nam, người đi Hà Nội là con buôn, mang xăng về bán. Những toa tầu chật cứng người và chất cháy, từ chai lọ đến can chứa nhà binh, leo lên nóc tầu, bíu vào thành toa, liều lĩnh, hỗn loạn …
Tới cầu Long Biên tức là vào Hà Nội. Tầu lắc lư, người va chạm người. Thằng bé ù chạc 15 tuổi, quắc mắt nhìn tôi:
“Ðề nghị đồng chí xác định lại thái độ, lập trường tư tưởng!”
Tôi bàng hoàng vì thứ ngoại ngữ Trung quốc, phiên âm thành tiếng Việt, nghe lần đầu không hiểu, để rồi phải “học tập” suốt 20 năm, “ngoại ngữ cộng sản”: “đấu tranh”, “cảnh giác”, “căm thù” và …”tiêu diệt giai cấp”! (Thứ ngôn ngữ này tôi sẽ ghi trong ngoặc kép).
Hà Nội im lìm trong tiết đông lạnh giá, người Hà Nội e dè nghe ngóng từng “chính sách” mới ban hành.
“Cán bộ” và “bộ đội” chỉ khác nhau có ngôi sao trên mũ bằng nan tre, phủ lớp vải mầu cỏ úa, gọi là “mũ bộ đội”, sau này có tên là “nón cối”. Hà Nội “xuất hiện” đôi dép “Bình Trị Thiên”, người Bắc gọi là “dép lốp”, ghi vào lịch sử thành “dép râu”.
Chiếc áo dài duyên dáng, thướt tha của thiếu nữ Hà Nội được coi là “biểu hiện” của “tư sản, phong kiến”, biến mất trong mười mấy năm sau, vì “triệt để cách mạng”. Lần đầu tiên, “toàn thể chị em phụ nữ” đều mặc giống nhau: áo “sơ mi”, quần đen. Hãn hữu, như đám cưới mới mặc sơ mi trắng vì “cả nước” không có xà phòng.
Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số “lớp Chín hậu phương”, năm sau sẽ sát nhập thành “hệ mười năm”.
Số học sinh “lớp Chín” này vào lớp không phải để học, mà là “tổ chức Hiệu đoàn”, nhận “chỉ thị của Thành đoàn” rồi “phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!”
Họ truy lùng … đốt sách!
Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn “kiểm tra”, lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang “tập trung” tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm “phấn khởi”, lời hô khẩu hiệu “quyết tâm”, và “phát biểu của bí thư Thành đoàn”: tiểu thuyết của Tự Lực Văn Ðoàn là … “cực kỳ phản động!” Vào lớp học với những “phê bình, kiểm thảo … cảnh giác, lập trường”, tôi đành bỏ học.
Chiếc radio Philip, “tự nguyện“ mang ra “đồn công an”, thế là hết, gia tài của tôi!
Mất đời học sinh, tôi bắt đầu cuộc sống đọa đày vì “thành phần giai cấp”, “sổ hộ khẩu”, “tem, phiếu thực phẩm”, “lao động nghĩa vụ hàng tháng”. Ðây là chính sách dồn ép thanh niên Hà Nội đi “lao động công trường”, miền rừng núi xa xôi. Tôi chỉ bám Hà Nội được 2 năm là bị “cắt hộ khẩu”… đi tù!
Tết đầu tiên sau “tiếp quản”, còn được gọi là “sau hòa bình lập lại”, Hà Nội mơ hồ. Những bộ mặt vàng võ, áo quần nhầu nát, xám xịt, thái độ “ít cởi mở”, từ “nông thôn” kéo về tiếp quản chiếm nhà người Hà Nội di cư.
Người Hà Nội ở lại bắt đầu hoang mang vì những tin dồn và “chỉ thị”: ăn Tết “đơn giản, tiết kiệm”. Hàng hóa hiếm dần, “hàng nội” thay cho “hàng ngoại”.
Âm thầm, tôi dạo bước bên bờ Hồ Gươm, tối 30 Tết. Tháp Rùa, Cầu Thê Húc nhạt nhòa, ảm đạm, đền Ngọc Sơn vắng lặng. Chỉ có Nhà Thủy Tạ, đêm nay có ca nhạc, lần cuối cùng của nghệ sĩ Hà Nội.
Ðoàn Chuẩn nhớ thương hát “Gửi người em gái miền Nam”, để rồi bị đấu tố là phong cách tiểu tư sản, rạp xinê Ðại Ðồng phố Hàng Cót bị “tịch thu”. Hoàng Giác ca bài “Bóng ngày qua”, bị kết tội thành “tề ngụy”, hiệu đàn nhỏ phố Cầu Gỗ phải dẹp, vào tổ đan mũ nan, làn mây, sống “tiêu cực” hết đời trong đói nghèo, khốn khổ.
Danh ca Minh Ðỗ, Ngọc Bảo, nhạc sĩ Tạ Tấn, sau này làm gì, sống ra sao, “phân tán”, chẳng ai còn dám gặp nhau, sợ thành “phản động tụ tập”.
“Chỉ thị Ðảng và Ủy ban Thành” “phổ biến rộng rãi trong quần chúng” là diệt chó. “Toàn dân diệt chó”, từ thành thị đến “nông thôn”. Gậy gộc, giây thừng, đòn gánh, nện chết hoặc bắt trói, rồi đầu làng, góc phố “liên hoan tập thể”.
Lý do giết chó, nói là trừ bệnh chó dại, nhưng đó là “chủ trương”, chuẩn bị cho đấu tố “cải tạo tư sản” và “cải cách ruộng đất”. Du kích, công an rình mò, “theo dõi”, “nắm vững tình hình” không bị lộ bởi chó sủa. Mọi nơi im phăng phắc ban đêm, mọi người nín thở đợi chờ thảm họa.
Hà Nội đói và rách, khoai sắn chiếm 2 phần tem gạo, 3 mét vải “cung cấp” một năm theo “từng người trong hộ”. Mẹ may thêm chiếc quần “đi lao động “ thì con nít cởi truồng. Người thành thị, làm cật lực, xây dựng cơ ngơi, có ai ngờ bị quy là “tư sản bóc lột”? nhẹ hơn là “tiểu tư sản”, vẫn là “đối tượng của cách mạng”.
Nông dân có dăm sào ruộng đất gia truyền vẫn bị quy là “địa chủ bóc lột, cường hào ác bá ”!
Giáo sư Trương văn Minh, hiệu trưởng trường Tây Sơn, ngày đầu “học tập”, đã nhẩy lầu, tự tử.
“Tư sản Hà Nội” di cư vào Nam hết , chẳng còn bao nhiêu nên “công tác cải tạo được làm “gọn nhẹ” và “thành công vượt mức”, nghĩa là mang bắn một, hai người “điển hình”, coi là “bọn đầu xỏ” “đầu cơ tích trữ”, còn thì “kiểm kê”, đánh “thuế hàng hóa”, “truy thu”, rồi “tịch thu” vì “ngoan cố, chống lại cách mạng!”
Báo, đài hàng ngày tường thuật chuyện đấu tố, kể tội ác địa chủ, theo bài bản của “đội cải cách” về làng, “bắt rễ” “bần cố nông”, “chuẩn bị thật tốt”, nghĩa là bắt học thuộc lòng “từng điểm”: tội ác địa chủ thì phải có hiếp dâm, đánh đập, bắt con ở đợ, “điển hình” thì mang thai nhi cho vào cối giã, nấu cho lợn ăn, đánh chết tá điền, hiếp vợ sặc máu …! Một vài vụ, do “Ðảng lãnh đạo”, “vận động tốt”, con gái, con dâu địa chủ, “thoát ly giai cấp”, “tích cực” “tố cáo tội ác” của cha mẹ.
Cảnh tượng này thật não nùng! Lời Bác dạy suốt mấy mươi năm: “Trung với Ðảng, hiếu với dân …” là vậy!
“Bần cố nông” cắm biển nhận ruộng được chia, chưa cấy xong hai vụ thì phải “vào hợp tác”, “làm ăn tập thể”, ruộng đất lại thu hồi về “cộng sản”.
“Toàn miền Bắc” biết được điều “cơ bản” về Xã hội chủ nghĩa là… nói dối!
Mọi người, mọi nhà “thi đua nói dối”, nói những gì Ðảng nói. Nói dối để sống còn, tránh bị “đàn áp”, lâu rồi thành “nếp sống”, cả một thế hệ hoặc lặng câm, hoặc nói dối, vì được “rèn luyện” trong xã hội ngục tù, lấy “công an” làm “nòng cốt” chế độ.
Ở Mỹ, ai hỏi bạn: “How are you?”, bạn trả lời: “I’m fine, thank you.”
Ở miền Bắc VN thời đại Hồ chí Minh, “cán bộ” hỏi: “Công tác” thế nào?” Dù làm nghề bơm xe, vá lốp, người ta trả lời, “… rất phấn khởi, ra sức thi đua, lập thành tích chào mừng … các nước anh em!”
Bị bắt bên bờ sông Bến Hải, giới tuyến chia hai miền Nam Bắc, năm 19 tuổi, tôi bị “bộ đội biên phòng”giong về Lệ Thủy, được “tự do” ở trong nhà chị “du kích” hai ngày, đợi đò về Ðồng Hới. Trải 9 trại giam nữa thì về tới Hỏa Lò Hà Nội, vào xà lim. Cảnh tù tội chẳng có gì tươi đẹp, xã hội cũng là một nhà tù, không như báo, đài hằng ngày kêu to “Chế độ ta tươi đẹp”.
Cơ hàn thiết thân, bất cố liêm sỉ, người tù “biến chất”, người tứ chiến kéo về, nhận là người Hà Nội, đói rét triền miên nên cũng “biến chất”!
Ðối xử lọc lừa, gia đình, bè bạn, họ hàng, “tiếp xúc” với nhau phải “luôn luôn cảnh giác”.
Hà Nội đã mất nền lễ giáo cổ xưa, Hà Nội suy sụp tinh thần vì danh từ “đồng chí”!
Nằm trong xà lim, không có ngày đêm, giờ giấc, nghe tiếng động mà suy đoán “tình hình”. Ánh điện tù mù chiếu ô cửa sổ nhỏ song sắt, cao quá đầu, tôi đứng trên xà lim, dùng ngón tay vẽ chữ lên tường, “liên lạc” được với Thụy An ở xà lim phía trước.
Thụy An là người Hà Nội ở lại, “tham gia hoạt động “Nhân Văn Giai Phẩm, đòi tự do cho văn nghệ sĩ, sau chuyển lên rừng, không có ngày về Hà Nội. Bà phẩn uất, đã dùng đũa tre chọc mù một mắt, nói câu khí phách truyền tụng: “Chế độ này chỉ đáng nhìn bằng nửa con mắt!”
Người du lịch Việt Nam, ít có ai lên vùng thượng du xứ Bắc, tỉnh Lào Cai, có trại tù Phong Quang hà khắc, có thung lũng sâu heo hút, có tù chính trị chặt tre vầu theo “định mức chỉ tiêu”. Rừng núi bao la, tiếng chim “bắt cô trói cột”, nấc lên nức nở, tiếng gà gô, thức giấc, sương mù quanh năm.
Phố Hàng Ðào Hà Nội, vốn là “con đường tư sản”, có người trai trẻ tên Kim, học sinh Albert Sarraut. Học trường Tây thì phải chịu sự “căm thù đế quốc” của Ðảng, “đế quốc Pháp” trước kia và “đế quốc Mỹ” sau này.
Tù chính trị nhốt lẫn với lưu manh, chưa đủ một năm, Kim Hàng Ðào “bất mãn” trở thành Kim Cụt, bị chặt đứt cánh tay đến vai, không thuốc, không “nhà thương” mà vẫn không chết.
Phố Nguyễn công Trứ gần Nhà Rượu, phía Nam Hà Nội, người thanh niên đẹp trai, có biệt danh Phan Sữa, giỏi đàn guitar, mê nhạc Ðoàn Chuẩn, đi tù Phong Quang vì “lãng mạn tiểu tư sản”. Không hành lý nhưng vẫn ôm theo cây đàn guitar. Chỉ vì “tiểu tư sản”, không “tiến bộ”, không có ngày về …! Ba tháng “kỷ luật”, Phan Sữa hấp hối, khiêng ra khỏi Cổng Trời cao vút, gió núi mây ngàn, thì tiêu tan giấc mơ Tình nghệ sĩ!
Người già Hà Nội chết dần, thế hệ thứ hai, “xung phong”, “tình nguyện” hoặc bị “tập trung” xa rời Hà Nội. Bộ công an “quyết tâm quét sạch tàn dư đế quốc, phản động”, nên chỉ còn người Hà Nội từ “kháng chiến” về, “nhất trí tán thành” những gì Ðảng … nói dối!
Tôi may mắn sống sót, dù mang lý lịch “bôi đen chế độ”, “âm mưu lật đổ chính quyền”, trở thành người “Hà Nội di cư”, 10 năm về Hà Nội đôi lần, khó khăn vì “trình báo hộ khẩu”, “tạm trú tạm vắng”. “Kinh nghiệm bản thân”, “phấn đấu vượt qua bao khó khăn, gian khổ”, số lần tù đã quên trong trí nhớ, tôi sống tại Hải Phòng, vùng biển.
Hải Phòng là cơ hội “ngàn năm một thuở” cho người Hà Nội “vượt biên” khi chính quyền Hà Nội chống Tầu, xua đuổi “người Hoa” ra biển, khi nước Mỹ và thế giới đón nhận “thuyền nhân” tị nạn.
Năm 1980, tôi vào Sài Gòn, thành phố đã mất tên sau “ngày giải phóng miền Nam”. Vào Nam, tuy phải lén lút mà đi, nhưng vẫn còn dễ hơn “di chuyển” trong các tỉnh miền Bắc trước đây. Tôi bước trên đường Tự Do, hưởng chút dư hương của Sài gòn cũ, cảnh tượng rồi cũng đổi thay như Hà Nội đã đổi thay sau 1954 vì “cán ngố” cai trị.
Dân chúng miền Nam “vượt biển” ào ạt, nghe nói dễ hơn nên tôi vào Sài Gòn, tìm manh mối. Gặp cha mẹ ca sĩ Thanh Lan tại nhà, đường Hồ Xuân Hương, gặp cựu sĩ quan Cộng Hòa, anh Minh, anh Ngọc, đường Trần Quốc Toản, tù từ miền Bắc trở về. Ðường ra biển tính theo “cây”, bảy, tám cây mà dễ bị lừa. Chị Thanh Chi (mẹ Thanh Lan) nhìn “nón cối” “ngụy trang” của tôi, mỉm cười: “Trông anh như cán ngố, mà chẳng ngố chút nào!”
“Hà Nội, trí thức thời Tây, chứ bộ ! Cả nước Việt Nam, ai cũng sẽ trở thành diễn viên, kịch sĩ giỏi”.
Về lại Hải Phòng với “giấy giới thiệu” của “Sở giao thông” do “móc ngoặc” với “cán bộ miền Nam” ở Saigòn, tôi đã tìm ra “biện pháp tốt nhất” là những dân chài miền Bắc vùng ven biển. Ðã đến lúc câu truyền tụng “Nếu cái cột điện mà biết đi ….”, dân Bắc “thấm nhuần” nên “nỗ lực” vượt biên.
Năm bốn mươi tư tuổi, tôi tìm được Tự Do, định cư tại Mỹ, học tiếng Anh ngày càng khá, nhưng nói tiếng Việt với đồng hương, vẫn còn pha chút “ngoại ngữ Việt cộng” năm xưa.
Cuộc sống của tôi ở Việt Nam đã đến “mức độ” khốn cùng, nên tan nát, thương đau. Khi đã lang thang “đầu đường xó chợ” thì mới đủ “tiêu chuẩn” “xuống thành phần”, lý lịch có thể ghi là “dân nghèo thành thị”, nhưng vẫn không bao giờ được vào “công nhân biên chế nhà nước”.
Tôi mang nhẫn nhục, “kiên trì” sang Mỹ, làm lại cuộc đời nên “đạt kết quả vô cùng tốt đẹp”, “đạt được nguyện vọng” hằng ước mơ!
Có người “kêu ca” về “chế độ tư bản” Mỹ tạo nên cuộc sống lo âu, tất bật hàng ngày, thì xin “thông cảm” với tôi, ngợi ca nước Mỹ đã cho tôi nhân quyền, dân chủ, trở thành công dân Hoa kỳ gốc Việt, hưởng đầy đủ “phúc lợi xã hội”, còn đẹp hơn tả trong sách Mác Lê về giấc mơ Cộng sản.
Chủ nghĩa cộng sản sụp đổ rồi. Cộng sản Việt Nam bây giờ “đổi mới”. Tiếng “đổi” và “đổ” chỉ khác một chữ “i”. Người Việt Nam sẽ cắt đứt chữ “i”, dù phải từ từ, bằng “diễn biến hòa bình”.
Chế độ Việt cộng “nhất định phải đổ”, đó là “quy luật tất yếu của lịch sử nhân loại”.
Ôi! “đỉnh cao trí tuệ, một mớ danh từ !